← Quay lại trang sách

ANH VÀ CÁC EM

Sáng hôm 12 tháng 7 năm 1954, tôi cầm giấy gọi vô Dinh Gia Long để xem được giao việc gì. Dĩ nhiên tôi phải gặp cấp hữu quyền.

Một bạn trong Phủ Thủ Tướng bảo tôi cần yết kiến trước hết ông Ngô Đình Nhu.

Điều này hơi lạ, đối với một công chức quen theo hệ thống chánh thức. Nhưng vì đã nghe nói khá nhiều đến học lực của ông, tôi cũng muốn có dịp nhận xét.

Một tùy viên dẫn tôi ra hành lang, về phía một người đương đứng dựa cột nhìn ra vườn sau:

- Ông ấy đó.

Ông quay lại, nét mặt nghiêm nghị nhưng chợt mở rộng miệng cười khi nghe giới thiệu, và nói chuyện rất trầm:

- Ờ...vô đây cùng làm việc, chỗ anh em cả.

Ông không bắt tay: Về sau tôi mới rõ là ít khi ông theo lệ thường này đối với người trong Phủ. Tôi chú ý đến nước da sạn, mắt sắc nhưng hơi trợn, hai tai bạt thiếu ráy, má lúm đồng tiền và đôi hàm rất khỏe: Lúc cười, răng trắng soi sáng vẻ mặt chiêu đăm. Tôi còn ghi nhận những ống quần nhàu không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép da quai sờn. Y phục quá sơ sài của em một ông Thủ Tướng khiến tôi phát ngượng và lúng túng trong bộ đồ lớn của tôi.

Tôi hỏi về nhiệm vụ phải giữ?

- Ờ...cái đó để ông Bộ Trưởng trình Thủ Tướng. Liệu cùng làm với nhau.

Tôi thưa rằng anh em dặn tới hỏi chính ông.

- Không, tôi có là chi đâu! Ở đây giúp lăng quăng ông cụ vài việc lặt vặt lúc ban đầu, vì chưa có người, chớ không biết gì về tổ chức cả...

Chắc thấy tôi nghi ngại, ông lại cười trắng và nói chậm:

- Tôi có bàn giấy nào đâu, tiếp khách cũng đứng đây, ngoài hè.

Tôi bèn cáo thoát và đi tìm một cao cấp. Ông này quả quyết với tôi: Không thể định đoạt, để trình lại...ông Nhu!

Chợt ông Thủ Tướng từ phòng đi ra, ông cao cấp cùng tôi đứng dậy, và tới gần ông Diệm nói khẽ một câu.

Ông Diệm nhìn thoáng tôi, rồi gật:

- Ờ...hãy đưa tới ông Nhu coi!

Ông Thủ Tướng đi khỏi, tôi cũng đi ra, trong tai còn vẳng những tiếng ‘’ờ’’.

Bởi vậy, tôi ngán quá, và nhân dịp chính quyền sơ lập còn đương bối rối về nhiều việc ngổn ngang, tôi lẳng lặng lên Đà Lạt dạy học ít lâu, cho tới khi có lịnh kêu trở lại.

Từ khi ấy, cho tới 1958, tôi hay có dịp gặp tôi, không hẳn vì có nhiều việc liên quan đến tôi, nhưng vì ông thường phải qua phòng giấy của tôi để vào bàn luận với ông Bộ Trưởng.

Nhiều lần, ông dừng lại ngồi trước mặt tôi và nói chuyện rất tự nhiên, có khi trụt dép ghếch chân lên góc bàn. Quần áo của ông vẫn như trước kia, người lạ gặp ông có thể lầm với một nhân viên cấp dưới, thật trái hẳn với ông Diệm hay ông Luyện là những người quen phục sức chỉnh tề.

Vẻ bình dị bất thường của ông khiến tôi tự hỏi: Tuy ông không có lương bổng chi hết, chẳng lẽ nào ông Thủ Tướng để ông túng thiếu như hồi còn ở trọ một bệnh viện tư cách đây không lâu? Hay là ông lại muốn noi gương già Hồ, để được coi như hiện thân của giới cần lao hoặc của Cần Lao?

Tôi càng thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một căn phòng nhỏ hẹp trên lầu Dinh Độc Lập, tuy còn những phòng rộng lớn và đẹp đẽ hơn. Theo một người thân cận, thì ông không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng ông Diệm không nghe, quyết giữ lại để còn luôn luôn hỏi việc.

Căn cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi đã kết luận rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa vị của ông anh. Ông muốn được coi như một tư nhân đứng sau lưng ông Diệm, đem công tâm ra giúp ít nhiều vào việc tranh đấu mà thôi, chớ không nhằm chức vụ hay lợi lộc chi hết.

Cũng có lẽ, vì thái độ dễ dãi của ông Nhu hồi đó phù hợp với không khí chưa khó thở trong Dinh 1955. Chính ông Thủ Tướng cũng xuề xòa, trước mặt chúng tôi, ông cũng cởi cà vạt, sắt tay áo cho mát; một bận, gặp một nhân viên và tôi giữa cầu thang nhỏ, ông cười nhũn nhặn và đứng dẹp vào tường, ra hiệu cho đi trước. Tại bàn ăn trên lầu, hôm nào cũng thấy bày sẵn đến mười bát đĩa, khách thân trúng bữa có thể ngồi ăn liền. Một phòng rộng cạnh phòng ông Diệm được dành cho vài người tín cẩn sử dụng ngày đêm.

Song một sự vừa kể, dầu cố ý hay tự nhiên, cũng vô hiệu đối với đa số ở trong hay ở ngoài chính giới. Ngay khi ông Nhu chưa được ai gọi là ông Cố Vấn, ông vẫn bị nhân sĩ hay nhân viên thăm hỏi về mọi việc cần cấp, hoặc nhờ cậy can thiệp, chối là vô quyền cũng chẳng xong. Vả lại, hễ việc nào phải xét kỹ, là ông Diệm bảo: Đưa ông Nhu coi, hỏi ông Nhu chưa? Nếu thưa rồi, ông Diệm mới ký hoặc phê.

Ông Nhu thường tỏ vẻ bực mình, phần vì giữ ý với công chúng, phần vì ghét những việc không tối quan trọng. Có lần ông càu nhàu với nhân viên mang hồ sơ tới hỏi thì ai biết sao?’’ rồi ông bỏ lên Cao Nguyên đi săn. Ông Diệm nghe tin phàn nàn: ‘’Chẳng chịu làm chi hết, cứ đi chơi! Cố Vấn gì mà cứ đi bắn!’’

- Cố Vấn gì? Cố Vấn nào?

Ông Nhu đã nói qua điện thoại, giữa 1955, không phải để trả lời câu trên của ông Diệm, nhưng để bẻ lại khi tôi có việc cần hỏi ông, và theo lối mọi người cũng gọi ông là Cố Vấn.

Tôi chợt nhớ rằng khi tôi mới vào Phủ, thì ông Bộ Trưởng C. và cả tôi đã quen miệng gọi ông là anh.

Đến khi cần cử ông qua Pháp thương thuyết với Thủ Tướng Edgar Faure, một số người trong chánh phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chánh thức hơn là với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên hai chữ Cố Vấn đã được đem dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển nhiên.

Ông Nhu đã thành Cố Vấn Chánh Trị mà chẳng cần văn kiện nào bổ nhiệm. Thực tế ở Việt Nam thường mạnh hơn pháp lý, và pháp lý có khi thừa.

Ông cũng biết là không tránh được chức vị, song vì chưa quen, nên lúc đầu không muốn người thân cận kêu theo hai tiếng lạ tai, thì cũng như mấy bạn sinh viên ngày xưa thấy ngượng khi mới thi đậu Tri Huyện mà bị suy tôn làm Quan lớn, nhưng rồi cũng chịu đựng được hết.

Ông Nhu không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là ông hết phản đối, và dẫu viết cho ‘’Ông Cố Vấn,’’ thì cũng được Cố trả lời và gọi là Ông: Ông Bộ Trưởng, Ông Đổng Lý v.v...

Cử chỉ này báo hiệu cho tôi những sự thay đổi đáng chú ý hơn.

Ngày 26 tháng 10 năm 1955, khi ban hành Hiến Ước tạm thời, sự lạ nhất đối với tôi là bộ đồ tergal mới tinh của Cố. Cố diện sang lần đầu tiên, và lần đầu tiên chịu ra mặt dự lễ cùng các nhân viên chánh phủ, trước thềm Dinh Độc Lập.

Cách đó ít lâu, những người thân tín trước kia ăn ở ngay trên lầu, đều ra ngoài cả, các phòng được trang trí lại, và gần hết căn phía trái, - về sau bị ném bom - được nhường cho gia đình cố vấn. Rồi Cố có phòng giấy riêng, nhỏ nhưng rất kín đáo, với dụng cụ mới như quần áo, đặc điểm nữa, là vẻ diêm dúa của các ghế ngồi có đệm bọc sa tanh hồng bóng loáng, một màu sắc chỉ có thể dung thứ ở căn phòng phấn sáp của phụ nữ nhà giàu.

Khi nếp sống đổi, con người cũng đổi hay là ngược lại? Ở trường hợp ông Nhu và bà Nhu, chỉ là sự trở về dĩ vãng, của hai gia đình quan liêu trưởng giả, sau một thời kỳ tương đối khó khăn. Nhưng sự vãn hồi đó lại bị một số người coi như một biến cải của những phần tử lảng xa cương vị tranh đấu khắc khổ. Tôi nghĩ ông Nhu chỉ muốn chấm dứt giai đoạn ẩn bóng để ra mặt vào cuộc, khi đã nắm vững thế cờ.

Cả ông và bà ứng cử và đắc cử Dân Biểu. Mỗi người lập một văn phòng riêng. Sự giao thiệp với cấp chánh quyền và các giới ngoài mỗi ngày một nhiều, trực tiếp và công khai. Sau 1958, và nhất là từ 1960, số người lui tới Cố hay bà Nhu không kém hay lắm khi còn nhiều hơn số vào trình việc ông Tổng Thống. Ở nhiều trường hợp, được ông Nhu hay bà thỏa hiệp, thì khỏi xin chấp thuận từ Cụ; hoặc dù thỉnh thị ông Diệm rồi, vẫn nên báo cho ông Nhu, có khi Cố thấy cần xét lại, thì Cụ dẫu ưng rồi cũng dễ đổi ý. Lịnh của ông hay của bà, dù chỉ khẩu truyền, được tuân hành tăm tắp. Nhiều tờ trình chánh thức, và cả lắm đơn khiếu nại, vừa được gửi lên Tổng Thống vừa được sao lên Cố Vấn. Có khối công văn đệ bà, y như đối với cấp trên hoặc cơ quan hữu quyền liên hệ.

Hai người hoạt động song song, chi phối các đoàn thể công hay tư làm hậu thuẫn cho chế độ. Ông lập Thanh Niên Cộng Hòa, bà lập Phụ Nữ Liên Đới. Ông tổ chức Lực Lượng Đặc Biệt, bà tổ chức Phụ Nữ Bán Quân Sự. Bà tuyên bố, chủ tọa, khánh thành kinh lý. Ông phát động các Phong Trào Tố Cộng, học tập Nhân Vị, đề xướng và áp dụng Quốc Sách Ấp Chiến Lược. Rồi Quốc Sách bao trùm các lãnh vực. Hầu hết các Bộ Trưởng và cao cấp quân chính phải tham dự các buổi họp hàng tuần của Ủy Ban Đặc Trách Trung Ương do ông triệu tập và điều khiển, cơ quan này từ 1961 thành ra Hội Đồng Chánh Phủ đích thật, với những quyết định quy mô và cụ thể. Còn Hội Đồng Nội Các thì chỉ nhóm họp đôi khi để nghe ông Tổng Thống cho chỉ thị riêng về một vài vấn đề không mấy quan trọng.

Nên tôi không ngạc nhiên khi có bạn sửng sốt, hôm có buổi họp tại phòng ăn Dinh Độc Lập để nghe Cố thuyết trình lần đầu về Ấp Chiến Lược, cùng với dăm trăm cao cấp các Bộ Trưởng đều đứng dậy chào từ lúc Cố từ trên lầu bước xuống nơi họp, không khác nào khi đón ông Diệm. Chẳng ai bảo ai, chẳng ai đặt lệ, mà nghi thức cứ như vậy.

Tôi hồi tưởng đến người đã tiếp tôi tháng 7 năm 1954 tại hành lang Dinh Gia Long, hình ảnh xa xưa quả đã khác nhiều, cả quần áo lẫn người. Bộ Orlon lịch sự đã thay bộ đồ cũ nát, nhưng tóc sớm chấm bạc, nước da càng sạm, đôi mắt có quầng và khía, còn miệng cười trắng nhởn không xua đuổi được vẻ chán chường và mệt nhọc của hai má chảy dài, dấu vết, hay hậu quả của những quyền hành quá nặng?

Ông và bà Nhu có địa vị của một Quốc Sư và một Quí Phi. Đã có người ví bà với Evita, vợ nhà độc tài Peron, Tổng Thống Á Căn Đình. Nhiều báo Hoa Kỳ hay dùng tĩnh từ Powerful, thế lực mạnh, khi nói đến hai người.

Sự tham gia của ông Nhu được chính giới chấp nhận như một sự tất nhiên. Đối với hạng người lớn tuổi, mối liên hệ gia đình vẫn còn chặt chẽ, anh em thường được tin cậy và nâng đỡ hơn người ngoài; giả thử không dùng khi có quyền, thì chỉ muốn tránh tiếng thiên vị, hoặc vì người thân thích quá thấp kém. Nhưng nếu có kẻ giỏi, thì sao lại gạt bỏ, và ngại chi lời dị nghị khi tin rằng đương sự được việc? Nếu về nguyên tắc, mọi chức vụ phải được chánh thức giao phó, thì ở trường hợp ông Nhu sự bổ nhiệm chỉ là việc giấy tờ, một tiểu tiết không đáng kể. Thảng hoặc có điều gì đáng trách, thì phải tìm trong các thái độ và hành động của người được tin dùng.

Song người ngoài chính giới không chia xẻ quan điểm như trên. Đa số cho là những người phục vụ chế độ không có can đảm phản đối chánh sách gia đình trị mà thực ra họ chẳng tán thành. Những người thuộc các nhóm đối lập trách ông Diệm đặt tình thân lên trên nhu cầu đoàn kết quốc gia, chỗi từ sự tham chính của những nhân vật hay đoàn thể không được lòng ông Nhu, và nhắm mắt theo các mưu kế do ông em bày đặt, truất phế Quốc Trưởng, loại trừ giáo phái, thực hiện độc tài. một ít người biết năng lực của ông Nhu và sự phức tạp của tình thế, không tin hẳn vào những lời đã kích, cho rằng trên lý thuyết, ông Diệm có thể tạm dùng em ruột nếu tránh được sự lạm quyền.

Về phần bà Nhu, thì ở bất cứ giới nào trong nước dư luận trước sau vẫn vô cùng nghiêm khắc. Lời khen bà, ở miệng hay dưới bút vài nhà báo ngoại quốc, chỉ liên quan đến sắc đẹp. Còn tiếng chê bai, thì dẫu đúng hay sai cũng không thể nào kể hết.

Duy ông Tổng Thống không hiểu vì sao người ta oán ghét bà như vậy.

Ngay từ 1955, nghĩa là từ khi chưa có Quốc Hội, Liên Đới hay Bán Quân Sự, đã có lần ông chép miệng thở dài:

- Tội nghiệp, bà Nhu có làm chi đâu?

Song một người như ông, đã hiền và muốn giữ nếp sống cổ truyền, sao có thể quên điều tối kỵ trong xã hội này; dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà ông mà xen lấn vào việc chánh quyền. Sự ra mặt và bề ngoài của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của người phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị và hiền hậu; của người mẹ và người vợ Việt Nam chăm lo trước hết việc nhà. Nên đối với ông Nhu, người ta còn chịu chờ đợi việc dở hay để xét định; nhưng đối với bà, thì ngay cả sự xuất đầu lộ diện của không được tán thành hay dung thứ.

Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất của nỗi ác cảm chung, là sự mâu thuẫn giữa lối sinh hoạt của bà, và ý niệm thân thiết về phái đẹp của rất nhiều đàn ông nước Việt; người đẹp mà lại muốn khỏe và hách nữa, thì quá lắm, không chịu nổi. Nên dù phải hay trái, người đàn bà Việt Nam muốn vội sống theo gương đàn bà tiền phong (Avantgarde) Âu Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu nà những Từ Hi.

Tâm lý của số đông như vậy, nên nhiều con mắt dễ nhìn thấy những sơ hở và lầm lẫn để buộc lỗi gay go. Mỗi lời và việc làm của bà, liên quan đến đời công hay đời tư, đều là những cớ những dịp cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt.

Đầu năm 1961, một bạn Việt kiều đứng tuổi ở Ba-lê có hỏi về những sự bất lợi mà người ta gán cho bà Nhu.

Tôi đã trả lời: Có nghe nói, nhưng không biết dựa vào đâu mà xét đoán.

Anh ta kết luận rằng:

- Theo nhiều bạn ở bên này, chắc cũng có phần đúng phần không. Nhưng dù sao, nếu đã làm mang tiếng cho ông Diệm, thì bà nên tự ý lánh mình có hơn không? Vì ở chính trị phải tránh sự hiểu lầm, và bề ngoài cũng đáng kể như sự thật.

Song một người quen bà lại cho biết:

- Khốn nhưng bà ấy cứ tin rằng bà phải làm, nếu không thì chẳng ai làm một việc mà bà coi là tối cần, như huy động phụ nữ vào những công cuộc chung. Mà thực ra, phải có bề thế của bà mới lay chuyển và lôi cuốn nổi phần lớn các bà chưa chịu ra khỏi gia đình.

Một số khác, thuộc Phong Trào Cách Mạng, cũng đồng ý rằng bà có thể và nên làm việc công. Những tổ chức của bà ở thời kỳ thí nghiệm, chưa thể cho là dở cả. Nhưng họ phàn nàn: Thái độ của bà làm hại chính sách, giá thử bà dễ dãi nhún nhường, mềm dẻo thì may ra bà cũng được tin theo phần nào, ít ra không bị ghen ghét lắm. Nhưng bà nói quá mạnh, có vẻ coi thường hết mọi người, nên dù hoạt động có ưu điểm gì chăng nữa, cũng không thể đổi ngược chiều công luận.

Trong mấy năm đầu, ông Diệm không thấy các em ông có lỗi gì hết. Ông tin rằng mọi sự công kích đến do lòng đố kỵ, hoặc do mưu mô ly gián của các đối phương.

Đã vài lần, ông nói với người chung quanh:

- Bà Nhu chịu khó lắm. Đau hoài, mà cứ gắng làm việc công ích. Thiên hạ ác miệng lắm.

Nhưng rồi ông thấy cả những người chí thân cũng phản đối nhiều hành động của bà và ông Cẩn chẳng hạn, không thể giữ kín. Phải là Chỉ Đạo mới có gan lên án bà trước ông Tổng Thống. Ông Diệm hay bị trách là nhu nhược, để mặc cho vợ chồng ông Nhu làm mưa làm gió.

Ông Diệm biết xử trí ra sao? Có thật ông yếu ớt quá không? Tôi rất muốn biết rõ về hai điểm đó.

Vài người thân tín và quyền thuộc đã hiểu được nỗi khổ tâm của ông. Không những ông phân vân giữa tin tưởng riêng và dư luận chung, ông còn hay bị kẹt giữa tin tưởng riêng và dư luận chung, ông còn hay bị kẹt giữa những người ruột thịt.

Có bận ông ở Huế về, ngồi phờ rất lâu, mớ tóc đen và dài rớt cả xuống trán và mang tai; ông không nói không rằng, chỉ theo thói quen không ông suy nghĩ, nghĩa là dụi tàn thuốc lá, chưa hết nửa điếu này đã dụi và châm điếu khác để dụi nhiều hơn...

Ông muốn trong ấm ngoài êm, thì họ cứ lục đục và dằn dỗi, người nọ khích bác người kia. Ông thương tất cả, chẳng nỡ bệnh ai gạt ai. Ông cần ông Nhu hơn hết, sao mọi người cứ nhằm chặt chân tay ông?

Nhưng chẳng lẽ ông không dám có phản ứng hay sao? Ông Cẩn biết tính lưỡng lự của anh, đã bảo một người cháu: ‘’Khủng bố Tổng Thống, là nói mạnh, dọa làm bừa nếu ông chưa chịu nghe. Đồng ý hay không, bà Nhu lắm lúc đã biện thuyết quá hùng hồn trước mặt ông...

Ở những trường hợp đó, người phải chứng kiến đã ái ngại cho ông Diệm. Ông không quen mạnh dạn trước phụ nữ nói chung, lại cả nể vợ yêu của người em quí nhất, sau hết ông kém về ngôn ngữ và thiếu tài ứng đối. Nên ông chỉ cau mặt, không nghe không bác, lặng thinh trong một bầu không khí nặng nề. Rút cuộc, ông thường thở dài, hình như để tự giải thoát, giải thoát bằng tha thứ.

Ông cho là ông rộng lượng chớ không là ông chịu đựng. Bởi thế, có lần ông khuyên một Bộ Trưởng:

- Thôi, thói thường đàn bà người ta hay nhiều lời. Xong thì thôi, mình đàn ông bận tâm chi, cho nó yên mà lo việc lớn...

Nhưng tất cả vấn đề, là nếu ‘’nó’’ không yên thì sao?

Sau vụ đảo chánh hụt 1960, một đêm chuông điện thoại gay gắt khua tỉnh một nhân viên trong Phủ; anh ta choàng dậy nghe:

- A lô, đây là Sĩ Quan Tùy Viên. Thưa ông, chỉ thị của Cụ từ Đà Lạt truyền về như sau, Cụ dạy ông lấy cây viết ghi cho rõ chữ...‘’Bảo bà Nhu im mồm đi, không tuyên bố gì nữa. Bảo ngay.’’

Thật là khổ. Ai có quyền vô Dinh đánh thức bà hay ông Cố Vấn, nhất là để đưa điện văn quá đặc biệt này?

Đương sự đành đem tới Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để tùy ông tìm cách chuyển đạt.

Sở dĩ phải cấp tốc, không những vì lịnh ra bằng điện tín, nhưng là vì việc có tính cách đại bất thường: Ông Tổng Thống phải bực tức đến cực độ, không còn nể nang gì nữa, mới thốt ra lời với giọng kia.

Chẳng biết khi tung trái bom đó, ai đã nhẹ mình, ông hay là những người biết chuyện?

Có người rất lấy làm lý thú:

- Con giun xéo lắm cũng quằn. Huống hồ ông. Thỉnh thoảng ông cũng phải quát tháo đôi ba tiếng cho bầu trời đỡ nặng, cho ra vẻ Tổng Thống...

Phần vì muốn chống đỡ hộ ông Nhu, phần vì lòng tự ái không khỏi bị kích thích, ông đã cố tỏ ra cho mọi người biết rằng ông lãnh trách nhiệm quyết định trong nhiều trường hợp.

Một dự án trợ cấp được đệ lên ông. Vì ông Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống vắng mặt, người chuyên trách đem việc lãnh ý kiến ông Nhu, và trình ngay sự kiện đó, yên trí rằng như thế chắc vừa lòng ông Diệm.

Nhưng trái với thường lệ, ông Diệm dồn luôn cho một thôi một hồi:

- Ai phải xét? Phải trình ai trước? Ai là Tổng Thống? Tôi là máy ký hay sao?

Nhân viên bị quở, lủi thủi đem hồ sơ về than phiền với một đồng sự tinh khôn hơn; ông này bảo:

- Trước 1956 hay 1957, thì được. Ít lâu nay, Tổng Thống đổi nhiều rồi. Đành rằng về việc quan trọng, cần có ý kiến ông Cố, song cứ phải trình thẳng Cụ đã. Nếu Cụ thấy nên hỏi, thì tùy Cụ. Còn nếu Cụ định đoạt lấy, thì thôi. Đằng này, anh vội đi hỏi lấy, cho Cụ cảm tưởng rằng anh coi Cụ như không biết việc, không dám quyết định, chẳng trách! Có khi Cụ còn bực rằng: Người trong Phủ còn hiểu lầm, thì trách sao được người ngoài khi họ phao là Cụ chỉ bị giật dây!

Kẻ dại dột cũng thấy bạn nói có lý, nhưng chưa tin hẳn. Rồi một lần ông được ông Diệm kêu lên về một vấn đề Dinh Điền. Anh ta trình đầu đuôi việc đó, nhưng theo thói quen, ông Tổng Thống lại chẳng thiết xét, chỉ nhân dịp này nói rất nhiều về công cuộc khẩn hoang...Rồi ông kết luận:

- Dinh điền. Không có gì quan trọng hơn, mà ông Canh Nông, ông Cố Vấn cũng không nghĩ ra. Cái ông Canh Nông không ngó chi cả, nước mặn mà không biết, tôi thọc ba toong xuống cắm ngập nửa gậy. Kỹ Sư với chả Kỹ Sư. Ông Nguyễn Công Trứ không kỹ sư gì hết, làm dinh điền vùng biển ngoài Bắc. Tôi chưa coi, nhưng biết khá lắm. Chúa Nguyễn có cái công lớn là mở bờ cõi tận nơi đây. Nhưng đến Cà Mau là cụt, không biết đi đâu nữa. Mình mới nghĩ rằng mình phải tiếp tục, chính sách Hiền Vương, Võ Vương...Sáng kiến của mình (tới đây, ông cười hề, đắc chí) mà không ai chịu tỏ rõ. Cái Thông Tin còn dở lắm, ghi liền, biểu học chịu làm hơn lên. Phải có nhiều tranh ảnh. Dinh Điền. Vì Dinh Điền là của Tổng Thống, sáng kiến Tổng Thống, chớ đâu có của ông Bùi Văn Lương hay ông Cố Vấn. Ông Cố Vấn ông ấy giỏi mà không biết nhiều Dinh Điền. Các Chúa Nguyễn không biết Cao Nguyên. Mình mới biết Cao Nguyên. Mình còn tỏa rộng được hơn các Chúa Nguyễn. Mình phải mise en valeur, khai khẩn gấp. Nên tôi tính cho dân Trung lên đó lập nghiệp. Ông Cẩn cũng phải chịu mình là phải. Dân Bắc di cư không đủ. Ngày xưa, các ông Nhà Nguyễn thiếu dân, phải cho lính đi mới gọi là đồn điện. Nay mình có dân. Ơn trên cho mình dân để mình đem lên trồng tỉa. Ông Nhu không hiểu, nói đưa dân Trung lên, họ oán. Mình đem đi, mình nuôi, có cá, có kénaf, có cam, quít, bưởi. Oán chi? Sáng kiến mình phải thực hiện. Lên Ban Mê Thuột mà coi, xanh tốt lắm. Ông Nhu đi săn mà không biết sao?...

Ông muốn chứng tỏ rằng ông có nghĩ, và biết tìm ra, chớ không phải ỷ hết vào ông Nhu.

Tuy vậy, ông vẫn rất cần Cố Vấn, và hễ ông này đi vắng vài hôm, là ông sốt ruột hỏi hoài.

Nếu gom góp ý kiến của những người thân cận trong gia đình và trong Phủ Tổng Thống, hoặc lâu đời quen thuộc họ Ngô, thì có thể giải thích như sau sự quyến luyến và lòng tín nhiệm đặc biệt của ông đối với ông Nhu.

Ông vốn ít giao thiệp, lại từng bị lừa dối khá nhiều trong thời Pháp thuộc, nên thành đa nghi. Nói cho đúng hơn, ông không hay ngờ vực vì sẵn ác ý, nhưng vì không dám tin ở sự xét đoán riêng của mình mà yên lòng trông cậy vào kẻ khác.

Đến lúc phải lo đại sự, ông đành dựa vào người này cùng chịu như ông một nền giáo huấn và tín ngưỡng mà ông coi như đủ bảo đảm những đức tính căn bản tối cần.

Nhưng tại sao ông Nhu được đắc dụng hơn cả? Vì trong mấy anh em, không ai đủ điều kiện như ông này. Đức Cha Thục, vốn người tu hành, không thể gánh vác việc chánh trị. Ông Luyện có học vấn cao, nhưng chuyên về kỹ thuật, và không khắc khổ như ông Nhu, khi đặc tính này đối với ông Diệm, lại đồng nghĩa với lòng cương nghị và đức hy sinh mà ông đòi hỏi ở người lãnh trọng trách. Còn ông Cẩn, tuy có công như ông Nhu trong sự tranh đấu để giúp ông Diệm lên cầm quyền, lại học ít, tính tình liều lĩnh và ngang ngạch, chỉ biết rõ miền Trung, nằm vững được tình thế địa phương nhưng không tiếp xúc được với người ngoại quốc, thì đảm đương sao nổi những việc có tầm quan trọng quốc gia? Vả lại, trong họ Ngô Đình, tôn ti cũng cần theo đúng; ngay ở gia đình, anh phải hơn em, nên ông Luyện, ông Cẩn phải nhường bước ông Nhu.

Riêng tôi không đủ các yếu tố cơ mật để xét về toàn diện thân thế và hành động của ông Nhu. Tôi không rõ ông có làm hay không những việc có hại cho người này hay nhóm khác.

Song nếu căn cứ vào những sự từng thấy, thì đối với ông, ý niệm của tôi có thể dứt khoát hơn là đối với ông Diệm.

Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh.

Triết Lý Nhân Vị mà ông thấu triệt và tin tưởng, theo tôi không mấy quan trọng, vì tôi quen nhìn với nhỡn quan tâm đến lý thuyết cao vời. Nhưng tôi nhận rằng ông muốn tìm cho chánh sách một căn bản, cho chánh quyền một chánh sách, cho tương lai một định hướng. Khi đa số người hữu trách và ngay cả ông Diệm chỉ hay nhắm sự trước mắt và mắc việc hàng ngày, ông suy nghĩ và chỉ một mình ông suy nghĩ như trên. Nếu chế độ cầu một đầu óc, thì đầu óc, thì đầu óc đó dù sáng nhiều hay sáng ít, lại không phải là ‘’Lãnh đạo anh minh’’ của các chức từ và các bản thông tin.

Nhưng lắm phen tôi đã tự hỏi: Ông chịu nghĩ thì có tìm ra nổi gì không? Lâu dần, tôi thấy ông đã nằm trúng yếu điểm của cuộc diện: Tình trạng chậm tiến và nhu cầu phát sinh từ tình trạng này. Bi kịch của chúng ta bắt nguồn từ đó. Từ đó chúng ta suy luận, chớ không thể còn mơ tưởng từ sự tự hào về bốn ngàn năm văn hiến. Ý thức phát triển gấp rút ám ảnh ông hoài, và luôn luôn ông dựa vào đấy mà làm hay nói.

Biết tôi ưa làm thơ, một lần ông biên mấy chữ chì than và gửi riêng cho tôi: ‘’Lãng mạn không hợp với tình trạng chậm tiến. Người thức giả nên cảnh giác.’’ Tôi vẫn đồng ý với ông về nhiệm vụ của người có học đối với việc mở mang xứ sở, nhưng tôi không nghĩ rằng tìm đẹp làm thơ có thể hại đến công cuộc chung.

Bận khác, tôi đưa ông tập ‘’Lược Khảo Về Hiến Pháp Các Nước Á Đông,’’ ông phê: ‘’Đã bắt đầu được. Đi xa hơn về phương diện chậm tiến.’’ Hai chữ này được nhắc nhiều lần trên những bài diễn văn mà ông thảo cho ông Tổng Thống. ‘’Chậm tiến’’ thành động lực cho Kế Hoạch Ngũ Niên, Kỹ Nghệ Hóa, Viện Trợ Kỹ Thuật và Kinh Tế, Khu Trù Mật, Hiệp Hội Nông Dân, Ấp Chiến Lược, báo Quê Hương v.v....

Tiếc thay, ông suy tưởng hợp lý mà áp dụng không công hiệu. Nguyên do, là thiếu ở nơi ông, hai điều kiện mà tôi tạm gọi là khả năng phát huy và khả năng thực hiện.

Những ý kiến của ông không được bày tỏ rõ ràng, nên dù ông muốn phổ biến, cũng không lôi cuốn nổi nhiều người. Cũng như ông Diệm, ông nói rất kém, khi hùng biện lại là lợi khí tối cần cho chính khách muốn có ảnh hưởng bên ngoài sa lông hay các phòng giấy. Nghe ông, thì phải kiên tâm chịu đựng sự chậm rãi, dài lời, nhát gừng, loanh quanh hay mịt mùng. Thật lạ quá, ở một người có cây bút rất nhậy, đưa nổi dòng tư tưởng theo dòng mực, một mạch từ nguồn ra biển...Ông viết lẹ, ít khi phải ngừng phải xóa, cô đọng nhiều ý trong ít chữ, với những tiếng chắc nịch: Ít ra là như thế khi ông viết bằng Pháp văn. Pháp văn của ông vượt xa về mặt văn thể, của những cây viết có tiếng ở miền Nam: Nguyễn Phan Long và Vương Quang Nhường.

Trên địa hạt thực hành, ông cho cảm tưởng là lạc từ lý tưởng vào thực tế. Tổ Chức Thanh Niên Cộng Hòa là một tỉ dụ cụ thể. Ông bỏ quên giới trẻ có học ở các thành thị, tuy ông không thiếu tư cách và phương tiện hấp dẫn. Ông nhằm trước hết vào giới công chức, để phát động một phong trào cách mạng. Nhưng trong lịch sử, lịch sử mà ông thuộc hơn ai, không bao giờ có cuộc cách mạng nào do công chức cầm đầu, vì lý do rất giản dị là họ chỉ quen phục vụ theo quy củ và sống yên theo nề nếp: Không thể trách họ về các điển này, và tin thật vào bộ đồng phục màu xanh? Bộ đó không có phép lạ biến người thư ký hay ông chủ sự thành một phần thử đấu tranh. Bắt mặc thì mặc, xếp hàng thì xếp hàng, giơ tay thì giơ tay, người tùy phái của tôi vừa cười rũ vừa thay đồ và tủm tỉm xin phép ‘’đi Thanh Niên’’ rồi một lát sau về trút vỏ Thanh Niên, lại đưa giấy, mở cửa cho khách, hút thuốc và đọc báo; anh ta cũng chẳng hiểu mình cách mạng ở chỗ nào? Nhưng Cố Vấn Ngô Đình Nhu, học giả kiên chính trị gia, đã tỏ vẻ hài lòng về sự thành công của mình, khi đứng nhìn diễn hành hàng ngàn bộ đồ xanh. Tổ chức của ông có giúp được chút nào cho chế độ đứng vững hay không?

Đâu phải ông không thấu thực trạng của bộ máy chánh quyền? Nhưng ông tưởng rằng có thể vượt gấp các chặng đường, xông tới đích cách mạng mà không cần những sự cải cách chuyển tiếp. Từ 1954, chưa từng có phong trào cải tổ hành chánh một cách sâu rộng và bền bỉ, trên nguyên tắc, thì ông vẫn chấp nhận, vì ông ưa lý thuyết hay. Nhưng ông không chịu theo dõi sự tiến hành, và cũng như ông Diệm, ông không lo thu xếp cho khỏi bị công việc tràn ngập, nên ông dặn trước quên sau, mắc chứng đánh trống bỏ dùi, rồi đâu lại vào đấy. Rồi đùng một cái, ông muốn lôi cuốn rất mạnh cả khối người rất nặng của chế độ, mà chính ông đã ví với con voi tiền sử Le mastodonte administratif.

Ông đã khiến tôi tưởng tượng đến một quan cai trị xứ Pérou hay Ý Đại Lợi đột nhiên sang điều khiển xứ tôi, nghĩa là với những phương pháp không ăn nhập gì với những sự kiện đặc biệt của một chính quyền chưa chỉnh đốn.