← Quay lại trang sách

THAM NHŨNG VÀ ÔNG DIỆM

Ngày 28 tháng 7 năm 1954, nghĩa là hai mươi mốt hôm sau khi lên cầm quyền, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thừa ủy nhiệm Quốc Trưởng, ký Đạo Dụ số 18 trừng phạt nặng những sự phạm pháp trước kia chỉ bị coi như khinh tội: Phụ lạm, hối lộ và lợi dụng quyền thế.

Tới 30 tháng 8 năm 1954, ông lại ký Dụ số 25 bắt buộc các công chức mọi cấp, lúc nhận việc và hàng năm, kê khai tài sản: Nhà cửa, cơ sở thương mại hay kỹ nghệ, thuyền tàu xe cộ và các số tiền trên 20.000$ gửi các ngân hàng, đứng tên mình hay vợ con, ở Việt Nam hay ngoại quốc. Một Ủy Ban sẽ được chỉ định để theo dõi việc này, với quyền xét hỏi rộng rãi.

Đồng thời, ông ra lịnh điều tra về hành động phi pháp và tham nhũng của nhiều cao cấp dưới các chánh phủ trước.

Rồi chẳng bao lâu, một số nhân viên điều khiển, Thủ Hiến, Thị Trưởng, Tỉnh Trưởng, Sĩ Quan v.v...bị chấm dứt nhiệm vụ hoặc đưa ra Tòa Án.

Có vị mấy năm tù ở, chỉ vì bị buộc lỗi chiếm công vi tư, đúng hơn, vì trót quên chưa mang trả lại Sở một bộ từ điển và ít đồ vặt đã mượn về nhà sử dụng.

Ông Diệm cũng biết là sự trừng phạt quá nặng, song không can thiệp, vì muốn treo gương có giới công chức mà thanh danh đã mất từ lâu, ông đã được nhiều người kể cho nghe không biết bao nhiêu thành tích bất bảo: Hối lộ, biển thủ, sang đoạt, lạm quyền trục lợi, của một chánh thể mà ông tin là đã mục nát quá nhiều.

Ông muốn diệt trừ tham nhũng, không những vì nhu cầu chấn chỉnh quốc gia, nhưng còn vì tính tình khắc khổ, vì giáo lý và giáo dục gia đình đã tạo nên ông. Ông ghét cay ghét đắng những hành vi mà ông coi như trái đạo đức. Ông là một tín đồ Công Giáo thấm nhuần cả triết lý Khổng Mạnh. Ông muốn dĩ đức vi chính.

‘’Dĩ đức vi chính, như Bắc thần cư kỳ sở, nhi chừng tinh củng chi...’’ Ông thánh thời xưa dĩ đức vi chính, lấy đức làm chính sách, thì có thu hút những người hiền về chầu không, hay lại chỉ mua toàn những hạng người hiền về chầu không, hay lại chỉ mua toàn những hạng hãy nghiệm xem sao.

Nếu xét khách quan và chánh thức, thì tôi thấy từ 1954 đến 1963, hàng năm những vụ tham nhũng bị điều tra hay trừng phạt cũng không tăng hơn nhiều, so với thời Bảo Đại 1949-1954; trung bình, chỉ dăm bảy vụ đáng kể.

Nhưng chính vì thế mà dư luận càng chỉ trích chánh quyền, theo nhiều giới, kể các công chức, thì không biết bao nhiêu tội lỗi được che đậy, vì tình cảm, vì áp lực, vì tị hiềm, vì nỗi lo ngại dứt dây động rừng...

Bà con chúng bạn thường kể cho nhau nghe với nhiều chi tiết cụ thể, những chuyện rất dễ được tin: Dâng 300.000$ để chạy chân Tỉnh Trưởng; làm sổ Dân Vệ ma để lãnh phần lương trội; thâu thuế rồi bỏ túi; lãnh lương cho sở rồi biến mất; xin bán đồ phế thải của cơ quan, nhưng thực ra đem bán dụng cụ tốt để kiếm lời; ăn chặn ăn bớt phẩm vật cứu tế hay viện trợ; lãnh tiền hàng tháng của thương gia để lo việc hộ cho mau lẹ hoặc mách lối trốn thuế; bắt các xe đò nộp tiền rồi mới cho đi khỏi trạm kiểm soát; vận động cho hãng thầu ngoại quốc trúng thầu rồi nhận tạ ơn bằng một trương mục Mỹ kim hay Phật-lăng (FRF) mở tại một ngân hàng nước ngoài; bắt giam để điều tra về hành vi chính trị, nếu ‘’biết nghĩ’’ sẽ liệu tha; hạch sách để các nhà buôn trong quận lỵ mua đồ vàng tặng vô mình; lợi dụng chức vụ, để buôn thuốc phiện, ngọc thạch và hạt soàn v.v...Biết kể lại làm sao cho hết, những việc bất chính mà bao người yên trí đã xẩy ra chung quanh ông.

Ông đã chê trách các chánh quyền cũ, và trường phạn một số người lớp trước vì tội thối nát. Nay lại đến lượt chánh quyền thuộc ông và những người của ông bị dư luận lên án hay ngờ vực.

Có người đã hỏi tôi: Ông Tổng Thống có rõ thực trạng không? Nếu có, thì đã làm gì để đối phó? Hay là dung túng cho làm bậy? Hoặc không ngăn cản nổi?

Ông rất chú ý đến tác phong cử chỉ của nhân viên. Ông biết và biết rõ lắm, ông cao cấp này có bà nhỏ; ông kia có thói hách dịch, ông khác xuề xòa, hay bận áo bà ba đi nhậu phở buổi tối trên vỉa hè...Như vậy, những vụ làm tiền ăn tiền tất cũng khó qua mặt ông; thiếu gì báo cáo của cá nhân, đoàn thể hay cơ quan?

Hai năm đầu, vì muốn biết dư luận gần xa, ông rất quan tâm đến các đơn khiếu nại tố giác, bắt tóm trình hàng ngày và hễ thấy kể tội với nhiều chi tiết, là ra lịnh điều tra ngay, như khi nghe nói có sự uẩn khúc trong việc cấp giấy phép nhập cảng, ông bắt bốn quân xa lớn tới Bộ Kinh Tế chở tất cả các hồ sơ Ngoại Thương về chất đống tại Dinh Độc Lập và đòi một vị Thanh Tra xét gấp trong vài hôm...

Ông dễ tin lời tố cáo đến nỗi Cố Nhu có lần giận dỗi và lầu bầu:

- Có dùng nó thì dùng, không thì cho về, chớ cứ ngồi nghe báo cáo láo thì đứa nào nó còn chịu mần cho mình nữa?

Ông lặng thinh, nhưng từ đó bảo bỏ các thư nặc danh và truyền đơn cho các Bộ sở quan xét để trả lời hoặc trình ông sau. Và thay vì nghe đồn, ông tìm cách dò hỏi trực tiếp, gọi dần từng cao cấp lên yết kiến để ông tự mình quan sát và nhận định về thái độ và tư cách mỗi người.

Ông hay gắt nắng, hoặc bắn tin quở về các lỗi sơ xuất, cẩu thả, bị động, bất lực, ngu xuẩn, nhu nhược, thiển cận v.v...Nhưng chưa từng thấy cao cấp nào bị kêu lên mắc tội hà lạm, trục lợi, hối lộ...Hình như ai cũng trong sạch cả?

- Ai cũng ăn cắp sao? Nó tuyên truyền đầu độc, nó bôi nhọ...quá trời! Đến bà Cố Vấn mà nó cứ bêu xấu là làm áp phe ăn tiền ăn bạc. Ông Nhu nói quá, cần chi phải phân trần, mình ngay, mình mặc nó!

Ông Diệm phàn nàn như vậy, vì ông Nhu cho đăng Thông Cáo ngày 22 tháng 8 năm 1977, không hề chuyển ngân ra ngoại quốc, không tham gia thương mại kỹ nghệ tài chánh ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, không bao giờ nhận đồ lễ để can thiệp cho ai, không có ai đề nghị làm những gì bất hợp pháp.

S. biết chuyện, vội kết luận:

- Nếu ‘’bốn không’’ của bà Cố Vấn là thừa, nếu ông Diệm yên trí rằng những người thân của mình bị vu cáo, thì sẽ rất may mắn cho bọn làm tiền, từ nay khỏi bị theo dõi?

Cách đó ít lâu, một Tỉnh Trưởng bị tố là tiêu lạm nhiều khoản, mà chưa chịu chứng minh. Ông Tổng Thống bảo:

- Hắn thì hắn thiệt thà. Hắn có trình tôi là đã phải làm mấy việc xã hội cần cấp...Việc đó thì phải làm. Chắc hắn quên giấy tờ đó thôi. Khỏi làm phiền hắn.

Lại có một cao cấp khác được ông giao một số tiền khá lớn để thực hiện một công tác, rồi bị ông hỏi thì lúng túng không tính toán được rõ ràng. Hôm sau đương sự đành lên trình rằng nhân viên giữ tiền trót chi mà không cập nhật hóa sổ sách, nhưng quả quyết là không hề có sự gian trá:

- Cụ chém tôi chịu, Cụ tha tôi nhớ, chớ không khi nào dám dối Cụ, tiền đó quả đã dùng như Cụ dạy...

- Ờ, thôi được. Ông thì ông ngay thẳng, nhưng coi chừng kẻ dưới, lỡ họ làm bậy thì mang tiếng mình.

Tôi ghi nhận ở nơi ông một biến chuyển tâm lý khá rõ rệt: Từ thói đa nghi quá mức, ông đi dần mà chẳng biết, tới sự tin cẩn quá nhiều, ít nhất về phương diện liêm khiết, đối với thân quyến và những nhân viên do ông lựa chọn hoặc được dùng với sự chấp thuận của ông. Dù đôi khi ông bị thắc mắc, tâm trạng này dễ tiêu tan nếu các đương sự biết tìm lời giải thích, không cần xuất trình bằng chứng. Tôi đã nghĩ là chỉ vì ông chịu ảnh hưởng của ông Nhu, hay suy từ tình trạng ông bà Nhu mà ra tình trạng của những người tay chân ông, nghĩa là hay mắc tiếng oan. Song còn nguyên nhân nữa, thuộc bản tính và nghề nghiệp cũ của ông, do một người quyến thuộc họ Ngô cho biết:

- Ông Diệm thuộc hạng người ít có, không muốn bận tâm bao giờ đến chuyện tiền tài. Đối với ông, nói gì đến tiền tài, cũng hình như nói đến chuyện thấp kém, ông có một thứ mặc cảm đối với tiền cũng như đối với đàn bà: Tránh nói tới hay nghĩ tới. Tiền của ông, có bao nhiêu, còn hay hết, cần chừng nào cho việc này việc khác, ông cũng chẳng biết. Ông vẫn như thế, ngay từ khi ra làm quan. Mà làm quan thời xưa, ở miền Trung thì đâu có phải băn khoăn về chứng từ và thể lệ? Ông thiếu ý niệm về tài chánh, quản trị tài chánh, quản trị tài chánh, thủ tục tài chánh...

- Tôi nhớ ông đã lầm Ngân Sách với Ngân Quỹ, Ngân Khố tới 1956 mới phân biệt được, rồi có lúc quên.

- Bởi thế, ông không tỏ ra khắt khe như các cơ quan chuyên trách, đối với những sự chi tiêu của cấp hữu quyền. Thực ra, ông không thấy sự phân minh kế toán là cần thiết, thì là đủ, như Ba Tàu cho nhau mượn tiền, chớ không phải là ông cố ý dung túng cho người dưới hay người thân. Một chỗ yếu nữa của ông, là cả nể. Bề ngoài thì ra bộ hách, nhưng bên trong quả hay nể người cao cấp hay người nhà. Ông ngượng nghịu khi phải hỏi ai về tiền nong, thật trái hẳn với khi ông hạch sách về hoạt động công vụ. Nếu cho là trái đường lối của ông, hoặc là bất lực, thì ông chẳng ngần ngại cho về vườn cả Đại Sứ, Bộ Trưởng, Đại Biểu v.v...Nhưng ông chẳng cho là các vị đó có thể tham nhũng; có lần, một vị bị trình là chẳng chịu giao đủ đồ đạc khi rời khỏi nhà công; ông Tổng Thống gạt đi: ‘’người ta dẫu sao cũng chỗ người lớn, ai mà ăn bàn ăn ghế? Coi nó lạc mô tê?’’

Làm sao có thể cho ông chấp nhận rằng hạn chiếu cố đủ thứ, đã có hạm gạo, hạm giấy, hạn sắt vụn, thì có hạm rác hay hạm đĩa chén. Ông chỉ biết người ta có thể ăn tiền. Nhưng nếu phải hỏi ai về tiền nong, thỉ bản chất ông lại hiện ra, ông lúng túng như phải hỏi về vấn đề trai gái. Như trường hợp ông X lãnh trội lương, vì vô tình đã nhận cả lương ở chức vụ cũ, tuy đã đổi qua chức vụ mới. Ông Tổng Thống biết, và hứa sẽ chất vấn, nhưng lúc gặp X, lại có vẻ ngần ngại; mãi sau mới vừa cười vừa hỏi nhẹ:

- Nghe nói ông lãnh lương nhiều hơn cả tôi?...

Hôm sau, X trình rằng nhân viên hiểu lầm, cứ tính cả sổ cũ, đành xin bồi hoàn...Ông Diệm cũng chẳng bảo sao nữa và lảng ngay sang chuyện khác.

Bầu nhiệt huyết và lòng công phẫm của ông trước sự tham nhũng, sủi sùng sục khi ông lên làm Thủ Tướng, hình như mỗi ngày một bớt nóng dần. Ông quá bận rộn về nhiều việc khác hay là chán nản vì thấy nhiều khó khăn trong công việc thanh trừng?

Giữa 1956, một hôm ông nhắc phải thanh toán gấp vụ gian lận về cung cấp thực phẩm cho nhà thương Từ Dũ từ trước ngày ông chấp chánh.

Tòa án chưa kịp xử, thì xảy ra liên tiếp những vụ chấn động dư luận; vụ lấy cắp mấy triệu bạc cũ của Ngân Hàng Quốc Gia (tháng 8 năm 1956) rồi vụ bán trái phép hơn 8.000 tấn gạo tiếp tế cho miền Trung (tháng 9 năm 1956).

Ông cau mày giận bừng bừng, nhưng lắc đầu thở dài:

- Trị người cũ chưa xong, đã phải đối phó với người của mình!...

...thế thì còn trách ai? Biết trị thế nào cho hết?

Ông không nói câu sau, nhưng tôi hiểu rằng ông muốn than phiền như vậy.

Và mỉa mai thay, chính những người được ông tin dùng, lại là nạn nhân đầu tiên của Đạo Dụ 30 tháng 10 năm 1955 mà ông đã ký để phạt tử hình và tịch thu tài sản những kẻ đầu cơ.

Vài người ở gần ông, cũng có cảm tưởng là ông...thấm mệt.

Tháng 10 năm 1957, nghe nói có cờ bạc trá hình tại Hội Chợ Thị Nghè mà ông đã cho phép mở, ông ra lịnh đóng cửa ngay. Song những giới liên hệ đã khéo giải thích thế nào chẳng biết, ông lại thở dài, mà bảo cấp hữu trách: ‘’thôi, khoan.’’ Đến ngày 23 tháng 10, ông được tin dân chúng xô đẩy nhau đến nỗi cầu đổ và vài chục người thiệt mạnh. Đàng lẽ ông nổi đóa và không còn nề hà gì để chấm dứt ngay trò chơi thiếu lành mạnh. Ông chỉ bùi ngùi và dặn: ‘’phải cầu nguyện và đến cho người ta, thiệt khổ!’’ Trong số người khổ, chắc có cả ông. Lễ cầu hồn được tổ chức và một tuần, tiền thâu vô cửa được dành để bồi thường cho gia đình các nạn nhân. Rồi mãi tới ngày 6 năm 1961, giải trí trường mới bị đóng hẳn, không phải vì nạn đỏ đen, nhưng vì lý do chánh thức là nhà thầu thiếu nhiều tiền thuế, dù sao, cũng cần chỗ chứa Phụ Nữ Bán Quân Sự. Trong và ngoài Phủ Tổng Thống, nhiều người thấy hình như ông chịu một áp lực nào đó, ông không nói ra, nhưng cau mặt mỗi khi ai nhắc tới hai tiếng Thị Nghè. Thị Nghè chắc là một bà, và có lẽ vía bà dữ lắm...

Biết là ông không còn quát tháo khi xét vấn đề tham nhũng, đầu năm 1958, một nhân viên bị truy về thể lệ kê khai tài sản, đã bạo dạn thưa, đại đa số công chức chỉ coi như một hình thức phải theo lấy lệ. vì ai cũng biết là khó kiểm soát, nên hàng vạn giấy tờ chồng chất thành đống từ 1954 mà chưa ai xét cả...Nếu trình như vậy vào năm 1955, hẳn có kẻ chết với ông! Nay sau ba năm vật lộn với thực tế chánh quyền, quả nhiên ông chẳng la thét gì, chỉ nói: Giao qua Bộ Tư Pháp coi. Rồi không bao giờ ông nhắc tới nữa.

Nếu ông còn thịnh nộ, thì còn hăng hái. Lâu dần, ông buồn nhiều hơn giận: Phải chăng ông thấy vô ích, nên dành hơi để la về chuyện khác? Rác rưởi nhiều quá? Gian và tham lam tràn mênh mộng? Ông có đồng ý hay không với một Bộ Trưởng, là muốn dọn sạch thì không khác nào phải uống cho cạn nước biển muôn trùng (la mer à boire) hết lớp sóng này đến lớp sóng khác?

Tháng 3 năm 1959, vụ gian lận hơn bốn chục triệu tiền thuế lò heo Đô Thành, bị đổ bể và gây những tiếng dội vượt quá biên giới Việt Nam. Ông chỉ thị tăng gia hình phạt. Quốc Hội bèn biểu quyết lấy Đạo Luật 9/59 ngày 18 tháng 4 trừng trị các tội biểu thủ, thiện thủ, oa trữ tài vật. Ông ngỏ lời với một người thân: Mình ráng hết sức, mà nó ăn cắp nhiều thật!

Từ năm 1961, 1962, nhà thầu lớn, nhà buôn nhỏ, người bán lẻ đua nhau tăng giá vé số Kiến Thiết quá giá chính thức. Một Đạo Luật 7/62 ngày 15 tháng 3 năm 1962 lại được tung ra để ngăn chặn nạn đầu cơ mới. Sau khi ban hành, ông phàn nàn với một Dân Biểu:

- Cứ mỗi lần ăn cắp, mỗi cách ăn cắp lại phải một đạo luật sao? Biết bao giờ xong? Tôi ký quá nhiều rồi, mà nó cứ thế. Bộ Giáo Dục để nó chuyển ngân lậu cho hàng trăm du học sinh ma, chẳng biết làm chi khác từ tháng sáu năm ngoái, hay lại bắt tôi ký giấy trừ ma! Thôi, làm sao thì làm!

Cách đó ít lâu, ông kêu vài nhân vật khác lên nói chuyện cải thiện chánh quyền và xã hội.

Đại ý, là ông không còn tin mấy ở hình phạt, vì Luật Hình không đủ hiệu năng phòng ngừa nhũng lạm mà căn bịnh rất sâu xa và được coi như tàn tích Thực, Phong. Theo ông, sở dĩ sự gian trá bất lương đầy rẫy, là vì những giá trị tinh thần cổ truyền đã bị phá hoại, lễ nghĩa liêm sỉ bị các trào lưu độc hại tràn ngập, phải chấn hưng phong hóa thì rồi con người mới ngay thẳng được. Luật pháp phải nằm trên căn bản đạo đức, phải nhắm vào đạo đức trước hết.

- Nó quen thói đàng điếm, xa xỉ, ăn chơi, năm vợ bảy mèo chuột, nó phải cung ứng thì phải tìm cách bất chính kiếm tiền...

Một vị thưa: Đã có luật bài trừ mãi dâm, luật gia đình cấm ngoại hôn.

Ông cười lạt:

- Ấy vậy mà vẫn có người bên vực sa đọa. Nó đi mò điếm, bị cảnh sát lùng bắt, nó nhảy xuống ao rồi đổ tội cho Tổng Thống không hiểu chi nên hóa nghiệt. Rồi ông nớ bên Y Tế cắt nghĩa sinh lý, ông bên Quốc Phòng cũng nói cần sinh lý chi chi. Tôi cấm cờ bạc rông dài, mà nghe nói Tòa Phá Án tha mạt chược tổ tôm, kêu là giải trí gia đình. Nếu mình dung túng đồi trụy mình có lỗi với quốc gia. Dung túng cho đàng điếm, thì hối lộ biển thủ càng nhiều. Tôi đã tính đóng cửa cả đua ngựa, thì có ông kêu công quỹ sẽ mất thuế, mấy mười bốn phần trăm. Nhưng nó biển thủ tiền lương tiền thuế đi đánh ngựa, thì mất mấy phần trăm? Các ông phải bỏ lối dung túng, tha thứ. Và phải coi lại luật pháp thể lệ theo tinh thần đạo đức.

Một vị khác xin chỉ thị: Có nên bắt buộc sống khắc khổ không?

Ông không trả lời thẳng, nhưng bảo: Cấm chi thì cấm, nhưng không nên nhắm riêng lớp người lớn tuổi. Như cấm ngoại hôn, thì cũng phải, nhưng việc chỉ liên quan tới người lớn. Luật pháp dựa vào đạo đức thì phải hướng cả vào giáo dục thanh niên nữa, chớ đợi lớn tuổi mới ngăn, thì thường quá trễ.

Chủ ý của ông xem chừng đã ảnh hưởng phần nào và nội dung Đạo Luật khét tiếng 12/62 ngày 22 tháng 5 năm 1962 để ‘’bảo vệ luân lý’’.

Muốn đạt mục đích cao quý này, Luật cấm thanh niên dưới 18 tuổi hút thuốc lá, uống rượu trên 12 độ, xem phim ảnh kịch tuồng dành cho người lớn; cấm phá thai, ngăn cản thụ thai bằng cách không tự nhiên, nhảy đầm và nhảy trái tuần phong mỹ tục, thi sắc đẹp, đồng bóng, phù phép, đấu võ, mua dâm bán dâm, chứa dâm, quyến rũ đàn ông đàn bà...Ngoài luân lý ra, Luật còn bảo vệ cả súc vật vì cầm đấu súc vật với mục đích trục lợi (điều năm).

Từ nay, xã hội Việt Nam có hy vọng lành mạnh trong sạch?

Ngày 5 tháng 6 năm 1963, một số người bị trừng phạt vì mua bán bài thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, kỳ ngày 27 tháng 4 năm 1963.

Từ 1956, tham nhũng đã thành câu chuyện hàng ngày ở nhiều giới và giữa các gia đình. Người ta tìm nguyên nhân, gán trách nhiệm, hoặc nghĩ biện pháp đối phó, và cũng như đối với các vấn đề trọng yếu khác, phê bình nhiều hơn là đề nghị.

Theo số đông, thì nhà dột bao giờ cũng từ nóc, gương xấu dọi từ trên. Nếu chẳng ai ngờ vực ông Diệm, thì rất nhiều người trách ông chịu đựng cho một số thân nhân gây tai tiếng vì can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động kinh tài. Ông để mặc họ góp vốn, buôn bán, hoặc nâng đỡ cho kẻ khác doanh lợi.

Song nhiều người thuộc các đoàn thể ủng hộ ông, tin rằng họ có quyền tổ chức những cơ sở thương mại, sản xuất v.v...và nếu họ dành lợi cho đoàn thể có phương tiện hoạt động, thì đó cũng là quyền của họ. Trên bình diện lý thuyết chánh trị, không ai bắt bẻ được. Song những nhóm đối lập và giới doanh nghiệp đều cho rằng trong thực tế, họ dựa vào thế lực ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn...mà giành quá dễ dàng những mối lợi lớn, gây sự bất công và cạnh tranh bất chính. Lại còn nghi vấn, là họ kiếm chác để phụng sự lý tưởng hay chính bản thân họ và những người ban đặc ân cho họ?

Ông T. thuộc một chi phái Đại Việt, đã quả quyết:

- Chính vì phải làm ngơ cho họ, mà ông Diệm không quyết tâm diệt trừ tham nhũng. Hẳn ông biết thừa người của mình còn đáng lên án, thì chẳng lẽ mạnh tay với kẻ khác?

S. cũng hỏi tôi:

- Nếu ông Diệm hay buồn bực, chắc vì nỗi u ẩn đó.

Dù sao, ông bị coi là nhu nhược trướng sự thao túng của những người mưu lợi ở quanh ông; đó là xét đoán của các nhân vật chống đối, cũng như của một số người thực lòng muốn giúp ông, kể cả vài thân hữu mỹ đã từng ủng hộ ông từ trước 1954. Uy tín của ông vì thế mà suy giảm nhiều.

Nhiều lần, S. có hỏi tôi nghĩ sao. Thấy tôi lặng thinh mãi, S. nói với giọng an ủi:

- Tôi biết. Cậu cũng bị hoang mang, khó chối cãi một tình trạng rõ rệt, nhưng cậu chưa muốn nhìn nhận. Ba mươi năm qua, chúng ta đã thấy nhiều dơ bẩn. Nên khi gặp một người sạch sẽ, cậu không nỡ nghĩ xấu, không muốn người đó bị vấy bùn. Nhưng này, nếu đòi hỏi một pho tượng trắng, thì trở lại nghệ thuật mà tìm đẹp...

Tôi chỉ đồng ý với S. về một điểm: Ông Diệm muốn trừ tham nhũng mà hành động của ông không đủ quyết liệt. Tôi biết hơn S. là mỗi khi ông quan tâm đến việc gì, thì cật vấn từng chi tiết, nhắc hoài và giục như giục tà, nhiều lần nhân viên phải bực bội; ông lại có trí nhớ rất dai, không hề quên những gì đã khiến ông chú ý. Nhưng đối với sự thanh trừng thì khác, ông không gay gắt và không xô đẩy.

Duy tôi không chắc hẳn vì ông cố ý dung túng, hay tại việc khó quá?

Tôi hỏi S. xem ở địa vị ông, thì anh làm thế nào?

- Bắt các người thân tín và đoàn thể của mình theo đúng luật lệ, không cho hưởng sự ưu đãi hay đặc quyền nào; cấm ngặt dùng danh nghĩa đoàn thể mà trục lợi và làm giàu. Đó là vấn đề tổ chức nội bộ, tuyển nạp, huấn luyện, và kiểm soát. Kỷ luật phải đanh thép; người của mình làm bậy, càng bị trừng phạt năng. Rất khó đấy, vì không có lợi riêng thì chẳng mấy kẻ theo. Vì lý tưởng mà hy sinh, may ra được một dúm cán bộ trung kiên, còn hầu hết bốn xu vì miếng đỉnh chung. Tôi nhấn mạnh là rất khó. Nhưng nếu chưa rèn đúc nổi, không nắm vững được thì chớ vội tung ra để gieo tai tiếng cho mình. Trị được người của mình đã, rồi mới thẳng tay được với người ngoài. Và bấy giờ hãy nói đến các biện pháp chống tham nhũng. Biện pháp của ông Diệm cho ra, chẳng thiếu gì, mà kẻ gian càng hoàn hành. Luật lệ bị coi thường, vì lý do dễ hiểu nhất, là chúng yên trí rằng khéo xoay thì thoát, có thế lực thì vô can. Cấp hữu trách chỉ bị một lần áp lực, là về sau ngần ngại trừng phạt hay tố giác: Khôn hồn thì đánh chó phải ngó chúa, động phải người của Cậu hay của Ông không khéo bị lôi thôi. Cấp dưới chỉ nghe hay thấy vài chuyện bất hợp lệ được thừa nhận hoặc phải ưng thuận, cũng tin và phao ngay rằng cấp trên chẳng ngay thẳng hơn mình, không ai cũng dại, có dịp đừng để lở, hoặc tạo dịp mà kiếm lời. Trong hoàn cảnh và tâm trạng đó, mỗi sự cấm đoán, mỗi thể lệ kiểm soát, mỗi điều kiện chấp thuận, thành một cớ cho người hữu quyền đòi hỏi sự đền bù. Thành thử phải tỏ cho mọi cấp thấy luật lệ và luật lệ, không theo thì về vườn hoặc ngồi tù; khi đó, hãy ban hành mới đỡ tốn công soạn thảo.

Như vậy, S. không đồng ý với ông Diệm về vai trò luật pháp? Ông không tin tưởng lắm vào luật, cho là bất túc nếu không vô hiệu. Còn theo S. sở dĩ luật mất sức mạnh, chính vì những người có uy thế hay trách nhiệm đã gây nên tâm lý coi thường cả luật.

S. cũng chấp nhận như ông Diệm, rằng luật không cho phép chữa dứt trọng bịnh tham nhũng đã ăn sâu như ung thư vào các bộ phận chánh quyền và cơ cấu xã hội: Cần có phương thuốc tinh thần. Song phương thuốc đó, đối với S. và cả tôi, không phải là sự bảo vệ Luân Lý bằng cách cấm hút thuốc và cấm chôi gà...

Thật ra, ông Diệm không bảo cấm như thế. Ông hút thuốc lá từ hồi trẻ và nay dùng mỗi ngày một vài bao. Ông chỉ muốn nói rằng phải tập cho có nếp sống đơn giản, ít nhu cầu, ít khát vọng vật chất, thì mới khỏi tham, và tham thì dễ thành gian. Ông thường nhắc cha anh phải dạy cho con em tránh đua đòi, và muốn vậy, họ phải treo gương, đừng bê tha cờ bạc trai gái. Tóm lại, ông muốn người ta chăm sóc giáo dục gia đình để cải thiện xã hội và bảo tìm cách thực hiện.

- Ông Tổng Thống vạch chánh sách và nguyên tắc. Người thừa hành phải tìm phương thức nào thích ứng mà áp dụng. Đừng lặp lại từng tiếng của ông khi ông nói chuyện cắt nghĩa, rồi đổ tội cho ông. Cấm thì cấm hết, cấm con mà cho phép bố, nghĩa gì?

Ông Nhu đã nhắc đi nhắc lại điều như trên ít ra chục lần từ năm 1955.

Nhưng việc hoàn tất dự thảo luật 12/62 đã được sự tham gia của văn phòng bà.