NHỮNG MỘNG KHÔNG THÀNH
Đòi lại hết phần chủ quyền còn bị giữ với những công sở chưa chịu chuyển giao; buộc quân đội viễn chinh Pháp phải triệt thoái mau lẹ; rút khỏi Liên Hiệp Pháp và nghị viện Liên Hiệp Pháp; tách rời đồng bạc khỏi đồng Phật-lăng...Ông Nhu kiểm điểm công việc và cho là Việt Nam đã hoàn toàn độc lập.
Nếu chỉ căn cứ vào các sự kiện kể trên, thì khó lòng chối cãi kết quả đã thâu lượm. Tuy nhiên, trong Phủ Tổng Thống, vẫn có kẻ chưa thỏa mãn.
Số là một hôm lên Phi Trường Tân Sơn Nhất tiễn chân ông Diệm kinh lý, anh ta có dịp qua phía hành khách, và liếc mắt thấy một tờ yết thị cũ dán đã lâu mà còn nguyên vẹn: Trong các điều cấm, có khoản cấm mang chó lên phi cơ, ký tên: Cao Ủy Pháp Quốc Bollaert.
Một sự xâm phạm trắng trợn chủ quyền quốc gia? Không, đây chỉ là duy trì luật lệ cũ, được mọi chánh thể cho phép, trong những thời gian chuyển tiếp, theo nguyên tắc liên tục hành chánh, khi chờ đợi ban hành những luật lệ mới.
Sự chờ đôi này, kể cũng hơi lâu. Bộ Công Chánh làm gì chẳng có thời giờ soạn và ký một bản thể lệ khác, và nếu vẫn muốn cấm thì cấm bằng tiếng Việt, hà tất cứ để bản tiếng Pháp của đại diện chánh quyền Pháp?
Kẻ quan sát đã muốn tố Bộ sở quan thời đó, song ngờ rằng chẳng riêng gì Bộ này sơ xuất, nên chỉ nhắc khéo để Bộ thay đổi cho khỏi chướng mắt người Việt Nam hay ngoại quốc qua lại trường bay. Rồi anh ta chú ý đến cả các văn kiện lập quy thuộc các cơ quan khác, thì quả thiệt có sự lạ lùng cần phải nói ra.
Bộ Tài Chánh cấm lưu hành những con niêm và tín chỉ cũ, nhưng phải dựa vào quyền gì? Không phải dựa vào sự chấp thuận của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, mà vào nghị định ngày 6 tháng 11 năm 1929 của Toàn Quyền Pasquier.
Tổng Nha Bưu Điện tái lập Bưu Cục Đông Hà, Trưởng Ty được hưởng phụ cấp dầu đèn than củi, không phải vì đặc ân của chánh quyền Việt Nam, song nhờ có nghị định Pháp ngày 22 tháng 3 năm 1944.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký Sắc Lệnh 37/TC ngày 18 tháng 1 năm 1958 định hối xuất đồng bạc; khi quyết định như vậy, ông phải viện dẫn các thể lệ căn bản do Tổng Thống Lebrun và Toàn Quyền Catroux ấn định và áp dụng từ 1939: Không khác nào các Bộ Trưởng ký nghị định thường phải chiếu các sắc lệnh của Ông.
Quan trọng hơn nữa, là các Bộ Luật Dân Sự, Hình Sự, Tố Tụng, Thương Mại v.v...đều do các nhà cầm quyền Thuộc Địa hay Bảo Hộ ban hành từ 1883, 1912, 1917, 1931...
Kẻ tò mò bèn đem chuyện này kể cho ông Nhu, xem ông nghĩ sao?
Phản ứng của ông rất lẹ và rất rõ:
- Chấm dứt ngay quái trạng này trong thời gian tối thiểu. Không thể nào kéo dài hơn. Cũng chậm rồi, vì thế phải làm ngay. Vấn đề quốc thể. Thảo một chương trình gấp.
Hôm sau, chương trình được đưa lên ông, gồm các điểm chính như sau:
- Phải Việt Nam hóa luật lệ, vừa để thể hiện chủ quyền, vừa nhân dịp này soát lại mà cải tiến cho thích hợp hơn với tình hình xứ sở.
Sẽ qua ba giai đoạn:
- Mỗi Nha, Sở, Bộ phải thâu thập cho hết các luật lệ thuộc phạm vi hoạt động của mình và đóng thành tập cho dễ tra cứu.
- Rồi cập nhật hóa và dịch ra chữ việt, văn kiện nào có thể ký lại ngay thì đệ liền, chưa cần thay đổi nội dung.
- Lập các ủy ban nghiên cứu nội dung để canh cải nếu cần.
Muốn xúc tiến, Phủ Tổng Thống phải làm việc này cùng với các Bộ; vậy phải cho họp luôn tại Dinh Độc Lập, họp hàng tuần với các đại diện của các Bộ, Tổng Thơ Ký, Chánh Sở Pháp Chế v.v...để phân chia công việc, theo dõi và thúc đẩy.
Ông Nhu phê với cây viết chì than: ‘’Đồng ý, xin làm ngay.’’
Ba hôm sau, có cuộc hội họp đầu tiên tại Phủ Tổng Thống, các Bộ hiểu rõ mục đích và thỏa hiệp về đường lối tiến hành. Hơn nữa, các đại diện hứa sẽ cố gắng, vì biết việc này do Cố Vấn bảo trợ và thôi thúc.
Song được chừng hai tháng, hai ông Bộ Trưởng theo lời thỉnh cầu của nhân viên, lên kêu với Tổng Thống: Hiện nay, còn nhiều việc cần cấp hơn là việc pháp chế, vả lại việc này đòi hỏi nhiều thời giờ, các Bộ neo người, xin cho thư thả...
Ông Diệm chấp thuận. Nên từ đó, nhiều Bộ không cử nhân viên tới họp. Việc đã bắt đầu với nhiều triển vọng, đành phải ngưng lại.
Ông Nhu nghe tin, tỏ vẻ bực mình, nhưng chỉ lẩm bẩm:
- ‘’Họ lười biếng quá!’’
Nhưng sau đó, ông cũng chẳng thúc đẩy Bộ nào.
Tóm lại, đối với việc này, chẳng ai tha thiết, từ ông Tổng Thống trở xuống. Không ai cho là cần, trừ kẻ khởi xướng.
Kết quả, là trong thực tế, hình như Pháp vẫn cai trị tuy không còn bóng dáng chánh quyền thuộc địa, bằng hàng trăm ngàn luật lệ mà giới hữu quyền vẫn chấp nhận rành rành. Cờ tam tài đã khuất từ lâu, nhưng bao nhiêu quyết định của Pháp vẫn còn hiệu lực và được tôn trọng không biết đến bao giờ?
Muốn thiết lập một khu xã hội tại Phong Dinh, bằng một Sắc Lịnh ngày 15 tháng 3 năm 1962, ông Diệm đã phải dựa vào một quyền không phải do Hiến Pháp 1956 dành cho, nhưng vào một Sắc Lịnh Tổng Thống Pháp ngày 15 tháng 6 năm 1925 của Tổng Thống Pháp về chế độ bảo thủ điền thổ, và nghị định toàn quyền ngày 18 tháng 2 năm 1921 về việc quản thủ điền hộ tại Nam Kỳ.
Rừng Việt Nam, mà ông rất muốn bảo vệ, vẫn bị chi phối do các Sắc Lịnh Pháp ngày 2 tháng 1 năm 1931 và Nghị Định Pháp ngày 21 tháng 3 năm 1930: Bộ Trưởng sở quan không dám bỏ qua, khi ký nghị định ngày 6 tháng 6 năm 1962 về sự khai thác lâm phần. Trâu, bò, heo, gà, vịt Việt Nam vẫn bị kiểm dịch theo Nghị Định Pháp ngày 10 tháng 1 năm 1945. Công dân Việt Nam cầm thế văn tự nhà đất...vẫn phải đóng lệ phí do Toàn Quyền Pháp ấn định từ ngày 24 tháng 10 năm 1924...
Nguyên tắc liên tục hành chánh là cần? Thì có ai chối cãi?
Nhưng năm 1956, ai cấm Bộ Tài Chánh ra một nghị định riêng, cải tổ lại hẳn các Phòng Trước Bạ Mỹ Tho và Vĩnh Long? Khó khăn và tốn kém gì? Hà tất chỉ sửa đổi phạm vi hoạt động của các phòng đó, và cứ phải duy trì, viện dẫn, và áp dụng mãi một nghị định ngày 24 tháng 5 năm 1904, thời Toàn Quyền Beau? Đã soạn và ký Nghị Định số 1864/BTC/NV ngày 14 tháng 9 năm 1956, thì sao không nhân dịp này xóa bỏ hẳn tàn tích thuộc địa? Bởi không chú trọng tới điểm đó, người pháp chế và người duyệt ký đã cho cảm tưởng nặng nề là chỉ coi mình như kẻ thừa kế tiếp tục thi hành những quy tắc do chánh quyền Pháp ấn định?
Và cứ thế mãi hay sao? Rồi đây, chỉ độ dăm bảy năm nữa, các công sở sẽ không còn những nhân viên hiểu nổi những luật lệ cũ bằng tiếng Pháp; khi đó, ở nhiều lãnh vực, không biết cấp hữu trách sẽ căn cứ vào những luật lệ nào mà làm tròn nhiệm vụ, nếu luật lệ Việt Nam vẫn chưa kịp ban hành?
Giá thử treo cờ Pháp lên công sở, chắc chắn sẽ bị toàn dân la thét.
Nhưng phơi bày mãi luật lệ Pháp, thì chẳng ai nói gì.
Điều khó hiểu, là chính ông Diệm là người hay thắc mắc nhất về sự Việt Nam hóa.
Ông đã tự ý đổi tên nhiều địa phương, theo ông, Cà Mau thì nghe chẳng ra Tây, không ra Tàu và không Việt Nam chút nào.
Tên người cũng không thoát khỏi sự phê bình của ông.
- Đã thành người Việt, thì tên chi mà lại Ly Cheong Hing? Bảo nó phải thay bằng Lý Trung Hưng thì mới nghe được.
Rồi tất cả trẻ sơ sinh và những người quốc tịch Việt Nam, dù gốc Việt Nam hay gốc ngoại quốc, đều phải Việt Nam hóa họ tên bằng những danh từ có âm thanh Việt Nam (Dụ số 52 ngày 29 tháng 8 năm 1956).
Không những thế, các tiệm buôn Chợ Lớn cũng phải phiên âm theo tiếng Việt những bảng hiệu Trung Hoa như Phooc Ky, Shu Tai Ku v.v...
Trong khi đó, luật lệ về trưng thu trưng dụng tài sản vẫn là sắc lịnh Tổng Thống Pháp ngày 2 tháng 9 năm 1939 ban hành để áp dụng cho thuộc địa; luật của Quốc Hội pháp ngày 11 tháng 7 năm 1938 về sự tổ chức quốc gia trong thời chiến, Décret du 2 Septembre 1939 pris en application de la Loi du 11 Juillet 1938 sur l'organisation de l'Etat en temps de guerre; nghe không Việt Nam chút nào thì phải. Nhưng không ai thấy làm sao cả. Kể cũng lạ.
Lạ nữa, là thái độ của ông Nhu. Ông đã hiểu lẹ, giục sửa mau một thực trạng rất chướng. Nhưng rồi ông bỏ mặc, không phải tại ông đổi ý, vì ông vẫn tỏ ra bực mình. Chẳng lẽ ông cần tránh can thiệp? Tôi muốn tìm hiểu một tâm lý phức tạp.
Cuối 1957 và đầu 1958, hai lần ông bảo miệng và viết hẳn ra:
- Khuyến khích nhân viên mọi cấp điều trần, phê bình, tố giác một sự khiến họ bất mãn. Cho họ xả hơi, hơn là để oán ngầm, vì phải chứa đựng âm ỉ. Cấp trên cần biết, không phải để trả thù, nhưng cần biết sự thật, về tâm trạng từng người hoặc tâm lý chung của những người cộng sự.
Ông còn viết nhũn nhặn: ‘’đề nghị này, nếu thấy phải, thì nên cho thi hành rộng rãi.’’
Ý muốn của ông như vậy rất rõ rệt. Song ông cố cho hiểu rằng ông mách điều hay chứ không ra lịnh.
Nhiều cao cấp được thể bỏ bẵng vấn đề. Phần đông chỉ nói riêng với nhau rằng sự tự do quá trớn sẽ không lợi cho công vụ, còn sự chỉ trích và công kích sẽ gây không khí khó thở trong các cơ quan và phương hại đến kỷ luật.
Rồi người ta làm ngơ, không ai theo khuyến cáo của Cố hết. Ý kiến của Cố cũng không được cụ thể hóa ra một văn kiện chánh thức nào, nghĩa là bị chôn vùi lặng lẽ như những bản kê khai tài sản theo Dụ 25.
Nếu Cố gay gắt, hoặc chỉ thúc giục vài lần, chắc là khối người theo tăm tắp và còn làm quá ý muốn của Cố. Nhưng Cố không nói gì. Người ta cho là Cố không mấy quan tâm...
Rồi nhân một vụ chống đối cấp trên, Cố chỉ cười lạt và than phiền trống không:
-...Nói thì chẳng ai buồn nghe. Bởi để cho họ nói toạc ra, thì không chịu. Rồi đây nè, đùng một cái, họ làm tung ra mới rõ họ vẫn hậm hực từ bao giờ. Các vụ nổi loạn nổ súng cũng như rứa. Nói nhiều thì lại kêu là cạy thần cạy thế, hay can thiệp. Như bảo ông Giáo Dục nâng đỡ cho mấy người có công trong vụ Bình Xuyên, thì ừ ào rồi không làm, lại còn định dìm người ta. Nhắc thì kêu ông Cố can thiệp quá sá. Quyền chi mà can thiệp? Ai có trách nhiệm người ấy lo...
Nghĩa là chẳng lo thì mặc? Quan niệm riêng của ông, như vậy khác nhiều của đa số, về vai trò và lối làm việc của ông?
Hình như ông chỉ chịu xen vô, nếu là đại sự và quốc sách?
Chắc vì không được coi như việc lớn, nên sự xây cất Thư Viện Quốc Gia chẳng được ông thúc giục, tuy ông rất muốn thấy thực hiện một cơ sở thuộc phạm vi chuyên nghiệp của ông. Nên ông cứ phải phàn nàn, và chỉ phàn nàn:
- Mỹ họ cho mấy trăm triệu. Mà mấy trăm két sách khuân từ Thơ Viện Pasquier vô đây từ 1954, chẳng được ai ngó coi, mọt rồi thì phải, chẳng ông Giáo Dục nào chịu xúc tiến, nay cớ này mai cớ khác, rồi chẳng có được một căn phòng, chẳng ai thiết cả...
Khốn thay, chính người ‘’thiết’’ lại không thúc đẩy, vì mặc cảm bị trách là hay soi mói, tuy không ai phủ nhận quyền can thiệp của ông.
Tình trạng tiêu cực và bất lợi này đã khiến một số người bực bội, ông bỏ phí thế lực, giả thử ông cứ ra lịnh phắt đi, có lẽ công việc chạy hơn.
Cũng đã có lần tôi nghĩ như vậy:
- Việt Nam hóa luật lệ để thể hiện độc lập còn chưa nhờ được, huống chi về chuyện Việt Nam hóa văn hóa thế giới?
Tôi nhớ đã trả lời Kiến Trúc Sư D như vậy, khi anh bàn với tôi về vấn đề phát triển văn hóa.
Tôi thú với D rằng tôi thất vọng về ông Nhu: Ông biết là hay mà không dám làm, muốn làm mà không dám ra lịnh. Ý muốn của ông chỉ là ý muốn xuông (Velléité) không phải là ý chí cương quyết (Volonté).
Nhưng theo D. không thử nhờ ông thì trông cây vào ai? Trong chánh quyền này, chỉ có ông là có cốt cách trí thức. Còn ông Tổng Thống chỉ quan tâm đến việc thiết thực khác như dinh điền. Chẳng người hữu quyền nào ý thức nổi tầm quan trọng của văn hóa...
Tôi cho là D nói quá lời, vì các cấp hữu quyền đều quá bận rộn về nhiều việc được coi là cần cấp hơn.
D không chịu:
- Chính vì thế mà văn hóa cứ ngủ say, người ta coi rẻ văn hóa đến nỗi một cơ quan văn hóa như Nha Văn Hóa bị bỏ quên trong một trụ sở tồi tàn nhất, ở đường Công Lý, không bằng một dãy nhà phụ thuộc của tư dinh nhiều vị cao cấp. Khách qua đường trông thấy phải rầu lòng, và có cảm tưởng bi đát là ngôi nhà lụp sụp kia là hình ảnh của Văn Hóa Việt Nam. Bây giờ, đến lúc phải chấn chỉnh, xây dựng lại, cần được giúp đỡ, chẳng biết hy vọng vào ai nữa, ngoài ông Nhu, và cả bà Nhu nữa. Nghe nói bà cũng có chút máu văn nghệ...cũng thích nhạc thì phải.
Tôi càng ngần ngại, vì nếu tiếp xúc với Bà, chưa chắc được chi, có thể lại mang tiếng là nịnh hót, chạy chọt, ra vô cửa sau v.v...
- Thì vô cửa sau, thì chạy, thì hót chứ sao? Mình có mưu lợi riêng gì cho cho mình mà sợ? Vì mục đích, mình phải bớt dè dặt về phương diện. Được việc thì thôi, còn ‘’quân tử Tàu’’ như anh thì bao giờ thành công?
Vài tuần sau, có anh H, nhạc sĩ kiêm chuyên viên trong Phủ, hỏi tôi xem có cách gì giúp anh lập một giàn nhạc đại hòa tấu, Orchestre symphonique không?
Theo ý riêng, không thể trông mong vào ngân sách quốc gia: Bao giờ lý do ‘’eo hẹp’’ cũng sẽ được viện dẫn.
Tôi chợt liên tưởng đến Bà Nhu, mà D đã nhắc tới...Nên tôi khuyên H. lập một hội, rồi yêu cầu trợ cấp hoặc can thiệp hộ với các cơ quan liên hệ H. cũng có ý kiến mời bà làm Chủ Tịch Danh Dự hoặc đỡ đầu cho hội. Tôi không thấy gì trở ngại, nhưng dặn H. hãy đợi dịp thuận tiện.
Dịp đó, may thay, đến cũng sớm: Một tháng sau, có ban ca vũ nhạc Đại Hàn hơn một trăm người qua Việt Nam và trình diễn trong Dinh Độc Lập. Ông Tổng Thống và bà Nhu có vẻ thích lắm. Cô đào múa quạt cứ lướt đi lướt lại gần ông. Ông cười đỏ mặt. Bà Nhu vỗ tay tán thưởng luôn luôn dàn nhạc.
Hôm sau, tôi nhắm H. có thể yết kiến bà, bày tỏ nguyện vọng, và nên nhấn mạnh rằng so với nước người, mình còn kém quá, cần phải giữ thể diện cho chánh quyền, và lập một ban nhạc ra hồn.
Cách đó ba ngày H tới gặp tôi, hớn hở:
- Hay quá, bà hứa...
-...sẽ đặc biệt lưu ý các cơ quan?...
- Không, hứa ban chứng ba trăm ghim và sẽ nói hộ với Đại Sứ Đức Von W. giúp về việc mua đàn, mua kèn...
Rồi chẳng bao lâu, H cùng vài chục anh em, trình diễn lần đầu tại phòng ăn Dinh Độc Lập.
Nghe tin, D hớt hải lại tìm tôi:
- Đã bảo mà, mình phải chịu khó một chút, ngần ngại là thiệt. Nhưng bây giờ làm sao gặp được bà?
Tôi đề nghị: D nên xin lãnh việc sửa chữa Phòng Khánh Tiết trong Dinh, năng lui tới luôn, tất sẽ nhiều dịp gần bà Nhu.
D nghe theo, và không bao lâu được bà hỏi luôn, về cách thức xây dựng, sắp đặt đồ đạc v.v...
Có lần tôi trách D; sao trông nom mà để như vậy? Đèn ‘’lustre’’ nhiều ngọn, phải lớn hơn mới xứng với phòng rộng, đèn treo lại nhỏ quá. Vài màn cửa, màu choé, không hợp màu tường. Bàn ghế không ra kiểu gì đặc biệt, thiếu nhất trí...
D mỉm cười:
- Anh quên rằng cần chiều ý bà trước hết, và chỉ cần chiều ý. Tôi còn xin bà chỉ bảo, vì bà ra ngoài nhiều, trông rộng biết nhiều hơn, tuy mình chuyên môn nhưng thiển cận.
Tôi hỏi D: Nếu thế, anh có ngại rằng thiên hạ sẽ chê cười anh không?
- Ông anh hẳn nhớ, Địch Nhân Kiệt còn phụng sự được Vũ Hậu. Miễn sao được việc lớn, tiểu tiết hề chi? Tôi chắc chắn bà sẽ giúp được mình thực hiện cái mộng ca kịch.
Tôi biết D. vốn ấp ủ từ bao năm một ước nguyện chưa thỏa, là cải tiến kịch nghệ. Anh đã tốn nhiều công và trải khá nhiều thất bại.
Song tôi lưu ý D. nên quan niệm văn hóa một cách rộng rãi hơn, và nếu muốn làm việc lâu dài, thì cần xét lại toàn diện vấn đề, để đi tới một chương trình thích ứng.
D. đồng ý với tôi là công cuộc phải hướng vào đại chúng, chứ không thể làm văn hóa sa lông hay ngay cả văn hóa hàn lâm; phải phổ biến để gây phong trào tìm hiểu và ưa chuộng nghệ thuật mà khuyến khích sáng tạo, phải trau dồi cho dân tộc tính phong phú hơn bằng cách Việt Nam hóa văn hóa bốn phương.
Trong tinh thần đó, anh và tôi đều mong muốn những gì có ảnh hưởng trực tiếp vào nếp sống chung; nhưng bài hát cho mọi tuổi và mọi nghề; những y phục mới thích hợp cho mỗi tầng lớp và mỗi loại công việc; những kiểu bàn ghế đồ đạc Việt Nam, kiểu nhà Việt Nam, kiểu xóm làng tân tiến, những sách báo phổ thông, phòng triển lãm vĩnh viễn, viện bảo tàng nghệ thuật và cả công nghệ, câu lạc bộ cho văn nghệ sĩ v.v...
Tuy nhiên, D. vốn người thiết thực, không cần một kế hoạch hợp lý; trong giai đoạn thử thách, còn phải kiếm phương tiện vất vả, thì làm được chi cứ làm, tới đâu hay tới đó, miễn sao hoạt động được, hay nói đúng hơn, cựa cạy để khua động cho mọi người chú trọng đến công cuộc phát triển văn hóa.
D. kết luận là phải có nhiều tiền, để tổ chức, trợ cấp, thù lao v.v...Nhưng ‘’làm văn hóa’’ thuần túy, như chúng tôi mong ước, thì chẳng chánh quyền nào chịu giúp đỡ. D. nhận rằng chẳng ai cho không, cần có đôi chút đền bù lại.
- Mình làm báo, có rao hàng hộ mới có tiền. Chánh quyền cũng như nhà buôn, họ chỉ chịu tốn kém nếu mình quảng cáo hộ ít nhiều, chứ ai hơi đâu trợ cấp để than mây khói gió? Trong lịch sử, thỉnh thoảng lắm mới có một Đường Minh Hoàng hay một Louis XIV. Anh em văn nghệ mình cứ đòi giúp không điều kiện, nếu không thì bảo vệ tự do đến cùng và chịu bó tay ngồi xuông. Tự do trăm phần trăm của mình không quan trọng bằng công cuộc văn hóa chung, muôn thuở. Cho đi hai chục phần trăm cũng còn tám chục phần trăm phương tiện cần thiết, cũng khá rồi. Nhất định không ‘’quân tử Tàu’’, nếu xây được một sân khấu hay in được vài vở kịch...
D. lo gây cảm tình cùng tín nhiệm, tham gia hoạt động của Liên Đoàn Công Chức Cách Mạng Quốc Gia, giao kết với những nhân vật thân cận ông Nhu bà Nhu, vận động trước hết để ra một tạp chí và lập một cơ sở văn nghệ.
Đầu tháng 9 năm 1959, anh đem cho tôi số đầu tiên của Sáng Dội Miền Nam, ngoài bìa, cô TTT cầm quạt, nở nụ cười tươi giữa mấy cô xanh đỏ khác.
Tôi thấy khuôn khổ màu sắc cũng coi được, nhưng tờ báo có vẻ chánh thức quá, vì trang đầu đầy hình ảnh ông Tổng Thống.
D. tặc lưỡi:
- Thì cũng phải giữ lễ tối thiểu, có như thế mới được các cơ quan mua làm tài liệu, và để ‘’chuyên chở cho trôi’’ cái phần văn nghệ, miễn là văn nghệ vẫn là văn nghệ của mình.
Tôi ngại rằng với thể tài như vậy, Sáng Dội Miền Nam sẽ chung số phận với một tờ báo của cơ quan thông tin ngoại quốc, in đẹp và phát không mà cũng chẳng mấy ai chịu đọc, có lẽ chỉ vì bị coi như tài liệu tuyên truyền.
Còn các bề trên nghĩ sao khi D. trình tặng?
- Cụ dạy: Ờ, cũng được, nhưng phải có Khu Trù Mật, Dinh Điền, vì là công cuộc cải tạo giang sơn, mà đất nước có đẹp thì hình ảnh trên báo mới đẹp. Ông Cố bảo: Làm chi thì làm, nhưng chưa chi đã đưa mấy cô gái trưởng giả ra phô áo đẹp, thì chỉ dành cho mấy lớp giàu có ở thành thị, khi nông thôn cần nhất, phải hướng về nông thôn nhiều hơn; phải phơi bầy những nỗ lực chống chậm tiến, còn nếu chỉ tranh ảnh đẹp xuông, thì cho ảo tưởng là mình tốt đẹp lắm rồi, thái bình quá rồi. Nhưng bà, thì bảo cũng coi được, cố gắng lên...
- Thế anh chiều ý ai?
- Chiều ý Cụ, vì Cụ nói cũng phải. Chiều ý Cố, vì Cố cũng có lý. Còn bà thì chắc bà phải vừa ý về thời trang và những mốt của bọn này đưa ra.
Tôi ghi nhận những kiểu áo dài cụt cổ, giống như của bà.
Vì không bao giờ tôi quên nét cười ranh mãnh của D., khi anh chỉ cho tôi kiểu đó. Rồi anh hỏi tôi còn thấy thiếu chi không?
- D. đã nghĩ đủ điều về mọi người: Cụ, ông và bà. Chỉ còn một kẻ chưa được chú trọng, là độc giả.
Dù sao, D. cũng cho là đã vượt nổi bước đầu. Được làm, là được tin và được tin rồi, thì sẽ còn làm được nhiều hơn. Anh càng hăng say, và có khi bỏ cả việc sở để lo việc quan trọng hơn: Kiếm một nơi hội họp văn nghệ sĩ, nhất là một sân khấu ca vũ nhạc kịch.
Tìm được căn nhà tại đường Bùi Viện, anh bàn với tôi về cách sửa sang. Tôi ước ao một phần làm nơi triển lãm quanh năm cho họa sĩ, vì phòng của Bộ Thông Tin chật hẹp, và không thỏa mãn đủ mọi nhu cầu. Anh quan tâm đến kịch ngần nào, thì tôi bận lòng đến tranh ngần ấy.
Anh hứa, nhưng xin để liệu sau, vì nhà chưa được rộng lắm, còn phải dành chỗ làm nơi ăn uống, cho anh em lui tới hàng ngày.
Tôi thiết nghĩ làm quán ăn rẻ tiền chưa đủ. Không nên coi sự giúp đỡ ẩm thực là trọng tâm, vì có thể làm tổn thương lòng tự ái của người muốn vãng lai; chỉ nên coi là một phương tiện phụ thuộc, để đưa tới mục đích chính yếu và thành thực, là tạo bầu không khí văn nghệ, vui vẻ càng tốt, sôi nổi không sao, miễn là kích thích và hào hứng. Đó là điều kiện cần nhất để phát động phong trào chấn hưng.
Quán sẽ là nơi trình diễn, giới thiệu, bình luận và thông cảm. Ai có tranh nhờ treo, có sách mới xuất bản, sẽ đứng lên giải thích về đường lối hay đặc điểm. Các bản nhạc mới, sẽ được ban nhạc của Quán hòa tấu lần đầu để thăm dò dư luận thính giả. Nhiều bài thơ tập thơ sẽ được ngâm vịnh hoặc phê bình. Các tác phẩm mới, bất cứ ở bộ phận nào, cũng sẽ được niêm yến, quảng cáo, kiểm điểm. Diễn đàn chung hôm nào cũng chờ đợi một vị trình bày về một vấn đề văn nghệ, trong bữa ăn. Thời trang sẽ do các nữ ca sĩ trưng giúp, các kiểu áo mới sẽ là y phục của các vai trò trong các tấn tuồng tại Quán...
Tham vọng của tôi, chắc hẳn quá nhiều...Nên tôi không khỏi bỡ ngỡ, khi D. cho tôi biết tên Quán là...Anh Vũ.
- Tại sao lại con vẹt? Anh Vũ là con vẹt. Vẹt chỉ nói theo người. Vẹt thiết sáng tạo. Mà đây là nơi của người sáng tác văn nghệ.
D. giải thích: Anh là chữ anh như anh tuấn, anh hùng. Vũ ở đây là múa, là ca vũ. Anh Vũ là nói tắt ‘’chiêu anh’’ và ‘’ca vũ’’.
Xổ nho như thế, có lẽ các Nhà Nho không chịu. Song D. đã cố binh vực ý riêng, thì tôi cũng xin tùy.
D. hoan hỉ hơn bao giờ, tối ngày 19 tháng 1 năm 1960, khi tổ chức dạ hội khánh thành quán văn nghệ. Quả D. đã đem hết mình trong nhiều tháng vào việc sửa sang bày biện để tạo một khung cảnh trang nhã và thanh tâm, với những gian phòng thân mật và phong quang.
Tôi đã ngỏ lời khen như vậy mà mừng D. phen này thỏa chí bình sinh.
D. ghé tai tôi:
- Được thế này cho anh em, thì D. này phải xá ai bao nhiêu cũng xá. Chúng ta đã có bàn đạp, chỉ từ nay đến sang năm, mình sẽ tiến nhiều bước nữa tới gần Thiên Thai...
Thiên Thai ở đây, là cõi đẹp mà mỗi nghệ sĩ tưởng tượng cho mình, nơi đạt sở nguyện: D. đã cho tôi biết từ năm 1951, khi D. cùng tôi trọ tại một công xá đường Champagne, Sài Gòn.
Thiên Thai...
Ở cõi đó hẹn ngày vui tái ngộ
Đem nỗi niềm gột rửa bến sông Ngân
Chỉ giữ lại cho tiêu kiều ca múa
Sợi mây tơ đã dệt với phong trần...
(Vườn Mây)
Ngày 7 tháng 2 năm 1961, sau ít ngày lâm bịnh, anh sớm vĩnh biệt bạn bè.
Và chỉ hai năm sau, không còn ai nhắc tới quán Anh Vũ và Sáng Dội Miền Nam.