ĐỌC THÀNH TÍCH CHÍN NĂM
Sau vụ oanh kích Dinh Độc Lập ngày 27 tháng 2 năm 1962, một số người chung quanh ông Diệm không khỏi hoang mang và tỏ ý lo ngại về tương lai chế độ.
Song một bà con của ông cho biết: Theo số Tử Vi, thì chưa đến nỗi nào đâu, ít ra ông ngồi được chín năm.
Cuối 1963, tôi chợt nhớ lại câu đó, và cũng thấy...hơn rờn rợn, nên muốn tìm hỏi ông thầy số nào đã tiên đoán như trên, nhưng ông đã qui tiên khá lâu rồi thì phải.
Dù sao, sự lạ lùng kia đã khiến tôi chú ý để nhặt lại cuốn sách trong đống tài liệu vô dụng được loại khỏi Dinh Gia Long sau ngày 4 tháng 11 năm 1963. Cuốn ấy có bìa màu vàng, dày 984 trang, nhan đề là Thành Tích Chín Năm.
Chín năm...trong thời gian đó, số mệnh đã đưa tôi lần nữa vào trung tâm của nhiều sự biến thiên, để buộc tôi nhìn và nghĩ. Nên khi giữ lấy sách kia, tôi có cảm tưởng là muốn vớt lại để ôn cố về những gì liên quan mật thiết đến một quãng đời tôi.
Trước 1962, nghĩa là trước khi ông Nhu chủ tọa hàng tuần Ủy Ban Trung Ương về Ấp Chiến Lược, một phương pháp rất tầm thường nhưng rất cần thiết đã rất ít khi được áp dụng, kiểm điểm công việc trong mỗi lãnh vực để theo dõi, thúc đẩy, rút kinh nghiệm mà sửa đổi.
Sự kiểm điểm đó chỉ thấy xảy ra một cách vô hiệu giữa một thiểu số dăm bảy người hiểu biết mà không có trách nhiệm trực tiếp, hay có trách nhiệm mà không đủ thẩm quyền, hoặc chẳng được nói hay được nghe. Dù sao, kết quả vẫn là những nhận xét với thiện ý vô tư, về những thực trạng có thể giúp ai muốn tìm hiểu khách quan, bên ngoài dụng tâm suy tôn hay đả phá. Và nếu tổng kết lại, sẽ thành một tập biên bản thảo luận hay phàn nàn thì đúng hơn, về chín năm hoạt động trên các địa hạt.
Một số thân hữu của tôi đã nghĩ rằng sự phê bình chế độ cũ hay còn quá sớm; phải để cho các thứ nhiệt tình lắng dịu. Tôi vẫn đồng ý, vì sự phán đoán chỉ có thể công bằng khi những quyền lợi chính đáng hay không chính đáng chẳng còn ngại bị liên can. Song cũng có một lý do để miễn đợi chờ, nếu đứng về phương diện cung cấp tài liệu. Vì hiện nay, sổ sách và bài báo viết về ông Diệm ông Nhu đã khá nhiều, nhất là những tác phẩm ngoại quốc, bằng tiếng Anh và tiếng Pháp, khen chê không thiếu, nhưng thiếu nhiều căn cứ vững chắc, mà khi tìm căn cứ, thì không ai chịu ngó tới những tài liệu chánh thức.
Điều này rất dễ hiểu, tuy các chánh quyền trước 1963 thường quên bẵng, đối với đa số bất cứ nước nào, tài liệu chánh thức đều có mục đích tuyên truyền phóng đại, lại chẳng ai có phương tiện phối kiểm, nên rất khó tin, những ngôn ngữ đẹp và thành quả tốt. Ấy là chưa kể những sự phủ nhận hoặc xuyên tạc của những người và nhóm đối lập. Nên một chánh quyền đóng vai tác giả, không tránh khỏi một hậu quả bạc bẽo, sách in ra không được chiếu cố, phát không cũng có độc giả. Đó chính là số phận của loại sách ‘’Thành Tích Bốn Năm’’ mà sự phổ biến không gây nổi một ảnh hưởng nào đền đáp công phu soạn thảo và phí tổn ấn loát.
Sự hoài nghi của công chúng không có gì đáng trách, khi người ta chỉ thấy toàn những sự tốt đẹp như ở trên quảng cáo thuốc bổ. Không chánh quyền nào chịu vạch áo cho xem lưng. Chỉ có những sự kiện gì thuận lợi mới đưa ra, một công lệ bất dịch. Ông Diệm trình bày cho Quốc Hội và Quốc Dân, cũng theo đường lối của các Bộ các Tỉnh các Nha tường trình lên ông: Khả quan lắm (người ta đã viết hay đọc là khá quan để tránh phạm tên cụ cố), xúc tiến mạnh mẽ, rất nhiều triển vọng, tin tưởng mãnh liệt v.v...Chính ông Diệm một hôm cũng cười khi nghe về tình hình một địa phương; ông bảo: Cứ như thế thì hẳn là sắp tới ‘’bến vinh quang.’’ Ông hay nhạo cái bến vinh quang của nhiều bản diễn từ.
Nhưng chẳng lẽ ‘’Thành Tích Chín Năm’’ không dùng được chi hết? Tôi nghĩ công dụng sẽ tùy người đọc.
Dĩ nhiên là nên bỏ qua, với nụ cười thì hơn, những lời lẽ tự phê bình, nghĩa là sự tán dương của mỗi cơ quan. Như khi thấy nói ‘’cố gắng không ngừng để làm tròn nhiệm vụ,’’ thì nên đọc là ‘’cũng đã cố thi hành phần nào nhiệm vụ,’’ còn ‘’không ngừng’’ và ‘’tròn’’ hay vuông thì lại là chuyện khác không bắt buộc ghi nhớ.
Nếu có tinh thần rộng rãi, độc giả cũng nên lượng thứ những lời sướng tai như sau: ‘’cung cấp những tiện nghi cho các nhà bác học và kỹ thuật gia thẳng tiến trên con đường khảo cứu,’’ ‘’những thành tích rực rỡ đã thâu lượm trong thời gian gần đây, chứng tỏ một cách hùng hồn vai trò tiền phong của họ trong công cuộc cách mạng đang tiến bước từ nông thôn đến thành thị và từ hạ tầng cơ sở lên thượng tầng kiến trúc trung ương,’’ ‘’đào tạo những lớp...có một căn bản đạo đức và tác phong tiến bộ theo kịp đà tiến của lớp...tiền tuyến trong cuộc vận động lịch sử hiện đại...’’
Cứ như thế, mà chưa đến bến vinh quang, thì cũng đáng ngạc nhiên.
Còn những tài liệu chứng minh, thì có phần nào khả thủ?
Các con số thống kê hay bị ngờ vực nhiều nhất. Người ta cho rằng chánh quyền theo thói có ít tăng nhiều, và hễ xấu thì giấu bớt.
Thực ra, ở một lãnh vực như nông thôn, thường xảy ra sự lầm lẩn vì thiếu điều kiện tra cứu kỹ lưỡng tận các xóm làng, nhất là ở trong thời bất ổn; nên có trường hợp phải ước đoán, như sản xuất hoa màu, gà vịt...Còn nhiều số khác của một cơ quan này, bị cơ quan khác kiểm lại, và nếu khai man thì mắc lỗi gian lận, có khi bị hình phạt: Như số thuế thâu được, số tiền cho tiểu thương vay, số giáo viên đã đào tạo, số quán cơm xã hội v.v...
Khi bắt thâu thập tờ trình của các cơ quan để tập hợp thành những bản thông điệp gửi Quốc Hội hay thành những cuốn sách, cấp trên cũng thường đòi hỏi bổ túc hơn là kiểm chính. Các con số mà chính tôi đã nhận được, bất cứ thuộc địa hạt nào, không bao giờ bị cố ý thay đổi; thảng hoặc có sự nghi ngờ, thì những tiếng gọi điện thoại từ Phủ Tổng Thống đã khiến nhiều bạn đồng sự tại các Bộ phải bực bội, vì cứ yêu cầu kiểm soát lại cho đúng hoặc đưa ra những số còn quên: Ông Diệm thích chi tiết tỉ mỉ.
Về phần việc, nếu chỉ tùy tôi, chắc chắn tôi đã đòi rút ngắn ít nhất một phần ba trong 942 trang. Vì không đáng kể, những công tác thông thường mà bất cứ chánh quyền nào ở thời nào cũng phải làm, như:
- ‘’Chuẩn bị cuộc bầu cử bán phần hội viên hội đồng quản trị Phòng Thương Mại. - tiếp tục xuất bản nội san, tổ chức huấn luyện bóng tròn và bơi lội, - phổ biến tin tức cho các Chi Thông Tin,- ấn định mẫu mực sườn xe đạp...’’
Cái gì, chứ sườn xe đạp thì chắc thiếu chất hào hứng, và không đủ sức khích thích cho quốc dân và hậu thế ghi ơn.
Có lần tôi bực quá, đã trót thốt ra: Cứ theo đà này, thì sẽ có nơi trình rằng nhân viên vẫn lãnh lương. Nhưng một bạn ở cơ quan yêu cầu thông cảm: Ông Tổng Thống muốn thật nhiều, mà nếu không cho kể hết, thì chẳng biết kể chi khác việc ‘’thường xuyên.’’
Tôi đâu dám trách? Biết bao lần, hễ có ông Thủ Tướng nào hay Bộ Trưởng nào phải chương trình, thì người ta lại mách các vị không biết bao nhiêu việc hàng ngày, thay vì phải và chỉ cần đưa ra vài điểm chính yếu với những sáng kiến đặc biệt nhằm cải tổ, canh tân hay phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những công tác thông thường và không thể coi như thành tích, vẫn thấy thuật rõ những sự thực hiện có quy mô. Một ngày kia, khi muốn bình tĩnh truy cứu, chẳng lẽ lại phải kiếm sách báo ngoại quốc? Ít ra cũng cần có những bộ những pho nào ghi những hoạt động hoặc chứng tỏ chủ trương của một chánh quyền trong một giai đoạn. Xét việc đã làm, có thể thấy những việc đáng làm mà chưa làm, hay những cách làm không thích hợp. Về phương diện này. ‘’Thành Tích Chín Năm’’ cũng cho một ý niệm, gợi nhiều suy tưởng, hoặc đánh dấu cho khỏi quên, như một tập kỷ yếu, loại niên kỷ Year Book của các nước, hay loại Sách Xanh Livres Verts của các xứ trong Đông Dương cũ.
Chính khách Việt Nam không có tập tục của nhiều chính khách ngoại quốc, không viết hồi ký để làm sử liệu. Vậy thiết tưởng cũng không nên vứt bỏ ‘’Thành Tích Chín Năm’’. Giả thử bây giờ thấy một cuốn tương tự của Hồ Quý Ly hay Trịnh Tùng, chắc nhiều người muốn xem để biết gọi là về một thời qua, còn hơn là chỉ thấy những giai đoạn mịt mờ như những quãng đường sương khói.
Chánh quyền Cộng Hòa Nhân Vị, trước ngày Cách Mạng 1963, đã từng bị chỉ trích ngấm ngầm, ngay giữa những người không đối lập.
Rồi sau ngày Cách Mạng, những sự lầm lỗi sơ hở, quá đáng, thiếu sót, đã bị phơi bày khắp nơi trong một thời gian khá lâu.
Tuy vậy, lắm người chưa hả, còn tò mò thăm hỏi để biết nhiều hơn, với càng nhiều chi tiết càng hay, những sự những việc đã đưa chế độ lăn xuống vực thẳm.
Chỉ có một lần, ông X, một chính khách yếu nhân 1964-1965, đã hỏi riêng tôi:
- Dẫu thế, sao anh em ông Diệm đã đứng được chín năm? Mà sao mới hơn một năm nay đã ba chánh phủ?
Lúc đó, tôi chỉ cười, vì hai lẽ: Hoặc ông muốn dò ý tôi đối với người trước, hoặc ông phỏng đoán rằng các ông kia đã có những bí quyết nào để trường tồn, nên ông muốn rút kinh nghiệm?
Tôi nhớ đã trả lời:
- Vấn đề không phải là ngồi lâu, nhưng là được việc hay không.
Ông ta vội chữa:
- Đúng rồi. Đâu phải ngồi lâu? Nhưng ngồi lâu được, tất phải làm được chút gì cho người ta chịu đựng mình nếu chẳng yêu mình. Ai cầm quyền cũng có việc dở việc hay. Bây giờ, cái gì dở thì mình bỏ, cái gì hay thì mình giữ mình theo.
- Minh Thái Tổ, khi dấy nghiệp, cũng có ý như vậy đối với triều cũ. Song chưa chắc nhiều người chịu chọn lọc. Chọn lọc, thì có thể bị trách như ông Thủ Tướng đầu tiên, là ‘’làm cách mạng ôn hòa’’. Chỉ có thể ôn hòa khi nào không khí chánh trị qua mùa nóng hổi và cho phép nhận định với đầu óc nguội lạnh.
Ông bảo đừng ngại khi mình tin rằng đường lối của mình có lợi cho công cuộc chung, và muốn tôi kê khai hai loại việc nên và không nên làm nữa.
Lửa thiêng của tôi hồi đó không ngùn ngụt, nên tôi tìm lẽ thoái thác. Song ông đã muốn biết qua việc cũ, thì tôi trao lại ông ‘’Thành Tích Chín Năm,’’ dù tập đó chưa phản chiếu trung thực và hoàn bị các hoạt động chánh quyền từ 1954, nó cũng khiến ông có một ý niệm, rồi nếu cần biết rõ, tôi sẽ thưa chuyện nhiều hơn, nhất là về những sự gì chưa thấy viết ra.
Sau đó, trong nhiều dịp, ông đã hỏi về một số vấn đề. Và sau đây, tôi chỉ lược thuật những gì đã nói với ông, qua những giờ phút hội đàm cởi mở.
Hiến Pháp 1956, dù chân giá ra sao, cũng đánh dấu một bước tiến trên đường định chế từ khi có chánh quyền quốc gia, vì chấm dứt hẳn một giai đoạn lâm thời kéo dài từ 1948 với một chế độ Quốc Trưởng rất khó định nghĩa.
Trái với Sắc Lịnh số 5 của Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân, hay Dụ số 1 của Cựu Hoàng Bảo Đại, văn kiện căn bản của Việt Nam Cộng Hòa 1956 không phải là tác phẩm của vài người được cấp lãnh đạo tín nhiệm. Phần triết lý chánh trị là của ông Nhu và được ông Diệm chấp nhận dễ dàng. Song sự soạn thảo và cụ thể hóa thành cơ cấu quốc gia, là công việc của khá đông người, từ những người thâu thập tài liệu đến một Quốc Hội Lập Hiến. Như đã ghi trong các biên bản đăng Công Báo, lắm khi cũng có những cuộc bàn cãi sôi nổi hoặc va chạm ý kiến. một tỉ dụ: Đã có sự đấu khẩu giữa một Dân Biểu Bộ Trưởng và nữ Dân Biểu Trần Lệ Xuân tức bà Nhu, về tuổi tối thiểu để ứng cử Tổng Thống; ông Bộ cho rằng người tuổi 35 có thừa kinh nghiệm, bà Nhu lại không muốn những người còn non trẻ như ông. Ông Nhu lại không muốn những người còn trẻ như ông. Ông Nhu nghe nói có cuộc tranh luận gay go, cười mà rằng. Họ đều trẻ cả, thì cũng phải hăng mới vui.
Về phần triết lý, thì ngoài những nguyên tắc thông thường, tương tự như của nhiều Hiến Pháp khác, về nhân quyền và tự do dân chủ, đáng chú ý nhất là ý tưởng cộng đồng đồng tiến mà tôi coi như một chủ ý then chốt của ông Nhu, một người bị ám ảnh hoài bảo các hiện tượng chậm mở mang. Đồng tiến giữa các giai cấp nghèo và có của; giữa các sắc tộc đồng bằng và rừng núi; đồng tiến giữa các miền trong nước, phì nhiêu và hoang vu, thành thị và nông thôn; đồng tiến về mọi mặt kinh tế, chánh trị, văn hóa v.v...tóm lại, là nhằm đi tới quân bình để đạt công bằng xã hội.
Sở dĩ tôi chú ý về điểm này, là vì có thấy sự cố gắng để thực hiện phần nào. Trong khi các quyền tự do trong Hiến Pháp chưa được thi hành theo ý nguyện của đa số, thì ý tưởng đồng tiến được thể hiện bằng nhiều hoạt động. Chia đất của đại nghiệp chủ cho tá điền, khai khẩn Cao Nguyên và thí nghiệm hợp tác Kinh-Thượng; xây dựng Khu Trù Mật để đem phương tiện của đô hội về gần xã ấp; mở đường đào kinh để khai thông các vùng hẻo lánh; giúp cho miền Trung phát triển kịp các miền khác v.v...Còn thành công hay không, sẽ liệu xét sau.
Về mặt tổ chức, điểm trọng yếu nhất trong Hiến Pháp, là Hành Pháp rất mạnh. Hành Pháp không chịu quyền kiểm soát của Lập Pháp, và thuộc một Tổng Thống đứng trên cả Quốc Hội, vì có nhiệm vụ tối cao, không những là thi hành luật pháp do đại diện nhân viên biểu quyết, nhưng còn điều khiển chánh phủ và lãnh đạo quốc dân, và như vậy, có nhiều uy thế hơn cả Tổng Thống Hoa Kỳ.
Tới đây, ông X ngắt lời tôi vì muốn biết rõ hơn: Tôi có coi Tổng Thống Chế như vậy là thích ứng với nhu cầu của xứ sở không?
Tôi xin ông hãy nhớ lại hoàn cảnh 1954-1955, một hoàn cảnh bất ổn sau bao năm đạn lửa và rối loạn.
Khi đó, nhiều người cũng như tôi chỉ mong trước hết một chánh quyền đủ sức tái lập trật tự và ổn định tình thế, muốn vậy, phải được rộng quyền đối nội đối ngoại, và phải đứng vững khá lâu mới vãn hồi được sinh hoạt bình thường và trùng tu kiến thiết.
Hai điều kiện mạnh và bền đó, Tổng Thống Chế có đem lại không? Thời cuộc đã trả lời hộ tôi.
Chánh quyền đứng được chín năm. Những sự rối ren của thời trước bị chấm dứt hoặc không trở lại dưới những hình thái cũ, ít nhất là cho tới cuối 1960.
Tổng Thống Chế dành đủ quyền hành cho người lãnh đạo để thúc đẩy mạnh các hoạt động quốc gia, và giúp cho Hành Pháp tránh nhiều trở lực để theo đuổi những chương trình dài hạn.
Tuy nhiên, Tổng Thống Chế 1956 cũng mở lối cho cá nhân ông Tổng Thống dễ bành trướng, nên chẳng bao lâu biến thành một chế độ đặc biệt, trong đó có phần nhân trị nặng hơn phần pháp trị.
Tình trạng này vừa có lợi, vừa có hại.
Lợi về phương diện chỉ huy và điều hành, đối với một guồng máy chánh quyền lâu ngày trí tuệ và bị động với khá nhiều người chỉ chịu làm khi bị xô do một uy lực mạnh và nghiêm. Năng xuất công quyền tăng gấp nhiều lần, so với các thời trước 1954, và sự kiện đó thấy rõ rệt nhất ở các cấp điều khiển. Người ngoài cuộc có thể khó chịu khi nghe nói các cấp thừa hành thường sợ sệt, vì có cảm tưởng là cấp trên khắc nghiệt. Song những ai từng vào cuộc, tất dễ nhận rằng lắm khi phải dựa vào quyền rất lớn mới bảo làm được việc rất nhỏ. Có những đống rác và những ổ gà trên mặt đường, chỉ được hốt hay lấp đi, khi người hữu trách được biết để coi chừng, vì ‘’Cụ’’ thường qua lại. Hễ Cụ đòi, thì việc phải trình trong một tuần, được đệ gấy trong một hai hôm. Thực tế như vậy, và đối với thực tế đó, khó lòng cầu viện những lý tưởng cao siêu.
Nói một cách khác, khi uy quyền rất mạnh của cấp lãnh đạo được dùng đúng chỗ, thì việc nước có thể cải tiến mau lẹ, và như thế còn tiền lợi hơn là những cơ chế phức tạp vì cần đảm bảo pháp lý. Đó là sự mong mỏi của nhiều người thuộc các đoàn thể ủng hộ ông Diệm, cùng những chuyên viên và những nhà kinh doanh thiết thực không quan tâm mấy đến các hình thức dân chủ. Bởi đặt hy vọng vào ông, dù chẳng tôn sùng ông, những hạng người kể trên đã giúp đỡ ông.
Khốn thay, khi người lãnh đạo lầm lẫn, lại sẵn tính cố chấp vì quá tự tin, thì nhân trị chỉ còn trạng thái bất lợi, biến ra quyền tự do ngộ hoặc để gây những hậu quả tai hại cho thấn thế ông và công cuộc chung.
Toàn quyền hành động mà cựu Quốc Trưởng đã ủy cho ông, bị Hiến Pháp 1956 giảm bớt phần lập pháp cho hợp với thể chế dân chủ. Nhưng quyền Hành Pháp mà Hiến Pháp dành cho ông, còn đủ rộng đủ mạnh để ông sắp đặt và bao trùm trong thực tế, rồi đòi lại cả quyền ra luật. Không còn sức nào ngăn cản được ông.
Tổng Thống Chế đã cho phép những người cộng sự của ông thi hành nhiệm vụ dễ dàng, nên đã giúp ông thể hiện ý hướng và hoàn tất một số chương trình xây dựng.
Nhưng Tổng Thống Chế cũng ngỏ cửa cho con người ông vượt quá khuôn khổ pháp định, để theo một chủ quan khi tỏ khi mờ, rồi rớt vào một tình trạng không thể cứu vãn.
Tổng Thống Chế gần như một chiếc xe khỏe nhưng thiếu bộ thắng, nên chỉ biết chạy mau, vượt mọi chướng ngại hoặc lăn xuống dốc, tùy người cầm lái giữ đúng mức hay lao quá đà.
Bộ thắng đó, đáng lẽ phải là Quốc Hội hoặc là Chánh Phủ.
Song Chánh Phủ do Tổng Thống điều khiển, chỉ gồm những người được chọn trước hết vì lòng trung thành, vì thái độ hiền hòa, không có lập trường kiên định kiến riêng để phải bênh vực cương quyết.
Quốc Hội, thì hầu hết là người thuộc các đoàn thể do ông Diệm và anh em sáng lập, được bầu lên theo những lề lối hợp pháp bề ngoài, nhưng không được mấy ai tin là ngay thẳng. Đa số trong các giới yên trí rằng có những sự mưu tính để dành ghế cho những người được ông Tổng Thống, ông Nhu và ông Cẩn lựa trước. Thậm chí đã có người nói: ‘’bổ’’ Dân Biểu thì đúng hơn là bầu Dân Biểu.
Ông X muốn biết tôi nghĩ sao?
Nếu phải có bằng chứng để quyết đoán trong lãnh vực này, thì ông nên hỏi những ai đã tham gia trực tiếp vào công việc tổ chức bầu cử. Còn tôi cũng chỉ nghe nói như ông mà thôi, hoặc theo dõi qua những giấy tờ chánh thức.
Nhưng tôi đã thắc mắc về vài kết quả đầu phiếu, như về trường hợp ông Nhu bà Nhu: Đắc cử với trên chín chục phần trăm số phiếu, không khác gì Nasser, hay Lý Thừa Vãn...làm thế nào tránh khỏi sự ngờ vực của mọi người, kể những ai vẫn mong cho ông Diệm không bị tai tiếng?
Ông X bảo:
- Dùng áp lực bắt dồn phiếu đến mức đó, thì quả là cấp thừa hành vụng dại và làm hại chế độ khi tưởng là lập công.
Tôi nhớ trước kia một người vấn có nhiều thiện cảm với ông Diệm, cũng đã nói thẳng ra: Giả thử ông bà Nhu bị rớt vì kém phiếu, thì chánh quyền lại được tiếng tốt, vì sự thất cử chứng tỏ cuộc bầu cử rất công chính. Miễn sao đa số trong Quốc Hội vẫn là người của đoàn thể bạn...
Dẫu nhìn theo nhỡn quan của chính quyền, tôi tưởng cũng chẳng cần dàn cảnh, đối với ông Nhu, ở nhiều Tỉnh Trung Phần hoặc miền Đông Nam Phần. Tại đó, chắc nhiều người sẵn lòng bầu ông.
Mà ông cần gì tranh cử? Chẳng vào Quốc Hội, ông Cẩn vẫn ‘’chỉ đạo’’ như thường và Cố Vấn vạch đường cho Khối đa số tại Quốc Hội. Thực ra, mấy khi ông Nhu làm việc với tư cách Dân Biểu?
- Các Dân Biểu cũ đối với ông Diệm, có giúp được việc gì đáng kể không?
- Ở thời nào cũng không thiếu những người xông ra vì lợi và danh. Song cũng khá nhiều người cho biết: Phải ra, dù mang tiếng là người rơm bị giật dây, vì cần làm hậu thuẫn cho ông Diệm; ai cũng có quyền tham gia nhập một đoàn thể, chọn người lãnh đạo và tin theo người đó; tuy vậy, hễ quý trọng ông thì bị chê là nịnh bợ, ủng hộ cho ông dễ làm việc, thì bị coi là bù nhìn, chấp nhận một kỷ luật chung, một chính sách chung và tranh đấu cho chính sách ấy thể hiện, sao lại trách là nhằm tổ chức độc quyền đảng trị? Quốc Hội gì mà lúc nào cũng ‘’đi’’ với Hành Pháp? Nhưng thử hỏi lại: Có Hành Pháp nào chẳng mong được sự ủng hộ của Lập Pháp? Còn tìm mọi cách để nắm nữa là khác...Không chống đối, thì kêu là chỉ biết vâng dạ, nhưng nếu tin là phải đúng, thì sao lại chống đối? Nếu đôi khi có sự bất đồng ý ý, mà không lên tiếng gay go, là vì phải dành quyền quyết định tối hậu cho cấp lãnh đạo đoàn thể kiêm lãnh đạo chánh quyền...
Song muốn lý luận thế nào đi chăng nữa, công chúng vẫn hoài nghi hoặc chẳng hoan nghênh, vì cho là Quốc Hội thiếu tác phong dân chủ, không hề thấy bác bỏ đề nghị nào của Hành Pháp. Dẫu đôi khi có điểm thắc mắc do một vài Dân Biểu nêu ra, các dự án vẫn được chấp thuận sau một phiên giải thích của Bộ sở cơ quan hoặc cùng lắm là sau vài phút khuyến cáo của ông Nhu hay huấn từ của ông Diệm.
Thực ra, cũng đã xảy ra những vụ chống đối với những lời chỉ trích gắt gao, nhất là của những Dân Biểu thuộc nhóm thiểu số. Như đã có lần, một vị lên án dự luật gia đình mà ai cũng biết là do bà Nhu chủ xướng, đến nỗi bà tức giận phải rời bỏ phòng họp (ngày 21 tháng 12 năm 1957). Lần khác, cả nhiều vị thuộc Phong Trào hay Cần Lao, cũng tỏ lòng công phẫm vì bà đã công xúc Quốc Hội bằng hai tiếng ‘’thật hèn’’ khi chê bai những vị đã công kích dự luật ‘’chỉ vì muốn lấy vợ lẽ’’ Nên ngày 22 tháng 1 năm 1958, bà phải cho ra một thông báo, minh xác là đã nói ‘’thất hẹn’’ chớ không phải là ‘’thật hèn’’ Lỗi của giọng nói không rõ, hoặc của những màng tai không thính? Dù sao, Quốc Hội đã rộng lòng thông cảm và chấp nhận sự phân trần về dấu sắc, dấu nặng và dấu huyền. Nhưng cũng chưa xong chuyện. Ngày 21 tháng 5 năm 1958, một Dân Biểu lại đả kích dự luật, vì tổ chức gia đình theo văn bản này, là trái luận tạo hóa, gây xung đột và xáo trộn xã hội, và chống Cộng như thế là ‘’chỉ chống Cộng có một chân’’ v.v...
Sự liên lạc Lập Pháp-Hành Pháp như vậy cũng khá vui nhộn, dù sao không nêu lên vấn đề gì nan giải.
Song Hành Pháp vẫn thấy chưa đủ sự dễ dàng để hoạt động. Ngày 15 tháng 10 năm 1961, ông Tổng Thống ra sắc lệnh tuyên bố tình trạng khẩn cấp trên toàn quốc, và yêu cầu Quốc Hội để cho ông ban hành sắc luật thay các đạo luật, về các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, và điều động nhân lực cần thiết.
Quốc Hội biểu quyết chấp thuận ngay bốn hôm sau, bằng Đạo Luật 13/61 ngày 19 tháng 10 năm 1961. Sự ủy quyền này được coi như cần thiết, vì tình thế có suy sụp trên các lãnh vực quân sự, tài chánh và quốc tế.
Ông Tổng Thống đã dựa vào văn kiện trên mà ra những sắc luật về các ngân sách quốc phòng và kinh tế, các vụ cải hối xuất cùng thuế xuất, trưng tập y sĩ, lập các tòa án mặt trận, kiểm soát hội họp v.v...
Nhưng tại sao áp dụng thủ tục đặc biệt cho cả những việc chẳng có chi là cấp bách bất thường, không để lại cho Quốc Hội xét định, như thể lệ hành nghề y sĩ (Sắc Luật 6/62) thuế đánh trên giá thuê nhà quá đáng (Sắc Luật 13/62) sự tân tạo tu bổ nhà cửa bất hợp pháp (Sắc Luật 16/62) thuế tem thơ và con niêm (Sắc Luận 20/62) chế độ đầu tư (Sắc Luật 2/63) sát sinh gia súc (Sắc Luật 7/63) vệ sinh trong các thành phố (Sắc Luật 11/63) v.v...Như vậy, Quốc Hội có cũng như không?
Các cơ quan hành pháp đã thừa dịp đệ lên Tổng Thống những việc đáng lẽ cứ phải chuyển cho Quốc Hội thảo luận. Ông Diệm vẫn ký, không phân biệt chi hết, và nếu có bắt ông phân biệt, thì cũng tội cho ông, vì ông không phải là nhà luật học.
Lề lối đó cho cảm tưởng là trong thực tế, và đối với Hành Pháp, càng tránh được Lập Pháp chừng nào càng hay. Người ta thường lo rằng Quốc Hội bàn cãi tốn thời giờ và làm chậm trễ công việc.
Phải chăng ai nấy đều mặc nhiên coi Quốc Hội Cộng Hòa I là không cần thiết, là một chướng ngại, cùng lắm là một hình thức trang trí để chế độ có vẻ dân chủ mà thôi? Tôi không mong gì hơn là được cải chính với những bằng chứng cụ thể.
Nhiều vị Dân Biểu đã tin rằng nhiệm vụ của mình là hãy có mặt để thể hiện chế độ và ủng hộ cho Tổng Thống làm tròn sứ mạng: Về phương diện này, không thể nói là Quốc Hội không được việc.
Song nếu chỉ có thế, vai trò của Quốc Hội gần như tiêu cực và khiêm tốn quá?
Sau khi Hiến Pháp được ban hành (ngày 26 tháng 10 năm 1956) Quốc Hội Lập Hiến bầu ngày 4 tháng 3 năm 1956 đương nhiên biến thành Quốc Hội pháp nhiệm đầu tiên. Quốc Hội II được bầu ngày 30 tháng 8 năm 1959, gồm 123 Dân Biểu với nhiệm kỳ ba năm; nhiệm kỳ này tăng lên bốn năm theo Hiến Luật 1/62. Quốc Hội III, được cử ngày 27 tháng 9 năm 1963, tức là hơn một tháng trước ngày chế độ bị cáo chung.
Công việc lập pháp bắt đầu từ 1957, và trong gần bảy năm, Quốc Hội đã biểu quyết về 80 đạo luật. Số này đáng lẽ có thể nhiều hơn, song từ năm 1959 và nhất là từ năm 1961, có 52 vấn đề khẩn bách hay không khẩn bách, phải dành cho các sắc luật do Hành Pháp soạn thảo và ban hành, chiểu sự ủy quyền đặc biệt cho Tổng Thống.
Số tác phẩm không nhiều, song cũng tỏ rằng các Dân Biểu có làm việc. Sự cố gắng được thấy rõ nhất ở những năm chưa phải nhường quyền lập pháp cho ông Diệm: Quốc Hội đã cho ra 18 đạo luật năm 1957, và 19 đạo năm 1958.
Thiện chí của pháp nhiệm đầu, tiếc thay, lại không được hướng dẫn và một chương trình lập pháp hợp lý hơn, để nhiều vấn đề quan trọng được giải quyết trước những việc thông thường hay tỉ mỉ.
Như các cơ cấu quốc gia, Viện Bảo Hiến, Hội Đồng Kinh Tế v.v...thì mãi tới năm 1960 và 1961 mới được thiết lập. Song ngay từ đầu nhiệm kỳ và ngoài bảy đạo luật về thuế, Quốc Hội đã tốn nhiều ngày về việc lấy nhãn cầu người chết để chữa mắt (Luật 11/57) tái đang ký tàu thuyền (Luật 12/57) pha huyết chế huyết (Luật 18/57) cấm đánh cá bằng chất nổ chất độc (Luật 14/58) v.v...
Về những năm sau, xem chừng các công tác đã bớt dần tính cách linh tinh rời rạc, để chuyển theo từng khu vực, như về hình sự 1959 (chống tham nhũng, chống phá hoại, chống mạo hóa v.v...) về kinh tế tài chánh 1960 (quan thuế biểu, thuế gián thâu và trực thâu, mua bán tàu biển, mua bán bất động sản của ngoại kiều...)
Cách hoạt động như trên, có thể giải thích bằng sự thiếu sáng kiến? Phần nhiều dự luật không do Dân Biểu đề nghị, mà tùy Hành Pháp khởi thảo theo nhu cầu, rồi chuyển qua Quốc Hội thẩm định. Điểm đó lộ rõ nhất, khi ông Tổng Thống cần xúc tiến sự thiết lập những cơ quan đã dự trù từ 1956 để tỏ rằng ông muốn thực thi dân chủ, sau vụ biến cố tháng 11 năm 1960. Quốc Hội biểu quyết một loạt ba Đạo Luật 7/60, 5/61 và 6/61.
Trong thành tích của Quốc Hội, một phần đã tiêu tan cùng chế độ; đó là những đạo luật ban hành để sửa đổi Hiến Pháp và tổ chức công quyền: Như các luật bầu cử Tổng Thống, Phó Tổng Thống và chính Quốc Hội, luật về Thượng Hội Đồng Thẩm Phán v.v...
Một số luật khác, khét tiếng là thất sách, phải biểu quyết dưới áp lực cá nhân, gồm những điều khoản cưỡng chế bất chấp công luận, đã bị xóa bỏ ngay từ cuối năm 1963 hay giữa năm 1964; Luật Gia Đình 1/59, Luật Bảo Vệ Luân Lý 12/62.
Chỉ còn sống sót, những đạo luật không nhuộm màu chánh trị, thuộc các lãnh vực chuyên môn, hành chánh, xã hội: Như bằng sách chế (Luật 12/57) nhãn hiệu thương hiệu (Luật 6/59) hệ thống cân lường (Luật 15/58) xổ số và lạc quyên (Luật 6/59) nhập cảnh và xuất ngoại (Luật 13/58) tòa án thiếu nhi (Luật 11/58) Quốc gia tương trợ cựu chiến binh và cô nhi quả phụ (Luật 3/62)...
Di sản đó không được là bao, song Dân Biểu cũ chưa giống hẳn dã tràng xe cát. Và khi nhiều luật lệ của chánh quyền thuộc địa Pháp vẫn còn được tôn trọng, thì sự duy trì những đạo luật của Quốc Hội Cộng Hòa I, ngay đối với những ai không quan tâm đến sự liên tục quốc gia, chắc cũng không gây mặc cảm nào.
Song đáng chú ý hơn cả, không phải là số phận của Quốc Hội này, vì mất còn là sự thường trong lịch sử; nếu xét theo ý niệm tương đối và nhất thời của các giá trị chính trường, có lẽ chỉ nên ghi nhận rằng: Quốc Hội 1956-1963 đã chịu trách nhiệm hay được vinh dự thí nghiệm lần đầu một công quyền tạm coi như dân cử, với những thể thức thành lập và thủ tục điều hành chưa từng thấy áp dụng bao giờ, kể từ 1948. Những bước tập đi, sao khỏi chập chững? Nên sự cải tiến hoặc thành công, phải đợi chờ ở những Quốc Hội sau?