← Quay lại trang sách

LANG THANG TRÊN CÁC ĐỊA HẠT

Bởi thấy chế độ Cộng Hòa I có tính cách nhân trị hơn là pháp trị, tôi đã cố theo dõi ảnh hưởng của ông Diệm trên các lãnh vực, hơn là thành quả của chánh quyền 1954-1963.

Vả lại, đối với riêng tôi, ông là một con người mà tôi muốn tìm hiểu, hơn là một Quốc Trưởng với một công cuộc chưa thể phê bình dứt khoát. Nên tôi đã chú ý nhiều đến tác động cá nhân của ông trong khi xem công việc của từng cơ quan.

Khi nói rằng Hành Pháp mạnh, nhiều người chỉ mặc nhiên so sánh với Lập Pháp, và thường nghĩ tới một Tổng Thống không thuộc quyền kiểm soát chế ngự của Quốc Hội, hoặc có uy lực chi phối được đa số Dân Biểu...

Song một Hành Pháp mạnh còn phải đủ sức điều động dễ dàng guồng máy quốc gia, khiến lịnh cấp trên được cấp dưới tuân hành mau lẹ.

Về phương diện này, ông Diệm đã sớm đạt ý muốn, bằng cách dồn quyền lên cấp tối cao.

Các Đại Biểu Chánh Phủ, tuy đã mất bề thế và phương tiện của các Thủ Hiến thời trước, lại bị giảm quyền lần nữa, và từ năm 1956, chỉ giữ nhiệm vụ phối hợp và thanh tra. Đô Trưởng, Thị Trưởng, Tỉnh Trưởng, rồi Quận Trưởng đều do Tổng Thống bổ nhiệm hoặc cho bổ nhiệm, và nhận chỉ thị trực tiếp của ông bằng công văn, điện thoại hay khẩu lịnh nhân dịp diện kiến. Cứ như vậy, khi Bộ Nội Vụ được giao cả cho Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống, hoặc do một Bộ Trưởng chuyên trách.

Tại Trung Ương, quyền của các Bộ cũng bị rút theo một lối rất giản dị, là đặt trực thuộc Phủ, nhiều cơ quan đáng lẽ phải nằm trong các Bộ: Bảo An, Dân Vệ, Dinh Điền, Nông Tín, Công Dân Vụ, Xổ Số, Truyền Thanh, Du Lịch, Địa Dư, Thanh Niên, Thông Tin v.v...Tuy một số được trả về các Bộ năm 1961, số còn lại vẫn nhiều: Xã Hội, Công Tác Xã Hội Miền Thượng, Nguyên Tử Lực Cuộc, Viện Pasteur, Học Viện Hành Chánh, Kiến Thiết, Công Vụ, Ngân Sách Ngoại Viện, Kế Hoạch.

Thực ra, chỉ cần nắm vững ba Tổng Nha sau chót, ba bộ phận then chốt chuyên nhiệm về người làm, tiền tiêu và các dự án...là có thể điều hợp và hướng dẫn cả guồng máy. Song ông Tổng Thống không chịu một giới hạn nào hết; nên mỗi khi ông tỏ ra hiểu biết một vấn đề quan trọng, hoặc có vẻ chú ý đặc biệt đến một loại công tác, là tôi chờ đón một lịnh đem cơ quan liên hệ về Phủ.

Chính sách này đã bị một bạn tôi kêu là ‘’chính sách bạch tuộc’’ nắm cả mười tay, nhưng lạ thay, lại được nhiều cao cấp hoan nghênh. Có mấy ông lên phàn nàn về những nỗi khó khăn đã gặp ở phía cơ quan khác. Tôi nghĩ bụng: Không khéo lại viện cớ xin trực thuộc đây...Rồi quả nhiên, ông máy riêng tôi với một nụ cười hữu ý: Có thể kéo quách vể không?

- Về đây, thì sẽ bị hành luôn luôn, nghe quát tháo chớ sung sướng gì? Gần mặt trời mà không lo sạm mặt sao?

- Cụ rầy la còn hơn là ông khác hạch xuông. Cụ la hộ thì việc chạy. Dựa vào Cụ mà bảo, thì hẳn được nghe theo. Nhờ ông Bộ tranh đấu, lắm khi chẳng ăn thua gì, việc vẫn bị Bộ khác ốp.

Kể thì cũng đúng: Hễ trình việc, mà được Cụ ừ rồi, thì dẫu phải liên lạc với cơ quan khác, vẫn được thông cảm dễ dàng. Còn ai nỡ từ chối chiếu hội hay thỏa hiệp khi thấy chữ Y đỏ trên hồ sơ, thế là khỏi điều đình thảo luận lôi thôi. Kết quả đó cũng đạt mau lẹ, nếu quả quyết rằng ‘’thượng cấp’’ tuy quên phê, đã gật hoặc quở rằng sao việc kéo dài?

Có ông còn cho biết: Ở Bộ, thì dễ bị thay đổi cùng Bộ Trưởng; về Phủ, nếu được Cụ ưng thì có thể lâu bền và khá hơn. Điều này cũng không sai. Ông Diệm có lối xem xét để thử thách trước khi trọng dụng, như lấy về làm sĩ quan tùy viên rồi cho đi Tỉnh Trưởng; đã có người được lên Bộ Trưởng hay Đô Trưởng sau một thời gian phục vụ bên ông. Nên tháng 5 năm 1961, khi nghe nói một số Nha Sở sắp bị trả về các Bộ, một vị lên Phủ vận động, và xin cả Cố Nhu can thiệp để duy trì tình trạng trực thuộc.

Những lý do tụ quyền đó, hẳn là vượt cả sức suy luận cũa những nhà luật học uyên thâm, và chỉ có thể tìm thấy bởi những cáo già công sở, nhưng rất dễ hiểu trong hoàn cảnh chính giới thiết thực trước năm 1963. Dù sao, tinh thần ‘’hướng thượng’’ của nhiều công chức, cũng khéo hòa hợp với chánh sách của cấp lãnh đạo. Ông Diện muốn đưa nhiều cơ quan về Phủ để các hoạt động theo sát đường lối ông; người chuyên trách cũng muốn nhờ thế ông cho gọn việc mình.

Sự can thiệp của ông nhiều ít tùy ý niêm chủ quan về khả năng ông. Ông làm lấy, hay xen vào, khi cho là hiểu biết hơn người, như về nông thôn và hành chánh; ông để cho làm, nếu lượng sức mình không đủ, như đối với việc kỹ thuật. Xét chung, thì dĩ nhiên dấu vết của ông rõ rệt nhất ở các địa hạt bị coi là trực thuộc.

Vấn đề công vụ đối với ông phải là quyền lợi của công chức hoặc là tổ chức công sở với những quy chế, ngạch trật, đảm bảo nghề nghiệp...nhưng trước hết hoặc chỉ là vấn đề chánh trị, tác phong và bổn phận.

Ông không quan tâm đến sự cải thiện đời sống của người giúp việc, dù xa hay gần ông: Ông cho là giới nhân viên chánh quyền được ưu đãi rồi. Chỉ số lương căn bản trong chín năm, không được xét lại lần nào. Hàng chục hồ sơ xếp ngạch hay thăng trật, bị ông bỏ mặc vài năm chưa xét. Có lẽ ông không ý thức nổi nhu cầu sinh hoạt của các gia đình, nhưng chắc chắn là ông chỉ nghĩ đến sự thi hành trách vụ của mọi cấp, nhất là đến sự trung thành đối với riêng ông.

Điều này được những người tinh khôn nhận rõ. Một vị cho biết: Trình ông phiếu điểm nhân dịp tư thăng, thì ông không nói gì khi thấy phê là ‘’trung thành với chánh nghĩa quốc gia’’ nhưng ông ôn tồn hỏi về năng lực, về tánh hạnh, ngay cả về gia thế nếu đương sự ‘’tuyệt đối tin tưởng vào Ngô Tổng Thống và sự lãnh đạo anh minh của Người.’’ Chuyện này được loan truyền rỉ tai mau lẹ, và sau đó, trên các hồ sơ cá nhân, công thức thứ nhất sớm nhường chỗ cho công thức thứ hai được coi là hữu hiệu hơn nhiều.

Ông đã tin dùng một số người không trung thành cho lắm, hoặc được ngộ tưởng là có biệt tài. Ông cũng không tránh khỏi thói thường của nhiều nhà cầm quyền thuở trước. Ưa ca tụng nên dễ bị hiểu lầm. Tuy nhiên, cũng có một thời gian ngắn đã tỏ ra đắc lực: Ông trọng dụng, cho giữ chức vụ cao tuy còn ít tuổi và chưa đủ thâm niên.

Muốn tìm người khá, ông không ngần ngại gạt bỏ thông lệ và cho hưởng những quyền lợi đặc biệt: Đó là trường hợp của những thanh niên từ ngoại quốc trở về phục vụ. Bởi thế, và mặc dầu có sự tị nạnh, ông đã đặt ra Đoàn Tham Vụ Chuyên Môn với những trợ cấp và thang lương cao hơn của công chức các ngạch cao đẳng; có người còn được trả một phần lương bằng ngoại tệ để gửi cho vợ con chưa theo về Việt Nam.

Thực ra, trong giới công chức, chỉ có hạng chuyên viên là được ông nâng đỡ; kỹ sư, dưới mắt ông, cần hơn các hạng nhân viên khác cho công cuộc phát triển kinh tế mà ông muốn thực hiện gấp; ông hỏi họ luôn, và nghe họ khá nhiều. Còn về chánh trị, xã hội, hành chánh, thì Tổng Thống ‘’dạy’’ chớ không cần học ai cả; cố vấn Mỹ cũng bị ông coi thường: Họ còn phải tìm hiểu nhiều trước khi đề xướng.

Những trường hợp ưu đãi, tất nhiên đã gây sự suy bì và làm tăng nỗi bất mãn ngấm ngầm trong hàng ngũ công chức. Có lần, một Bộ Trưởng đã lưu ý ông: Chế độ dựa nhiều vào giới này. Ông Bộ muốn Tổng Thống nhận rằng cần có cách đối xử thích hợp hơn, nên đã nhấn mạnh: Bất cứ biện pháp chánh trị nào cần thí nghiệm, là cũng trông cậy vào công chức hơn vào các tầng lớp khác; Cải tiến Dân Sinh, Phát Triển Cộng Đồng? Công chức phải lo trước; Phong Trào Chống Cộng? Công chức phải học tập; Phong Trào Cách Mạng? Công chức phải tham gia; Thanh Niên Cộng Hòa, Phụ Nữ Liên Đới? Công chức cùng vợ con đi trước; Ấp Chiến Lược? Cũng lại công chức...

Ông lắng nghe, nhưng chỉ hỏi lại: Coi phụ cấp hành quân có cho cả Bảo An và Dân Vệ không? Quân Tiếp Vụ có cung cấp được đủ cho Quân Đội chưa, nghiên cứu về lương khô đến đâu rồi? Nghĩa Tử Cuộc xây mãi chưa xong, bao giờ cho ông khánh thành?

Về phần công chức, ông dặn: Phải làm sao cho hoạt động nhiều hơn trong Liên Đoàn Cách Mạng, nghe nói còn lắm kẻ lừng chừng. Các lớp học Nhân Vị được bao nhiêu người, thì cho ông biết.

Vài cao cấp nghe chuyện, phàn nàn rằng ông chỉ nhìn theo một chiều, công chức chỉ kéo cày mà thôi, tình cảnh ra sao ông không cần rõ, tuy giá sinh hoạt cứ tăng, dưới các trào ông Hữu ông Tâm, nhân viên còn đủ ăn hơn.

Song cũng có vị nhắc tới một trở ngại khó vượt. Tăng lương, nên lắm cả có thể thu xếp, nhưng nếu tăng cho công chức, thì không thể bỏ quên quân đội, mà tăng cả hai bên, thì thiếu tiền, vậy nếu ông Tổng Thống muốn cho nhân viên toại nguyện, cũng chẳng ai mách nổi ông lấy gì bù đắp số thiếu hụt của ngân sách.

Ông không thông thạo về tài chánh, tuy đã làm việc công lâu năm. Ông chỉ nhìn nhận ra phần rườm rà của các thủ tục mà ông không buộc phải theo khi còn làm quan.

Ông muốn được việc trước hết, nên hễ cần xúc tiến, ông sẵn sàng chấp thuận những biệt lệ để chi tiêu, như về dinh điền, công tác phi trường v.v...

Chính ông giữ chừng một trăm triệu: Khi đi kinh lý, nếu thấy việc nên làm gấp, ông cấp luôn tiền cho khởi công hay hoàn tất rồi lo liệu giấy tờ hợp thức hóa sau: Quốc Lộ 14, Quốc Lộ 19, nhiều khu định cư hay trù mật...đòi hỏi mấy triệu thì ông cho liền.

Sự dễ dãi này đã gây hiểu lầm về quỹ mật của ông, và để ngỏ cửa cho sự tham nhũng lạm của những cấp thừa hành quá khôn ngoan.

Đáng lẽ các dự án đều phải được thỏa hiệp của Tổng Nha Ngân Sách, rồi ông hãy duyệt y. Song lắm khi ông sốt ruột, và tin rằng chính ông xét và ưng là đủ.

Khi ông quyết định đưa Tổng Nha trên về Phủ Tổng Thống, một cố vấn Mỹ đã lưu ý ông: Nếu muốn cơ quan này làm tròn nhiệm vụ thì phải đề cho quyền ngăn chặn mọi sự quá mức bất cứ của ai. Ông đồng ý, và bảo kiếm một Tổng Giám Đốc nào dám từ chối nếu cần, ngay đối với ông. Riêng tôi trộm nghĩ vị đó chưa giáng trần hay chưa hạ sơn.

Mỗi lần coi qua dự án ngân sách, ông thấy tăng các khoản chi, lại căn dặn phải hết sức tiết kiệm, và chẳng năm nào không ký một thông tư khuyến cáo mọi cấp. Ông hạn chế số công xa, ông soát lại từng trường hợp phân phát và đòi thu cả xe của các Tổng Thư Ký Bộ, ông ra lịnh bãi bỏ hết mọi khoản xa hoa.

Nhưng phản ứng của ông không khác nào của lắm bà nội trợ rộng tay và cả nể, tính sổ cuối tháng thấy tiêu nhiều quá thì sốt ruột và quyết giảm chi hàng ngày, rồi chẳng bao lâu lại trở về thói cũ vì không nỡ để chồng con phải thiếu thốn.

Tuy bắt thắt chặt, chính ông thường nới nút khi được nài van: Tiền mua khăn giường ngủ cho vị này, tiền sửa nhà sắm đồ cho các vị khác...Tổng nha chuyên trách vẫn bạc, theo đúng chỉ thị của ông, song chỉ mang oán vô ích mà thôi.

Dự án chi thu của các Tỉnh được đưa về mổ xẻ tại Nha, và bị cắt xén những khoan dự trù quá đáng. Ít lâu sau, lại phải cho số triệu đã rút, vì ‘’Tỉnh tôi có khẩu trình nhân dịp Thượng Cấp kinh lý, và Người đã chấp thuận...’’

Về ngoại viện, ảnh hưởng cá nhân của ông không rõ rệt; vì việc sử dụng phải tùy thuộc những quy lệ và thể thức chặt chẽ của các cơ quan viện trợ, nhất là của Hoa Kỳ; ngoài ra, còn phải căn cứ vào những dự án chuyên môn tỉ mỉ, nghĩa là những sự kiện mà ông chẳng có ngày giờ và đầu óc nào để tự ý quyết định.

Cũng vì thế, mà ông không can thiệp nhiều vào hoạt động của Tổng Nha Kế Hoạch, mặc dầu ông vẫn đòi phúc trình luôn.

Vả lại, việc của Nha này thường liên quan đến nhiều Bộ, nên phải đưa ra xét tại các Ủy Ban, Hội Đồng Tiền Tệ mà thẩm quyền bao trùm lãnh vực kinh tế tài chánh: Nên ông yên trí rằng việc được nghiên cứu kỹ.

Ngay về chánh sách, các ý niệm căn bản do Tổng Nha trình lên, cũng không được ông chú ý hoặc chấp nhận dễ dàng. Ông không thúc đẩy Phát Triển Cộng Đồng tuy công cuộc phù hợp với chủ trương đồng tiến. Chế độ đầu tư, mặc dầu rất cần được quy định sớm để thâu hút nhiều tư bản ngoại quốc, cứ bị bỏ lửng rất lâu: Bộ Trưởng trong Phủ phải năn nỉ nhiều lần, ông mới chịu ký Bản Tuyên Ngôn năm 1957, và đạo luật mong đợi, mãi tới 1963 mới được ban hành.

Đâu phải là ông hờ hững, khi ông chỉ đòi tiến mạnh? Song ông làm thinh vì trí não ông không quen lý hội sự gì trừu tượng và tổng quát. Ông chỉ ưa việc cụ thể, ông hình dung được rõ, mới chịu là cần và để cho làm; ông xét định về từng trường hợp và từng công tác, dễ hơn là về toàn diện vấn đề. Bởi thế, Phát Triển Cộng Đồng với lãnh vực mênh mông, đối với ông không đáng chăm sóc bằng nhà máy xi măng Hà Tiên, Xa Lộ Sài Gòn-Biên Hòa v.v...mà các dự án được chấp thuận khá mau lẹ.

Cũng tại bộ óc của ông như trên, mà hoạt động của Tổng Nha phải đổi chiều. Ông đem từng xí nghiệp quốc doanh hay hợp doanh giao cho người phụ trách Kế hoạch, nên ông này phải dành nhiều ngày và sức vào những nhiệm vụ chính yếu như phối hợp sự thực hiện các chương trình trên mọi địa hạt. Một số cố vấn Mỹ có lưu ý ông Tổng Thống về điểm này, nhưng ông bảo. Tôi giao việc gì, làm nổi việc ấy, đủ rồi, cần chi khác, việc ai nầy làm, lo chi hộ?

Nghe nói đến lợi tức quốc gia hay viện trợ kỹ thuật, thì ông không có phản ứng gì. Song một việc của Tổng Nha được ông theo dõi nhiều nhất, là xuất ngoại du học. Ông định tỷ lệ phân chia cho từng Phần, ông xét lấy trường hợp các tu sĩ đi học đạo, ông quở trách sao đã để một phụ nữ thiếu đạo đức hạnh ra ngoài gây tai tiếng...Có người cho là ông xen vào việc, vì khía cạnh chánh trị; nhưng tôi vẫn nghĩ còn lý do nữa, là việc có tính cách cụ thể nên hợp với bản chất của ông.

Khắc khổ như ông, tất không dung thứ những hành vi hay những tập quán trái với tuần phong mỹ tục theo quan niệm cổ truyền.

Nên ngay khi lên cầm quyền, ông đã tỏ rõ tham vọng bài trừ các tệ đoan ở ngoài cũng như ở trong chính giới.

Sự đóng cửa sòng bạc và khu giải trí Đại Thế Giới, phải chăng chỉ là biện pháp chánh trị làm cạn nguồn lợi tức của một lực lượng đối lập?

Nếu dựa vào tánh tình ông mà xét, thì cũng có thể nghĩ rằng quyết định kia là phản ứng tất nhiên của một người nuôi mộng gột rửa cho xã hội sạch sẽ hơn. Cũng vì lý do này, mà năm 1958, ông bác bỏ đề nghị có lợi về mặt du lịch và kinh tế của một hãng hàng không Mỹ muốn bỏ vốn xây một khách sạn tối tân hạng quốc tế, mà Sài Gòn đang cần gấp; ông không thể chấp nhận điều kiện cho đánh bạc và tổ chức những trò chơi không hợp với đạo đức.

Phong trào chống tứ đổ tường mà ông thúc đẩy từ năm 1955, đã gây nhiều bất mãn trong giới ăn chơi, và còn bị nhiều người lành mạnh chỉ trích vì những cử chỉ quá đáng hoặc vụng về của cấp thừa hành trong việc ngăn cấm. Đã xẩy ra những vụ bắt oan, những chuyện phẫn uất làm cho dư luận sôi nổi. Ông Diệm cũng biết, nhưng sự cương ngạch của ông không thể lay chuyển. Ông đã đóng cửa sòng Chợ Lớn dù có thể bị lật đổ bằng võ lực, thì không khi nào ông tin là xuất phát từ những nguồn bất chính. Chỉ thị của ông. Nhân viên có lỗi thì bị phạt, nhưng không vì thế mà chính sách phải thay đổi.

Các Đạo Luật Gia Đình và Bảo Vệ Luân Lý rất phù hợp với triết lý và quan niệm xã hội của ông, nên được ông bệnh vực, mặc dầu Chỉ Đạo ngoài Huế nhắn tin khuyên ông dè dặt. Hình như theo ông Cẩn, thì ‘’việc muốn hay còn phải tùy người đưa ra mới hay.’’ Song ông Diệm làm ngơ, có lẽ vì ông cũng đồng ý rằng ‘’kẻ nào có tật mới sợ Luật Gia Đình’’ một câu đã khiến ông Cẩn nổi đóa.

Trên địa hạt xã hội, xét ra sự can thiệp của ông chỉ có tính cách tiêu cực: Cấm đoán, diệt trừ, trừng trị. Còn những tổ chức và hoạt động nào có tính cách tích cực thì không mang vết tích gì của ông: Tòa án thiếu nhi, quán cơm xã hội, trại hè, lớp cán bộ, nhà thanh niên v.v...Chỉ có Trung Tâm Hướng Nghiệp Vườn Lài được ông chú ý dạo đầu; đến năm 1959, ông bảo đem giao cho các bà phước, rồi bỏ mặc không nhắc tới nữa.

Người miền Thượng được ông săn sóc nhiều hơn, có thể nói là săn sóc đặc biệt.

Khi bãi bỏ Hoàng Triều Cương Thổ, chính ông đã đặt ra danh từ ‘’đồng bào Thượng’’ để thay những chữ ‘’thiểu số’’ hoặc ‘’sơn cước’’ đã gây những sự hiểu lầm.

Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng trực thuộc Tổng Thống hơn là trực thuộc Phủ Tổng Thống. Vì mọi việc phải trình ngay lên ông, giấy tờ cũng không do các văn phòng xét trước, song phải đệ thẳng cho ông xem và phê.

Ông bảo: Người Thượng đã tuyên thệ trung thành với ông, thì ông trông nom lấy càng nhiều càng hay, và có như thế, đồng bào Thượng mới sớm tiến theo cũng nhịp với người Kinh.

Ông đã dùng những chữ khai hóa khi nói về công cuộc mở mang Cao Nguyên. Ông chú trọng đến mọi trạng thái sinh hoạt của các sắc tộc, và muốn huấn luyện, hướng dẫn, từ sự ăn mặc đến cách làm việc. Ông sửa lấy những kiểu áo quần muốn cho may và đem phát, ông rất phiền khi thấy nhiều người còn phơi trần thân thể.

Theo thói riêng, hễ quan tâm đến việc gì, là ông đi sâu vào chi tiết, muốn làm và muốn biết quá nhiều. Ông thường sửa chữa những dự thảo công văn liên quan đến miền Thượng, có khi đọc từng câu cho phép ghi chép nguyên văn.

Một tỉ dụ điển hình nhất, cho thấy ông nghĩ và làm lấy việc ra sao, là Thông Tư 27/TTP/VP ngày 17 tháng 3 năm 1958 mà hầu hết là tác phẩm của ông: Súc tích đến nặng nề, cẩn thận quá hóa tỉ mỉ, phân tích mà không tổng hợp, cần nội dung chớ không kể đến từ ngữ và hành văn.

TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA

Gởi: Các Tỉnh Trưởng Đồng Nai Thượng Pleiku, Kontum, Darlac.

Các Tỉnh Trưởng các Tỉnh Nam Phần và Trung Nguyên Trung Phần có dân cư Thượng.

Lâu nay đã nhắc nhiều về vấn đề nghiên cứu và thi hành phương pháp để bài trừ sự đốt rừng làm rẫy có hại lớn cho lâm sản đất đai, và về vấn đề liên hệ với vấn đề trước là việc cải tiến dân sinh cho đồng bào Thượng.

Có những tỉnh chậm trễ chưa phúc trình cho thiết thực.

Về vấn đề cải tiến dân sinh, có nơi thì quy nhiều làng gần nhau thành liên xã, rồi lập hợp tác xã để cho đồng bào Thượng bán lúa của họ; khi sau họ thiếu lúa thì bán lại cho họ theo giá họ đã bán; đồng thời khuyến khích họ trồng thêm thuốc, đậu v.v...để họ có thể đến hợp tác xã bán rồi mua đồ như savon, vải bố v.v...Tức là tổ chức trước tiên để cho họ tập cày bừa, nuôi heo lấy phân, cày thêm ruộng. Hợp tác xã cũng là do người Thượng chuyên làm, địa phương chỉ cho người đi kiểm soát giúp một ít mà thôi.

Có nơi thì làm trụ sở liên xã, với phòng cho thuốc, khuyên một ít người Kinh đến ở gần, bày vẽ cho họ nuôi heo, cày bừa, trồng cây, dùng phân bón, và tổ chức những lớp huấn luyện cán bộ trong một thời gian ngắn về các phương diện chánh trị xã hội v.v...

Có nơi thì thêm sự luyện tập cho họ làm nghề may tay, may máy, làm thợ mộc, thợ rèn, hớt tóc, và những lớp dạy về vệ sinh thường thức và cấp cứu.

Có nơi thì tập trung đồng bào Thượng một số nhiều vào những vùng có nhiều đất để làm lúa bắp, bông dệt vải, mà khi trước họ đã có làm một phần rồi, đã quen thuộc rồi, để nội trong mùa tới họ có thể cày cuốc và tự túc với số tập trung định cư.

Có nơi thì tập trung vào những vùng có thể làm ruộng được, nhưng đất đó người Thượng trước chưa có làm; cậy vào phương tiện máy móc để khai khẩn để số dân định cư đông đúc được hưởng và tự túc.

Có nơi thì nghĩ có đồng bào Kinh đến lập nông trường rồi người Thượng bắt chước theo để cải tiến dân sinh mau chóng v.v...

Cần có một cuộc trao đổi ý kiến, thảo luận chung.

Vậy các tỉnh có dân cư Thượng phải từ nay đến ngày 27 tháng 3 năm 1958 gửi về Phủ Tổng Thống (Phòng Bí Thư) một bản trình về những sự đã thực hiện trong việc bài trừ nạn đốt rừng làm rẩy và việc cải tiến dân sinh - kể cả các sự tổ chức hành chánh trong các thôn xã - về kinh nghiệm và những phương pháp nào thích hợp hơn. Phải có bản đồ chỉ rõ những địa điểm đã thi hành, chụp hình những sự đã thực hiện. Chụp những nơi người Thượng đã biết cày, những nơi mới tập cho họ cày, những đồ dụng cụ canh nông gì hợp với công việc làm nông của họ, những đồ dụng cụ canh nông gì hợp với công việc làm nông của họ, những kiểu nhà đã làm. Họa những kiểu nhà nên làm. Kể những phương pháp gì đã dùng hay sẽ dùng để trừ nạn uống rượu, sự xa xỉ sau mùa gặt, trừ những tệ của những người Kinh lợi dụng đơn sơ của người Thượng trong việc mậu dịch.

Tập phúc trình phải gửi đúng ngày vì cũng đã gần đến mùa mưa, gần đến lúc phải trồng trọt cày cấy. Phải lập thành nhiều bản để gửi cho các tỉnh xem trước.

Theo kinh nghiệm có những điều xem có nhiều tiện lợi là lựa những nơi đã có sẵn đất ruộng để khởi sự trước.

Những điều nên chú trọng nghiên cứu là việc dùng trâu, cách gì tiện để cải trâu cho có mà cày, tập cày bừa, cuốc đào lỗ. Cách gì dạy cho họ mau làm chuồng nuôi heo lấy phân; (nếu cần khuyến khích thì lúc đầu Chánh Phủ có thể mua giúp cho họ) Cách dẫn thủy nhập điền, tiện cho họ tùy theo địa thế. Về sự đưa ít người Kinh ở với họ để làm gương, thì cách gì để tránh khỏi sự nghi kỵ xích mích.

Vấn đề tập trung số đồng bào Thượng tại nơi đất chưa khai phá là một vấn đề phức tạp, vì nếu không đủ phương tiện cải hóa đất ấy thành đất ruộng mầu hay thành đất trồng hoa mầu liền đề đến mùa sau họ có thể tự làm lấy và tự túc, thì sẽ gặp những sự ngặt nghèo, người Thượng có thể chán nản. Công việc làm nhiều nhà không phải khó, nếu đủ ngân sách giúp, nhưng nếu sau mấy tháng giúp đỡ mà người Thượng không nhớ cậy được nơi đất ấy để tự túc, thì công việc làm nhiều nhà kết quả cũng tổ chức một cái hội chợ nhất thời, phí công hiểu dụ cho người Thượng tập trung, phí ngân sách. Người Thượng chưa quen lề lối làm lụng như người kinh, một khi phải chờ đợi kết quả lâu mà họ chán nản, thì sẽ sinh ảnh hưởng tai hại cho những dân Thượng ở gần đó. Vậy vấn đề ấy phải trù hoạch rất cẩn thận; máy móc dụng cụ không phải là nhiều, việc chuyên chở, việc tiếp tế phải tùy phương tiện thông thương mới có thể kịp thời tiết, v.v...

Về sự lập lớp huấn luyện cho người Thượng, thì trừ một địa điểm trên Cao Nguyên và ở Huế do Nha Công Tác Xã Hội ở các Phần phụ trách, còn bao nhiêu sẽ do mỗi tỉnh hay là trong khuôn khổ liên tỉnh chuyên lo lấy. Điểm này sẽ xét theo đề nghị của các Tỉnh Trưởng. việc lập lớp huấn luyện cần giản tiện, thiết thực, lợi về các phương diện chánh trị, xã hội. Trong tập phúc trình, mỗi tỉnh phải trù hoạch về việc đó.

Sau khi đã được các tập phúc trình đủ tài liệu của mỗi tỉnh, thì sẽ phân làm mấy địa điểm cho các Tỉnh Trưởng nhóm họp để trao đổi ý kiến, thảo luận, và đề nghị những phương pháp thích ứng.

Sài Gòn, ngày 17 tháng 3 năm 1958

Ngô Đình Diệm