← Quay lại trang sách

LANG THANG TRÊN CÁC ĐỊA HẠT (tt)

Ông Diệm bắt đầu hỏi nhiều về công việc của Nha Kiến Thiết từ năm 1956, khi ông muốn trùng tu các lăng tẩm và cung điện ngoài Huế.

Người lật đổ Cựu Hoàng Nhà Nguyễn, lại chính là người thắc mắc nhiều đến di tích Nguyễn triều.

Ông phàn nàn luôn rằng việc kéo dài, mãi tới 1963 mà cửa Ngọ Môn, Lăng Tự Đức Điện Cần Chánh và Cung Huệ Nam còn phải tiếp tục sửa chữa.

Có lẽ cũng vì một số nhân viên khá còn bị ông huy động vào sự thiết lập các Khu Trù Mật.

Các khu này quy tụ nông dân, để bảo vệ, cứu trợ và cải tiến. Trên lý thuyết, khu là gạch nối giữa thành thị và hương thôn, với các phương tiện sinh hoạt và phát triển.

Đưa việc này lên hàng trọng tâm công tác, ông bắt ngừng xây cất các cư xá công chức để dành tiền Xổ Số cho các Khu. Ông đi kinh lý, ngắm địa thế, tìm vị trí, cấp ngân khoản, với một vẻ hăng say tin tưởng khiến nhà chức trách địa phương, vốn nòi nhậy cảm, vội thi đua lập khu lập công. Nên tới giữa năm 1959 đã có 25 khu thành lập; 25 thị trấn hoàn thành trong thời gian kỷ lục chưa đầy hai năm, được coi như một kết quả không ngờ.

Nhưng ông Tổng Thống cũng không ngờ những phản ứng trong dân gian. Lời ta thán và đơn khiếu nại tới ông mỗi ngày một nhiều; bị đe dọa nên phải dời nhà, bị thiếu thốn về mọi mặt thay vì được trợ cấp, công nho bị biển thủ, kinh phí bị phóng đại, tài sản bị xâm phạm v.v...

Ông cho điều tra: Sự oán trách không phải là vô căn cứ. Nhiều khu được dựng lên quá hấp tấp, dân chúng chưa hiểu rõ thiện chí của chánh quyền, sự giúp đỡ không đền bù các thiệt hại, và vấn đề quan trọng nhất là sinh kế chưa có giải pháp thích ứng, nhà nông không thể tiếp tục công việc hàng ngày, khi vườn ruộng cũ ở xa khu mới.

Cực chẳng đã, ông đành bảo tạm đình, và phải nghiên cứu kỹ hơn, trước khi khởi công phải trình ông xét.

Gia Cát Lượng đã than rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chắc ông Diệm phải nhận rằng mưu sự tại ông, nhưng thành sự tại những người chấp hành?

Quả vậy, ở trường hợp công việc được thực hiện theo những kỹ thuật sẵn có, do những người có huấn luyện và kinh nghiệm, thì ông được toại ý hơn nhiều, như trong sự kiến thiết hạ tầng cơ sở kinh tế, kinh rạch, đập nước, sân bay, đường cái v.v...

Ông thường trách người Pháp trước kia không chịu mở mang giao thông, nên rất nhiều vùng xa lánh hoặc hiểm trở rất khó bình định và khai khẩn. Nên ông quyết dành ưu tiên cho sự khuếch trương hệ thống liên lạc thủy, bộ và hàng không; ông chấp thuận cho các cơ quan công chánh những phương tiện và thể lệ đặc biệt để xúc tiến công tác trên nhiều đoạn quốc lộ và hàng chục phi trường.

Một chuyên viên theo ông đi kinh lý về, có bảo tôi: Ông ấy xạo xục quá, thăm đường mà hỏi căn vặn hơn Kỹ Sư Bigoene thời Pháp thuộc, nhưng có thế việc mới chạy, giá ông làm Tổng Thanh Tra như Bigorne thì không biết chừng được việc hơn làm Tổng Thống.

Tôi nghĩ ông có làm Tổng Thống mới đạt nổi kết quả mong đợi ở một Tổng Thanh Tra.

Dù sao, ông đã bị chỉ trích về hai quyết định quan trọng. cho làm lại thiết lộ Sài Gòn-Huế, và mở xa lộ Sài Gòn-Biên Hòa.

Đường xe lửa Liên Việt đã bị phá hoại mấy ngàn lần, trong thời chiến tranh Đông Dương, nên từ năm 1955 đã có người lo ngại rằng sẽ khó bảo vệ ở trường hợp tái thiết, thà để ngân khoản chữa lại Quốc Lộ 1: Như vậy, sẽ trách được nhiều phí tổn và thiệt hại, còn khuyến khích được sự phát triển ngành vận tải bằng xe hơi xe đò, đường đá dễ trông nom hơn đường sắt.

Người khác đề nghị dành tiền lập những đoàn tàu cận duyên, để liên lạc với miền Trung: Đỡ tốn hơn, khó bị cản trở, và nếu đường bộ bị cắt, thì hải thuyền vẫn chạy, vả lại, Việt Nam là xứ có nhiều bờ biển, rất cần lập ngành hải vận, đã có Hàng Không Việt Nam, thì nên có Hàng Hải Việt Nam.

Hai ý kiến trên đều đã bị gạt bỏ, nhưng về sau, thời cuộc cho thấy là thiết thực hơn. Sự phá hoại đã khiến xe lửa phải ngừng chạy trên nhiều quãng dài, cơ quan Hỏa Xa bị thua lỗ mãi, rồi khi xảy ra vụ lụt kinh khủng ở miền Trung, năm 1964, đồ cứu trợ bị chồng chất tại Sài Gòn vì thiếu tàu biển, hậu quả rất đáng buồn cho hàng chục vạn nạn nhân.

Về Xa Lộ Sài Gòn-Biên Hòa, đã có nhiều người trách: Hao tốn quá, thiếu chi việc đáng làm hơn, mà bỏ ra hàng chục triệu xây đường hóng gió hoặc mở lối đi lại cho xe hơi của Làng Đại Học...Song mục đích, thực ra là khai thông một khu kỹ nghệ tân tiến cần có đủ trang bị và tiện nghi, và nhất là tạo cơ hội huấn luyện chuyên môn từ thợ đến kỹ sư, cho họ rút kinh nghiệm về kỹ thuật lục lộ mới nhất và tốt nhất. Nếu gửi nhân viên ra ngoại quốc tu nghiệp, bất quá dăm bảy người, còn thí nghiệm ngay trong nước, thì 5.000 người được dịp học hỏi bằng cách thực tập.

Tôi còn mong rằng ở nhiều ngành khác cũng có những công tác đại quy mô thực hiện theo các phương pháp mới, để các cấp chuyên trách hiểu biết thêm mà phục vụ đắc lực hơn. Chúng ta không thể trải mãi nhựa đường theo lối Công Chánh Bắc Kỳ 1920 hay Nam Kỳ 1930; đặt thùng hắc ín bên vỉa hè, lấy củi than đốt khói mù khét lét, tồi mấy anh chị công nhân khoan thai cầm chổi quét nhựa bẩy nhầy lên những lớp sỏi đá mấp mô lẫn cả những mảnh sắt vụn, chìa khóa gẫy hay nắp hộp cũ...

Nếu cứ tô điểm sơn hà như vậy, thì còn quá thiếu những con đường dẫn tới...bến vinh quang.