Chương 10 Mất hồn
Lại hơn một tháng nữa trôi qua, mỗi ngày tôi đều phơi nắng theo lời dặn của Tần Nhất Hằng, cuối cùng da dẻ rám nắng cả. Trong khoảng thời gian này Viên Trận có liên lạc, mặc dù cũng hứng thú nhưng tôi thật không dám tùy tiện hành động. Bởi Tần Nhất Hằng nói cho tôi biết, đã tận mắt nhìn thấy những thứ kia, thì phải tĩnh mục mấy ngày. “Tĩnh mục” là cố tránh nhìn màu đỏ một thời gian, bởi màu đỏ có khả năng trừ tà, nếu nhìn thấy thì chính khí sẽ xông vào vận khí, giống như sau khi bị lạnh cóng không thể lấy lửa sưởi vậy.
Điều này cũng khớp với những luận thuyết mà Tần Nhất Hằng đã nhắc tới nhiều lần, tôi cũng chẳng biết thực hư thật giả, thôi thì cứ tin còn hơn không, thiếu lòng tin thì không thể kiên trì. Thế nhưng, cũng nhờ tĩnh mục, tôi lại luyện thành thói quen đeo kính râm. Về sau, cùng Tần Nhất Hằng ra ngoài, thoạt nhìn, sẽ thấy tôi có vẻ gì đó cao thâm khó dò.
Cuộc sống chẳng buồn chẳng lo đương nhiên tốt, nhưng sinh hoạt đình trệ cũng khiến cho người ta ngày càng nhàm chán. May sao đúng lúc này Viên Trận lại liên lạc với tôi, nói rằng có một người họ hàng cần bán nhà. Nhưng nghe tả thì ngôi nhà đó không có vẻ nhà ma, người trong nhà vẫn đang sống khỏe.
Tôi nghe xong có hơi thất vọng, nhưng vẫn muốn đi xem một chuyến, bởi từ báo giá viên Trận gửi, chúng tôi tính ra lợi nhuận cũng khá cao, hơn nữa, tôi nghĩ, không chừng nhà họ chỉ gặp phải chuyện lông gà vỏ tỏi, căn bản không cần phải dùng đến mấy môn phép thuật, chưa biết chừng tôi sẽ vớ được một món hời lớn.
Tôi bàn với Tần Nhất Hằng, thoạt tiên hắn không đồng ý, nói chúng tôi bây giờ vận may kém, làm kinh doanh chỉ sợ sẽ lỗ, nên đợi một thời gian nữa, đừng sốt ruột kẻo mang họa sát thân. Nhưng rốt cuộc không chịu được tôi chèo kéo dai dẳng, hắn đành quyết định tới xem thử.
Ngôi nhà này cách thành phố chúng tôi không xa, đi đường cao tốc chỉ mất hơn ba giờ. Vì thế cả hai quyết định tự lái xe tới, vừa tiết kiệm được tiền gọi xe và thời gian đi bộ lại vừa tranh thủ được thời gian. Tình cờ Viên Trận cũng có mặt tại thành phố đó, vừa vặn đến nơi đúng vào giờ cơm trưa, chúng tôi mời Viên Trận một bữa. Trong bữa ăn, gã kể lại đại khái tình hình của ngôi nhà.
Gia đình nọ đã ở đó mấy năm, chủ nhà là giáo viên trung học, vợ ông ta mở một siêu thị ngay trong khu nhà, hai người có một cô con gái mười sáu mười bảy tuổi, cuộc sống của ba người họ vẫn tốt đẹp. Bởi chủ nhà là giáo viên, hằng năm vẫn được nghỉ đông và nghỉ hè, hơn nữa bản thân ông ta lại thích du lịch, cho nên kì nghỉ hằng năm đều đi riêng hoặc cùng cả gia đình tìm một vài tour trong nước. Việc lạ xảy ra sau một lần đi du lịch về. Khi ấy bọn họ đi tới một ngọn núi còn chưa được khai thác ở lâm trường Đông Băc. Vì còn hoang sơ nên chưa có nhiều công nhân đến đây đào bới và gây ô nhiễm, cảnh sắc lại say lòng người, cả nhà vô cùng vui vẻ. Trước khi lên núi, chủ nhà có mua một trái dưa hấu lớn mang theo, thả dưới sông, để dưa mát rồi ăn. Nhưng khi gia đình họ đi chơi trở về thì dưa hấu dưới sông đã biến mất. Bởi lúc ấy không thể xác định được trên núi còn có dân bản xứ hay du khách nào khác không nên người nhà họ tuy mất hứng nhưng cũng đành chịu, chỉ còn cách âm thầm rủa xả kẻ câu trộm dưa hấu, cuối cùng hậm hực xuống núi.
Trên đường về, cô con gái kêu mệt, nói muốn ngủ một lát. Đường sá xa xôi, hai vị phụ huynh cũng ngủ thiếp đi. Không nghĩ rằng sau khi về đến nhà, con gái họ vẫn than mệt mỏi và ham ngủ. Thực sự chuyến đi đã hao tốn không ít sức lực, họ không thấy như thế có gì là nghiêm trọng. Nào ngờ sau đó cô con gái ít khi tỉnh, liên tiếp vài ngày chỉ biết ngủ. Đôi vợ chồng lúc này mới bắt đầu sợ hãi, vội vàng chở con đi bệnh viện, tuy vậy sau khi trải qua hàng loạt kiểm tra, kết quả mọi thứ vẫn bình thường, cuối cùng bọn họ chẳng còn cách nào khác, đành phải mời thầy pháp tới xem. Thầy pháp nói, nhất định bọn họ đã trêu chọc phải thứ gì đó trên núi, hiện tại cô con gái đã bị ám, gia đình nên trở lại nơi ấy để cúng tế. Đôi vợ chồng bèn làm theo, họ mua nhiều dưa và trái cây, vội vàng tới ngọn núi kia, quỳ xuống dập đầu xin thứ lỗi hồi lâu, nhưng vẫn chẳng thấy có hiệu quả gì, bất đắc dĩ phải quay về. Sau đó họ lại nhờ vào các mối quan hệ tiếp tục tìm người đến xem, ai cũng nói là do họ bất kính với thứ gì đó trên núi, thực sự không có biện pháp nào khả thi.
Về sau, hai vợ chồng nọ vô tình biết được chúng tôi qua Viên Trận, biết chúng tôi chỉ chuyên mua bán nhà ma ám, cho rằng chúng tôi có bản lĩnh, mới hi vọng chúng tôi tới xem cho họ một chuyến. Họ biết chúng tôi là những kẻ đầu cơ bất động sản, chắc chắn sẽ chẳng đến không, đành cắn răng hứa sẽ lập tức bán ngôi nhà cho chúng tôi với một giá thấp hơn thị trường nhiều, chỉ cần chúng tôi chữa khỏi cho con gái của họ.
Nghe Viên Trận kể xong chuyện của chủ nhà, lòng tôi thoáng chút do dự, những việc giậu đổ bìm leo dù trước kia tôi đã từng làm, nhưng trắng trợn như thế này mới là lần đầu tiên. Dù sao cũng đã đến rồi, hay là cứ đi xem, nếu thực sự không chịu được lương tâm cắn rứt thì cùng lắm là thu chút phí tượng trưng rồi quay về là được. Ăn cơm xong, chúng tôi đến thẳng nhà họ.
Cặp vợ chồng có vẻ như đã đợi chúng tôi từ lâu, họ nhiệt tình mời trà, thuốc và hoa quả, tôi đều lịch sự từ chối, việc đầu tiên là theo Tần Nhất Hằng đi xem phòng ngủ con gái họ. Cô gái nhỏ lúc ấy vẫn còn tỉnh, nhìn thấy có người vào phòng cũng chỉ miễn cưỡng đảo mắt. Tần Nhất Hằng bước tới gần, nhìn mãi mới quay đầu lại bảo tôi tới nhà bếp lấy dao phay và thớt mang tới. Hắn lôi từ trong túi ra mấy cành cây khô, dùng dao chặt nhỏ, rồi lấy giấy đỏ gói lại ấn lên thiên linh cái của cô bé, sau đó gọi chúng tôi cùng trở ra phòng khách bàn bạc cách giải quyết.
Tần Nhất Hằng nói tình hình hiện tại nan giải, hồn phách của cô bé không hiểu vì sao đã hao hụt khá nhiều. Tôi nghe mà ù ù cạc cạc. Tần Nhất Hằng bèn giải thích luôn.
Ắt hắn nhiều người vẫn thường xuyên nghe nói tới cái gọi là ba hồn bảy vía, nhưng không mấy ai thực sự hiểu ba hồn bảy vía nghĩa là gì. Đạo giáo đã nói, thực ra linh hồn có ba phần, một là Thiên Hồn, hai là Địa Hồn và ba là Mệnh Hồn. Phách thì có bảy, một là Thiên Xung, hai là Linh Tuệ, ba là Khí, bốn là Lực, năm là Trung Xu, sáu là Tinh và bảy là Anh. Trong đó, hồn có thể hiểu đơn giản là đại não của cơ thể, mà phách thì có thể ví von là hệ thống thần kinh, hai thứ này tương hỗ, chi phối thân thể chúng ta. Sâu xa hơn, trong ba hồn thì chỉ có Mệnh Hồn sẽ ở trong thân thể người thường. Còn nếu Thiên Hồn và Địa Hồn cũng có thể quy về trên thân thể một người, thì người đó đã đắc đạo thành tiên. Trong truyền thuyết có những yêu quái tu luyện ngàn năm vẫn không thể thành tiên, vì cơ bản chúng chỉ mới khai mở Địa Hồn mà thôi.
Căn cứ theo khái niệm này, trong dân gian nhiều nơi có tập tục cho trẻ đeo khóa trường mệnh, kì thực cũng chính là khóa để hồn phách không thể bay đi mất. Bởi trong thời kì trẻ còn nhỏ, hồn phách còn chưa vững mạnh, có thể vì nhiều nguyên nhân mà thoát khỏi thân thể. Chuyện này thật ra cũng dễ giải quyết, nếu tình huống không nghiêm trọng lắm thì chỉ cần để một người thân gọi vài tiếng, hồn phách của đứa trẻ sẽ tự nhiên nhẹ nhàng tìm về thân thể. Nói một cách đơn giản thì, ở giai đoạn này hồn phách dễ dàng thoát ra, cũng dễ dàng hút lại. Sau này đứa trẻ lớn lên, hồn phách vững chắc hơn, cũng không dễ bị lay chuyển nữa.
Tần Nhất Hằng nói đến đây thì đưa tay gõ gõ vào đầu mình, bảo vừa nãy khi bước vào, để ngừa trường hợp cô bé đó bị thứ gì thừa cơ nhập vào thân thể, hắn đã cố tình dùng gỗ của cây táo bị sét đánh băm nhỏ, dùng giấy đỏ bọc bên ngoài, rồi che lên linh môn của cô bé. Táo là loại cây chính khí, gỗ của cây táo bị sét đánh không chỉ có tác dụng trừ tà, nếu được nghiền nát và trộn cùng sương rồi bôi nhiều lần lên tai trái, còn có thể cầu tự. Con đường để hồn phách ra vào thân thể chính là thiên linh cái, những thứ tà thuật thu hồn đoạt phách của người khác đều phải xuống tay từ đó. Quan niệm này từ mấy ngàn năm nay vẫn tồn tại cùng với sự phát triển văn hóa của chúng ta, ngay cả trong tiểu thuyết Tây Du Ký chúng ta cũng có thể thấy điều đó. Vòng kim cô khóa trên đầu Tôn Ngộ Không thực ra là để ức chế hồn phách, để Tôn Ngộ Không không thể nào thoát chạy. Do vậy mặc dù có những lúc xuất hồn, trên đầu Tôn Ngộ Không vẫn có vòng kim cô, nói thẳng ra thì bất kể có chạy bao xa, xích vẫn cứ tròng trên cổ, chỉ là dây bị dài ra thôi.
Tần Nhất Hằng nói đến những kiến thức huyền học nhưng lại không hề tối nghĩa khó hiểu, cặp vợ chồng kia hiển nhiên có thể ý thức được sự nghiêm trọng của tình hình hiện tại, rơm rớm nước mắt năn nỉ chúng tôi mau cứu giúp con gái họ. Tần Nhất Hằng đáp, chuyện này cũng chẳng phải hết cách, tuy tương đối rườm rà nhưng chỉ cần kiên nhẫn, chắc chắn cô bé có thể hồi phục. Cặp vợ chồng nghe thấy Tần Nhất Hằng nói có thể cứu chữa cho con gái họ thì cảm ơn rối rít, thiếu điều quỳ xuống.
Tôi đâm ra xót xa, bèn hỏi Tần Nhất Hằng tình trạng hiện tại của cô bé ra sao. Hắn đáp, xem ra ba hồn bảy vía đã thoát đi không ít, lại không biết đã bị bắt đi hay tự nó chạy trốn. Dựa vào những chuyện mà họ đã gặp phải trên núi, cá nhân hắn nghiêng về giả thuyết hồn phách của cô bé đã bị thứ gì đó bắt đi mất, có điều nếu thực là vậy thì chuyện này khó giải quyết, bởi vì họ không hề biết thứ đó rốt cuộc là gì, lại từng thành kính cúng tế, nhưng không có kết quả, chứng tỏ lòng dạ của thứ đó chẳng hề rộng lượng, chắc cũng không dễ đối phó.
Lời còn chưa dứt, bà mẹ đã bắt đầu khóc lóc. Tần Nhất Hằng thấy thế cũng khó xử, bèn an ủi bà. Trước đây khi quá trình đô thị hóa còn chưa thay đổi chóng mặt như bây giờ, chuyện như vậy hay xảy ra, hiện tại, một số nơi xa xôi vẫn thường xuyên xuất hiện trường hợp người bị động vật ám, cho nên lúc này đừng quá bi quan, việc mấu chốt là tìm ra phương án giải quyết.
Lời của Tần Nhất Hằng mặc dù chỉ để an ủi thôi nhưng cũng có lý. Tôi nhớ hồi mình còn nhỏ, từng được nghe nội kể chuyện xảy ra ở thôn bên cạnh. Nơi ấy có một phụ nữ ngày nọ lên núi, vì quá mót nên đi tiểu ngay dưới một gốc cây, thực ra đây là việc không nên, bởi nói không chừng nơi mình xả xú uế lại là đầu của một thứ gì đó mắt thường không thấy. Sau khi trở về, cô bỗng cư xử không còn giống người, gặp ai cũng cắn. Người nhà chẳng còn cách nào khác, đành phải lấy dây thừng trói lại rồi đặt lên giường, về sau mời khắp bốn phương tám hướng mới được một người biết phép thuật tới giúp. Người kia phán cô đã bị quỷ thần ám, phải dùng vật trừ tà để xua đuổi, nhưng cũng chẳng có hiệu quả. Nào ngờ gần đấy có một gã làm nghề đồ tể, vừa thấy bèn quát lớn hỏi cô là thần thánh phương nào, không ngờ thứ đó lại phát hoảng vì sát khí trên người đồ tể, ngoan ngoãn khai rằng mình ở động Giày trên núi Ngô Đồng. Thầy pháp liền dẫn cả thôn đi tìm, rốt cuộc đã tìm được một cặp chồn trong hốc cây to trên núi Ngô Đồng. Ngạc nhiên nhất là con chồn vàng có thể vì muốn thoải mái nên đã tha từ đâu đó về một đôi giày da trâu làm giường. Mọi người giết luôn đôi chồn, sau đó trở về xem xét tình hình, quả nhiên người phụ nữ đã bình phục lại. Đây mặc dù chỉ là một chuyện cũ truyền miệng, tôi cũng không biết rõ thực hư, nhưng nếu dựa theo những gì Tần Nhất Hằng nói, ắt hắn nó cũng có một phần chân thật.
Mọi chuyện đã nắm được đại khái rồi, sau đây chỉ còn xem Tần Nhất Hằng sẽ hành động ra sao. Hắn bèn ghé vào tai tôi nói thầm, nếu thực sự có thứ ám trên người thì cũng chẳng khó xử lý lắm, việc đau đầu nhất là thứ đó mạnh đến mức có thể câu hồn người, đây là một phiền toái lớn. Giống như việc máy tính nhiễm virus vậy, chỉ cần dùng một phần mềm diệt virus loại tốt là có thể giải quyết được vấn đề, nhưng nếu máy tính bỗng mất ổ cứng thì quả thật là một việc khó mà tưởng tượng.
Nghe hắn phân tích như vậy, tâm trạng tôi càng thêm nặng nề, lại càng muốn giúp đỡ gia đình họ. Tôi là con một, thấu hiểu sâu sắc tầm quan trọng của con cái đối với cha mẹ. Cặp vợ chồng này thực đáng thương, Tần Nhất Hằng cũng động lòng trắc ẩn, suy nghĩ rồi quyết định trước tiên cứ thử một biện pháp thông dụng được dân gian gọi là “gọi hồn” cái đã.
Phương thức gọi hồn này tương đối phức tạp, thực hiện cũng hao tốn khá nhiều sức lực. Đầu tiên, nó phải được tiến hành trong một số giờ nhất định, như giờ Tý, giờ Sửu, giờ Dần, giờ Mão, tắt toàn bộ đèn điện trong nhà, chỉ thắp một ngọn đèn dầu để dẫn lối chỉ đường cho hồn phách. Sau đó, mở cửa sổ, đứng ở phía trước cửa sổ, hướng về phía chính Nam, chính Bắc, chính Đông, chính Tây, bốn phương tám hướng liên tục gọi tên cô bé. Cuối cùng đốt một tờ giấy vàng có ghi họ tên cùng bát tự của cô, lấy tro để cô bé uống. Thêm nữa, vào các giờ Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, phải quay mặt về hướng Đông Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc cúng tế, đây là để khấn cầu các vị thần tiên ma quỷ mở lưới, nhường đường cho hồn phách. Sau khi cô bé đã uống hết tro đốt giấy vàng có ghi tên tuổi, bát tự của mình, thì trong bảy ngày vào buổi tối không được gọi tên cô bé, bởi khi ấy hồn phách còn chưa ổn định, nếu bị ma quỷ qua đường tình cờ nghe được, chúng có thể dùng biện pháp tương tự tiếp tục câu hồn phách của cô bé ra.
Áp dụng từng bước một theo đúng trình tự này, tuy tôi không cần tham dự, nhưng nhìn họ làm ngần ấy việc cũng cảm thấy thật mệt mỏi, mệt mỏi nhất là thực hiện xong vẫn chẳng thấy có hiệu quả gì. Tần Nhất Hằng nói có thể hồn phách đã bị dẫn đi xa quá, bèn làm lại một lần nữa. Lần này quả nhiên có hiệu quả rõ ràng, buổi tối uống tro giấy ghi tên tuổi và bát tự của mình xong, cô bé đã có thể ngồi dậy. Mới đầu, chắc là vì đã lâu không hoạt động, cô chưa thể điều khiển tay chân, nhưng một lát sau đã xuống đất đi lại được.
Cặp vợ chồng nọ cảm động, rối rít tạ ơn chúng tôi, sẵn sàng làm hợp đồng bán nhà cho chúng tôi như đã hứa. Tôi vốn đã phấn khởi vì kết quả, tiền bạc bấy giờ chẳng thành vấn đề nữa, bèn bày tỏ mình không muốn kiếm lợi từ việc này. Nào ngờ chủ nhà kiên quyết, tôi lại tiếp tục chối từ, đôi bên đùn đẩy qua lại hồi lâu. Thình lình Tần Nhất Hằng kín đáo kéo áo tôi. Tôi cho là hắn định trở mặt, muốn nhận mua ngôi nhà này, bèn ngoái đầu lại định khuyên nhủ thì bắt gặp hắn đánh mắt ra hiệu. Tôi nhìn theo ánh mắt hắn, ngó về phía cô bé con chủ nhà. Cô đang ngồi trên giường, yên lặng, trông rất bình thường. Tôi thắc mắc nhìn lại Tần Nhất Hằng. Hắn thì thào, hỏng, gọi nhầm hồn rồi.
Tôi nghe mà sống lưng ớn lạnh, bất giác quan sát cô bé lần nữa. Chẳng biết có phải do ảnh hưởng tâm lý không, lúc nãy rõ ràng thấy cô bé bình thường, bây giờ lại thấy lấn cấn chỗ nào đó. Tôi vội vàng kiếm cớ kéo Tần Nhất Hằng ra một góc, hỏi hắn rốt cuộc là chuyện gì. Tần Nhất Hằng bặm môi, nói hiện tại chưa rõ lắm, từ đầu đến cuối quá trình gọi hồn hắn đều theo dõi sát sao, không phát hiện điểm gì sơ suất, nhưng bây giờ lại thấy cô bé này có chỗ bất thường.
Đâm lao phải theo lao, chúng tôi tạm thời im lặng, một vì không biết giải thích với hai vợ chồng nhà kia thế nào để họ khỏi suy sụp, hai vì chưa tìm ra biện pháp giải quyết, khó tránh khỏi bị họ oán trách kết tội. Thứ bị gọi đến rốt cuộc là gì, chúng tôi không biết rõ, độ nguy hiểm và mục đích của nó vẫn là ấn số. Cho dù đó chỉ là một con ma qua đường có cơ duyên nhập vào người cô bé thì cũng khá nan giải, vì những người chết oan vô cùng lưu luyến cuộc sống, mãi mới có cơ hội trở về dương gian, họ sẽ không dễ dàng buông tay. Điều quan trọng nhất là chúng tôi không thể sử dụng những cách thức quá cực đoan, dễ gây tổn hại đến thân thể cô bé, ngộ nhỡ thứ kia liều chết làm những việc như nhảy lầu tự sát thì càng tệ hại hơn.
Tình hình quả là tiến thoái lưỡng nan, chúng tôi không thể để mọi việc tanh bành như vậy mà bỏ đi, nhưng ở lại cũng chẳng biết giải quyết thế nào. Cuối cùng, Tần Nhất Hằng đề xuất tạm rời khỏi đây, quay về bàn bạc suy tính xem đã.
Trước khi từ giã, chúng tôi bịa ra một lý do, dặn vợ chồng nhà nọ đêm nay nhất định phải nhốt cô bé trong phòng ngủ. Ra đến cửa tôi vần còn hoảng sợ, thầm nghĩ Tần Nhất Hằng có nói gần đây vận số tôi kém, quả nhiên chẳng phải nói đùa.
Về đến khách sạn, Tần Nhất Hằng soát lại cả quá trình gọi hồn, cảm thấy vẫn không có gì sai sót, vấn đề không nằm ở đây. Một lúc lâu sau, đột nhiên hắn bừng tỉnh, cao giọng nói, có khả năng là bát tự hoặc tên của cô bé kia bị viết sai! Thoạt nghe, tôi khá phấn khởi, nhưng nghĩ kĩ, cảm thấy không chắc chắn. Bát tự đối với việc chiêu hồn là vô cùng quan trọng, khi viết những thông tin đó bố mẹ cô bé hẳn đã phải xác nhận nhiều lần, tất cả lại đều tập trung, xác suất viết sai là cực kì thấp. Tên thì càng không phải nói, chỉ có hai chữ đơn giản, làm sao mà sai được? Song xét tình huống trước mắt, Tần Nhất Hằng cũng chỉ nghĩ được đến nguyên nhân ấy.
Tôi bèn gợi ý, có khi nào cô bé không phải là do cặp vợ chồng kia sinh ra, cho nên họ cũng không biết được ngày tháng năm sinh chính xác?
Tần Nhất Hằng lắc đầu, bảo rằng người gọi hồn nhất định phải là ruột thịt mới được, trước khi tiến hành nghi thức hắn cũng chỉ rõ thiệt hơn của hành động này, cho nên cặp vợ chồng kia không dám mạo hiểm đâu.
Nghe xong, tôi thực sự chán nản, không thể bỏ trốn, mà cũng không biết phải đối diện với nhà người ta thế nào. Tần Nhất Hằng cũng thất vọng ra mặt. Chúng tôi nằm trên giường, không nói lời nào, cuối cùng hết cách, đành chui vào trong chăn, ai ngủ phần người nấy.
Suốt đêm không trò chuyện. Sớm hôm sau, Tần Nhất Hằng kéo tôi dậy, mắt vằn đầy tia máu, xem ra đã trằn trọc cả đêm. Hắn nói mới nghĩ ra một biện pháp, lấy lại hồn phách bình thường được không thì chưa biết, nhưng ít nhất có thể trục xuất linh hồn đang nhập. Tôi vội vàng thay quần áo rồi cùng hắn đi đến chỗ bán đồ liệm. Tần Nhất Hằng ôm một đống nến trắng, còn gọi tôi giúp hắn xách thêm một túi. Chúng tôi cứ thế phóng thẳng đến nhà gia đình kia.
Thấy chúng tôi đột ngột quay lại, hai vợ chồng thoạt tiên ngạc nhiên, sau đó cho rằng chúng tôi đã đổi ý muốn mua ngôi nhà, bèn chủ động soạn thảo hợp đồng. Điều này khiến tôi càng ngượng ngùng, bèn viện cớ hồn phách của cô con gái vẫn chưa ổn định, muốn dùng một phương pháp đơn giản để giúp cô bé trấn thêm. Tần Nhất Hằng dặn rằng, khi chúng tôi ở bên trong thì hai vợ chồng họ không được vào, rồi kéo tôi thẳng tới phòng ngủ của cô bé kia. Cô bé nhìn thấy chúng tôi, tuy không lộ vẻ sợ hãi nhưng không giấu được sự e ngại. Tần Nhất Hằng không đến gần nó, chỉ im lặng lấy những cây nến trắng ra. Tôi bắt chước làm theo, tất cả nến trắng đều bày trên sàn nhà.
Xong xuôi, Tần Nhất Hằng nhắc tôi, tuyệt đối không được nói chuyện với con bé, nhìn cũng nên hạn chế, hiện nay nó đang ở trong trạng thái hồn phách và thân thể không đồng nhất, lát nữa tôi đốt nến xong và hô khẩu lệnh, anh phải giữ chặt nó trên sàn, nhớ nhanh tay đấy, đừng để nó chạy mất.
Tôi cũng không rõ rốt cuộc Tần Nhất Hằng muốn làm gì, nhưng nghe lời hắn thì không sai bao giờ, bèn gật đầu ra ý hiểu. Chỉ là tôi tò mò, cô bé rõ ràng biết chúng tôi muốn đối phó với nó nhưng lại không có phản ứng, cứ ngồi trên giường quan sát chúng tôi. Tôi cố gắng không ngẩng đầu nhìn, nhưng vẫn cảm nhận được ánh mắt chằm chằm khiến người ta dựng tóc gáy kia. Tôi nhanh chóng chuyển sự tập trung vào công việc đang dang dở.
Nến tuy nhiều, nhưng xếp ra ngoài cũng chẳng vất vả lắm. Tần Nhất Hằng chọn ra vài cây nến trắng, chỗ còn lại thì lấy dây đỏ buộc thành bó, đặt ở một bên. Trong lòng tôi căng thẳng, ngộ ngỡ Tần Nhất Hằng đột nhiên bảo tôi nhanh tay ấn cô bé xuống, tôi phản ứng không kịp thì sao. Hơn nữa tôi cũng sợ, một là tuy hiện nay đó là thân thể bình thường, nhung cũng không rõ thứ ma quỷ nào đang nhập lên người nó; hai là tôi cũng lo lắng nhỡ tay làm tổn hại thân thể này, đến lúc hồn phách quay trở lại nhưng thân thể bị thương thì đúng là phiền phức. Cứ mải mê suy nghĩ, Tần Nhất Hằng bỗng thét to một tiếng, lên!
Tôi bật dậy theo phản xạ, vì quá đột ngột, chân bất cẩn đạp vào cây nến trắng trượt ngã sõng soài trên mặt đất.
Cô bé cũng giật mình, a lên rồi nhảy một bước từ giường đến bên cửa sổ, tiện tay mở cửa ra.
Tôi thầm nghĩ, lần này tiêu rồi, nó mà nhảy xuống, không nói đến việc tôi bồi thường cả gia tài, có khi còn phải đi tù. Lúc ấy không biết nghĩ thế nào, tôi lại cất tiếng hô lên được, cháu bình tĩnh.
Còn chưa dứt lời, Tần Nhất Hằng đã từ chỗ tôi vọt tới, định nắm lấy cánh tay nó. Nó vẫn không chùn bước, tiếp tục muốn nhảy ra khỏi cửa sổ. May là Tần Nhất Hằng phản ứng nhanh hơn, kéo lại được. Tôi vội vàng đứng lên, nghĩ cách giúp Tần Nhất Hằng một tay, cùng hắn ấn nó xuống sàn nhà.
Tần Nhất Hằng mở tay cô bé ra, vội vàng bảo tôi đốt nến hơ, sao cho lửa cách lòng bàn tay một nắm tay. Tôi đặt ngọn nến bên dưới lòng bàn tay của cô bé, chưa đến hai giây, nến bỗng nhiên tắt ngấm. Tần Nhất Hằng bảo tôi đổi nến mới, tiếp tục thắp, nhưng ngọn nến nào cũng cháy không bao lâu thì tắt. Có điều thời gian cháy của chúng dần dần lâu hơn.
Từ đầu đến cuối cô bé không hề kêu đau, thậm chí cũng không phát ra một tiếng động nào. Hồi lâu, tôi mới nghe nó khó chịu hừ nhẹ, rồi co quắp lại trong lòng Tần Nhất Hằng. Lúc này ngọn nến không tắt nữa. Tần Nhất Hằng bèn thả cô bé ra, chạy nhanh tới cầm lấy ngọn nến, dạo một vòng quanh căn phòng, nhìn thấy ngọn nến không có điểm gì khác thường mới thở phào một hơi.
Tôi thấy vẻ mặt của hắn cũng không còn quá căng thẳng, bèn hỏi có phải đã ổn rồi không. Hắn gật đầu nói với tôi, hiện tại xem như không có việc gì nữa, chỉ là quay trở lại điểm xuất phát ban đầu. May mà thứ nhập vào người cô bé cũng không phải là hung thần ác sát, có vẻ là một con ma chưa trưởng thành, loại ma này sau khi chết vẫn không cam lòng, nhưng cũng không làm được chuyện lớn. Truyền thuyết kể rằng những đứa bé dưới tám tuổi chết yểu đều khó đầu thai, nữ do âm khí nặng hơn nên có sai biệt về thời gian với nam, những bé gái đó dù có đi vào âm phủ cũng chỉ quanh quẩn bên bờ Nại Hà, đây chính là lý do vì sao thời xưa độ tuổi kết tóc [19] của trẻ em thường quy định chặt chẽ, thường là từ tám tuổi. Việc này thật ra là dấu hiệu cho biết hồn phách của đứa trẻ đã hợp nhất với thân thể, sau khi chết có thể thuận lợi bước vào luân hồi. Cũng chính bởi nguyên nhân này, dù chúng ta thường nghe lời đồn đại về ác quỷ quấy phá, nhưng hiếm khi nghe trẻ con sau khi chết hóa thành ác quỷ đi hại người, vì chúng chỉ lưu luyến sinh mệnh và không muốn rời xa dương gian chứ không mang theo nhiều oán khí. Cho dù có gặp phải ma nhỏ thì cũng chỉ bị trêu ghẹo, những bệnh lặt vặt hay xui xẻo sau đó. Cũng không hẳn do nó cố ý hại mình, mà bởi mình đã tiếp xúc với cõi âm, tự nhiên sẽ gặp vận xui mà thôi.
Nghe Tần Nhất Hằng nói đó chỉ là một con ma nhỏ không hại người, tôi cũng thầm cảm thấy may mắn. Tôi nghe những điều hắn nói thấy thực lạ lẫm, lại bảo hắn giải thích kĩ hơn.
Tần Nhất Hằng thấy cô bé kia hiện tại đã ổn, an tâm tiếp tục giải thích, những con ma này không chỉ là hồn phách của những đứa trẻ chưa đến tuổi kết tóc, mà còn có hồn phách của những đứa trẻ chưa ra đời. Có nhiều sách vở huyền thuật từng ghi chép lại, sảy thai cũng là một lần giết chết đứa trẻ, cho nên nó sẽ mang theo oán hận. Tuy nhiên sảy thai cũng chia làm hai loại, một loại là do dương thọ chưa tận đã bị giết chết, loại này chắc chắn có tồn tại oán khí, thông thường sẽ làm ảnh hưởng đến vận số hoặc sức khỏe của cha mẹ, nhưng cũng không phải nhanh chóng hoặc nhất định sẽ ứng nghiệm, vì còn phụ thuộc vào từng tình huống cụ thể, ví dụ dương khí của cha mẹ đủ mạnh, hoặc là bát tự chí dương [20] thì sẽ giảm tác dụng. Loại thứ hai là vận mệnh đã an bài, những thai nhi này bởi vì dương thọ đã tận, cho nên dù không cam chịu, cũng không gây ảnh hưởng nhiều đến cha mẹ. Nhắc đến trẻ sơ sinh thì không thể bỏ qua bát tự, đây là điểm quan trọng nhất của mệnh lý học, giúp suy ra đủ loại thông tin. Nếu được thầy tướng số xem, dù không thể nói rõ toàn bộ các việc lớn nhỏ trong đời thì ít nhất cũng có thể điểm qua những việc lớn.
Trong huyền học còn một cách nói khác, gọi là bát tự âm. Bát tự là ngày tháng năm ra đời, còn bát tự âm là ngày đầu thai, dùng để tính kiếp trước cùng các sự kiện như siêu sinh chuyển thế của kiếp trước.
Coi như tôi lại được phổ cập thêm chút ít kiến thức huyền học. Bụng bảo dạ ngày ngày nghe ra rả bên tai cũng thành mưa dầm thấm đất, không chừng có lúc lại làm thầy pháp, ít nhất cũng bịp được người khác. Nhưng nhìn lại tình hình đâm nản, lăn lộn với đống nến mãi mà chỉ giành được thắng lợi suýt soát, hồn phách của cô bé kia ở đâu chúng tôi còn chưa biết.
Nhân đó tôi lại hỏi Tần Nhất Hằng, vừa nãy sử dụng nến trắng để làm gì. Hắn giải thích, nến trắng có thể cảm nhận được âm khí. Bởi thế trong hầu hết mọi việc người ta đều sử dụng nến trắng, như trên phim, muốn thể hiện âm khí ngột ngạt thường đặc tả cây nến trắng đang cháy rồi phụt tắt, là do có căn cứ cả. Đốt lòng bàn tay cô bé bằng ngọn lửa của nến trắng chính là muốn thiêu cháy đi phần âm khí. Mỗi lần âm khí dập tắt lửa thì phải đổi một cây nến mới, bởi ngọn nến trước đó đã bị âm khí xâm nhập, dù tiếp tục thắp, hiệu quả cũng giảm sút.
Chuyện không thể giấu giếm được, tôi và Tần Nhất Hằng đành đẩy cửa ra ngoài, nói rõ tình hình với hai vợ chồng. Mấy người chúng tôi lại một lần nữa ngồi bàn cách giải quyết. Tần Nhất Hằng tỉ mỉ phân tích lại tình huống không may của cô bé, đột nhiên hỏi có phải gia đình họ đi du lịch vào ngày mùng 3,13 hoặc 23 âm lịch không? Nghe xác nhận đúng là ngày 23 âm, Tần Nhất Hằng tươi tỉnh hẳn lên, cho biết đã tìm ra nguyên nhân. Các ngày 3, 13 và 23 là ngày Diêm vương xuất hành, đích thân đi giải oan, giải tội cho các oan hồn, ma quỷ tất nhiên phải tránh né. Nếu như ngày đó gặp Diêm vương mà bất kính hoặc vi phạm pháp lệnh sẽ bị liên lụy. Chắc hôm ấy gặp phải Diêm vương đúng lúc mất dưa hấu, cô bé đã nghĩ tới lời lẽ nào đó bất kính nên bị trừng phạt, hồn phách bị quỷ sai bắt đi. Nếu quả là thế thì chỉ cần đúng ngày đúng tháng tới miếu Thành hoàng thành tâm khấn bái, có lẽ sẽ dần dần khôi phục.
Suy luận này thật kì quái, động đến cả Diêm vương, nhưng chuyện xảy ra tại căng tin của cơ quan nọ dạo nào buộc tôi phải tin, ở đâu đó vẫn tồn tại một chế độ với kẻ thống trị mà chúng ta không thể nhìn thấy được bằng mắt thường.
Đôi vợ chồng thấy rằng vẫn còn đường cứu, tất nhiên cảm động đến rớt nước mắt. Chung quy đã tìm ra được nguyên nhân, chúng tôi từ biệt họ ra về. Ra khỏi cửa, thấy Tần Nhất Hằng lộ vẻ bất thường, sắc mặt không được tốt lắm, tôi hỏi có phải mệt quá không, hắn mới thú thật những lời vừa nói chỉ để biến báo cho qua. Tuy rằng có truyền thuyết Diêm vương xuất hành thật, nhưng không có ngày hoặc khoáng thời gian cố định nào. Ví như ở một nơi đông người, ngay lúc mọi người trò chuyện rôm rả ngất trời, đột nhiên không hiểu vì sao tất cả đều im lặng. Quan niệm phương Tây cho rằng đó là vì gặp đúng lúc ma quỷ đi qua. Còn theo truyền thuyết phương Đông, chính là gặp Diêm vương đi tuần. Làm một kẻ thống trị, tất nhiên sẽ có quỷ sai đi đằng trước dọn đường khiến cho không gian yên tĩnh, cho nên việc chúng ta đột ngột nín bặt có nhiều khả năng là do bị ảnh hưởng bởi một sức mạnh huyền diệu nào đó, tương tự với cảm giác linh thể [21] .
Chẳng qua, trong những ngày Tần Nhất Hằng nhắc tới thì âm khí thường nặng hơn. Nói như vậy là hi vọng cặp vợ chồng kia tin tưởng để thành kính đi bái lễ, nhưng suy đến cùng có hiệu quả hay không, hắn cũng không biết.
Nghe Tần Nhất Hằng nói xong, tôi chỉ còn biết ngậm ngùi, cảm giác này khiến cho người ta khó chịu, muốn giúp họ mà mình lại bất lực. Tần Nhất Hằng cũng chỉ là một người bình thường, chẳng phải thần thánh, cũng không phải đấng toàn trí toàn năng. Có thể làm đến mức ấy, coi như chúng tôi cũng đã cố gắng hết sức rồi. Ngôi nhà lần này khiến cho tôi bị khuấy động tâm can, trên đường trở về cứ luôn cảm thấy nặng nề, Tần Nhất Hằng cũng không vui vẻ gì. Chuyện vừa trải qua khiến cho tôi rã rời cả thể xác và tinh thần, nhiều ngày sau khi về tâm trạng vẫn suy sụp như thế. Tôi dứt khoát tắt điện thoại nằm nhà, đầu óc buồn bực thì chơi game, suốt giai đoạn đó Tần Nhất Hằng cũng không đến tìm tôi, chỉ thỉnh thoảng tán gẫu vài câu với nhau trên mạng.
Tần Nhất Hằng thú nhận thực ra tâm trạng hắn cũng chẳng khá khẩm gì. Tôi thì nói có lẽ tôi sẽ không tiếp tục làm công việc này nữa, mặc dù lợi nhuận tương đối tốt nhưng hai ngôi nhà gần đây đã khiến tôi hầu như kiệt quệ.
Tần Nhất Hằng cũng không phản đối, chỉ bảo thực ra có nhiều chuyện vốn đã được số phận an bài, một quyết định nhỏ ban đầu có thể sẽ ép chúng tôi phải theo đuổi mãi mãi. Tôi không hiểu lắm, nhưng cũng chẳng muốn đoán già đoán non. Lại chơi game thêm vài ngày, rốt cuộc cũng cảm thấy nhàm chán. Tôi bật điện thoại, thấy tin nhắn Viên Trận gửi đến từ tối hôm trước, thông báo về một vụ làm ăn lớn đến cả chục triệu, muốn tôi tới xem thử một chuyến. Kì thực tôi không muốn mua bán những ngôi nhà ma quỷ này nữa, nhưng vẫn không nhịn được thói hiếu kì, phân vân cả buổi, cuối cùng vẫn gọi lại cho gã.
Viên Trận kể cho tôi hay tình hình cơ bản của ngôi nhà. Nói là một ngôi nhà thì không chính xác lắm, đúng hơn là vài căn trong một tòa nhà. Toàn bộ mấy căn đó đều thuộc quyền sở hữu của trưởng thôn. Thôn này thực chất chỉ là loại làng dân cư ở ngoại thành, khi nơi đây thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà cao tầng thương mại và chi trả cho việc giải phóng mặt bằng, người dân trong làng lập tức trở thành nhà giàu mới nổi, không chỉ được đền bù số tiền lớn mà còn được phân nhà. Trưởng thôn đương nhiên càng được hưởng nhiều ưu đãi, bất chấp quy định chiếm hẳn một tòa nhà sáu tầng rưỡi. Chuyện này chẳng khác nào chiếc bánh từ trên trời rơi xuống. Nhưng sau khi dọn tới ở, người nhà trưởng thôn liên tiếp gặp chuyện xui xẻo.
Đầu tiên là con rể ông ta gặp tai nạn xe cộ, thiếu chút nữa tàn phế. Khi anh này vẫn còn nằm viện thì người con rể khác làm kinh doanh bị lừa mất nhiều tiền. Không chỉ vậy, hai người con gái cũng không ổn, một cô tự dưng mắc bệnh ung thư, cô còn lại sức khỏe bình thường nhưng kinh doanh gì cũng lỗ lên lỗ xuống.
Ban đầu trưởng thôn không nghỉ ngờ nhiêu, nhưng sau một loạt biến cố cũng phải đánh dấu hỏi về phong thủy của ngôi nhà, bèn mời người đến xem. Ai cũng nói hướng và bố cục nhà đều khá ổn, tuy sơ suất đôi chút nhung cũng không đủ hại người thành như vậy được. Hơn nữa, tòa nhà này vốn được xây trên đất của thôn, không thể xảy ra trường hợp bất cẩn động chạm mồ mà nhà ai cả. Trưởng thôn bế tắc, hiện đang đôn đáo tìm người, xem liệu có ai giúp đỡ được gì không.
Tôi nghe qua đã cụt hứng. Giả sử còn muốn tiếp tục nghề này, thì đây cũng không phải mối dễ ăn. Chưa kể những ngôi nhà tái định cư, theo chính sách thì trong năm năm không lấy được sổ đỏ, dù tôi muốn mua, trưởng thôn cũng không thể bán.
Tôi nói với Viên Trận những suy nghĩ đó, gã vẫn khăng khăng muốn tôi đến thực địa. Có vẻ ông trưởng thôn kia đã dúi cho gã không ít tiền trà nước, Viên Trận nói ông ta không quan tâm đến tiền, chỉ cần giải quyết được vụ này, sẽ trả ngay cho tôi một triệu tệ. Tôi nghe mà tim đập thình thịch, mẹ kiếp, hào phóng quá! Tôi thực sự bị lung lay!
Tôi thầm khích lệ chính mình, nhiều tiền như thế, đâu phải lúc nào cũng kiếm được dễ dàng. Rốt cuộc không kìm được lòng tham, tôi bèn tự nhủ, đây là lần cuối cùng, chờ cầm được số tiền đó trong tay, tôi sẽ tránh xa việc đầu cơ trục lợi này, chuyên tâm làm ăn nhỏ lẻ thôi. Vì thế tôi gọi điện cho Tần Nhất Hằng, kể lại tình hình ngôi nhà nọ, nào ngờ Viên Trận đã báo cho hắn biết trước, hắn cũng đang chờ xem quyết định của tôi thế nào. Tôi bèn thương lượng với Tần Nhất Hằng, quyết định ngày hôm sau sẽ lên đường đi xem.
Một tiếng trôi qua thật nhanh, trên sofa đối diện chỉ còn lại sáu người, tôi ngừng lời, ngôi nhà lập tức lặng ngắt như tờ. Có lẽ là do chuyện kì quái xảy ra với cô gái ban nãy, chẳng có ai rời khỏi vị trí nữa, đều ngoan ngoãn chờ tôi chụp ảnh xong mới liếc mắt nhìn nhau. Có một thanh niên đeo kính xem chừng nhiều tuổi nhất trong bọn, do dự một lát rồi nói không muốn nghe tôi kể tiếp nữa, hi vọng tôi thả cho cậu ta đi. Tôi nghe mà buồn cười, nào có ai bắt cóc tống tiền, sao lại biến thành màn cầu xin thả người thế này? Tôi khẽ gật đầu, bảo cậu ta đứng thẳng, chụp một bức ảnh toàn thân rồi ra hiệu cậu ta có thể đi, thanh niên thở phào như được đặc xá rồi gọi người bên cạnh. Người kia lom khom đứng lên trước mặt tôi. Tôi lấy máy ánh, ấn nút chụp, đèn flash lóe sáng như xé toang màn đêm. Trong nháy mắt tôi lại mang máng nhìn thấy thứ gì đó, như thể một cái bóng. Tôi không biết mình có nhìn nhầm hay tưởng tượng ra không, bởi tôi đã từng nhìn thấy một cái bóng giống như thế. Đáng tiếc tôi không thể xem ảnh để xác nhận có kịp chụp lại nó hay không, chỉ đưa mắt nhìn hai người kia rời khỏi ngôi nhà.
Trong phòng khách này, tôi bày một chiếc sofa dài, đặt làm riêng dùng cho việc đêm nay, hai người đã đi khỏi, chiếc ghế trống ra một khoảng, thế nhưng những người còn lại vẫn túm tụm một chỗ. Tôi liếc mắt nhìn họ, nhưng ai nấy đều đưa mắt đi chỗ khác. Tôi dụi điếu thuốc trong tay, chuẩn bị kể tiếp thì một người lào khào cất tiếng, giọng nửa cảm thán nửa thắc mắc. Anh ta nói, tôi biết vì sao hai người vừa rồi lại bỏ đi, bởi vì tôi cũng đã nhìn thấy.
Tôi không đáp dù trong lòng lúc này chẳng khác nào biển lặng sóng ngầm, rất muốn biết có phải anh ta cũng nhìn thấy một cái bóng không, nhưng không thể hỏi, đành tiếp tục kể chuyện.