Chương 4 Đoán chữ
Ngồi bên cạnh, tôi tranh thủ liếc xem vài lần. Thấy Tần Nhất Hằng đã cầm trên tay mà không nguy hiểm gì, tôi cũng lật xem vài quyển, phát hiện ra chúng khá đầy đủ, mỗi tháng một số, tức là toàn bộ nội san của tập đoàn Hoành Đạt trong vài năm gần đây.
Tôi càng xem càng không hiểu mục đích của kẻ đưa những thứ này tới. Chẳng lẽ muốn chúng tôi hiểu thêm về lịch sử của Hoành Đạt?
Tôi hỏi Tần Nhất Hằng, nhưng hắn không tỏ thái độ, chỉ đặt chồng nội san về chỗ cũ, sau đó ngồi xuống sofa châm một điếu thuốc. Tình hình chúng ta hiện giờ còn tệ hơn tôi dự liệu. Xem ra nhất cử nhất động đều bị kẻ khác giám sát rồi. Dứt lời, hắn lấy trong túi áo ra một vật nhỏ đen sì, đặt lên bàn trà.
Tôi cầm lên xem, là một cái camera mini. Tần Nhất Hằng nói, kể từ khi cái tủ quần áo kia xuất hiện, tôi đã lắp camera quay trộm trong nhà, kết nối với máy tính giấu kín, có thể ghi lại hình ảnh trong khoảng thời gian dài. Mỗi lần ra ngoài, tôi đều bật thiết bị để xem nếu còn có thứ gì được đưa tới thì quá trình đó sẽ diễn ra thế nào. Nhưng thật khó lường, lần này đồ lại đưa tới nhà anh.
Nghe vậy, tôi bỗng thấy sống lưng lạnh buốt. Chẳng lẽ đối phương biết được việc Tần Nhất Hằng bố trí thiết bị quay trộm trong nhà nên đã đưa tạp chí sang nhà tôi? Tức là người ta vẫn luôn theo dõi nhất cử nhất động của chúng tôi, bất kể ngày đêm? Lại còn giám sát cùng lúc hai người? Bọn họ là một nhóm hay là thế nào?
Tình hình còn khiến người ta căng thẳng hơn cả gặp ma. Tôi không hiểu rốt cuộc đối phương đang muốn giúp chúng tôi hay bày kế, dụ chúng tôi sa bẫy. Đầu hơi căng ra, tôi châm thuốc rít một hơi dài, hồi tưởng lại những chuyện đã trải qua, cảm giác bất an lại dâng lên từ đáy lòng.
Tần Nhất Hằng cũng đang suy nghĩ, suốt mười phút liền hai chúng tôi chẳng nói với nhau câu nào. Cuối cùng, hắn đem đống tạp chí đặt lên bàn trà, nói bằng giọng an ủi, chúng ta tạm thời đành để đối phương dắt mũi đi tiếp vậy, dù sao không ai dám đảm bảo mấy chuyện viết trên nắp quan tài là giả. Những việc khó hiểu trên đời này quá nhiều, vẫn nên đợi xem có phát hiện được gì không rồi tính tiếp.
Lời Tần Nhất Hằng cũng có vẻ hợp lý, tôi vỗ vỗ má, bắt đầu lật chỗ nội san ra đọc. Bài nào cũng rườm rà và dở tệ, nhưng tôi vẫn phải lần lượt đọc kĩ, quả là khổ sở khôn xiết.
Hai chúng tôi xem tới nửa đêm vẫn không phát hiện được gì. Tôi vốn định về nhà đánh một giấc, cuối cùng lại phải thức tới khuya, toàn thân rã rời, cứ phải rít thuốc cho tỉnh táo. Cuối cùng đứng dậy rửa mặt bằng nước lạnh mới cảm thấy sảng khoái hơn đôi chút. Trở lại sofa, tôi đang chuẩn bị đọc tiếp thì nghe thấy Tần Nhất Hằng ồ lên kinh ngạc.
Cơn buồn ngủ lập tức tiêu tan, tôi vội hỏi hắn tình hình ra sao. Tần Nhất Hằng trỏ vào một cuốn, khẽ nói, chỗ này có chữ bị sai.
Cứ tưởng điều gì quan trọng. Đừng nói là tập san doanh nghiệp, ngay cả tạp chí trung ương cũng không thể đảm bảo chính xác. Dù sao việc hiệu đính đều do con người làm, mà con người cũng có lúc phạm sai lầm, huống hồ nội san doanh nghiệp thông thường chỉ làm cho xong, vốn chẳng có nhiều người đọc để mà xét nét lỗi chính tả.
Tôi định trách Tần Nhất Hằng, nhưng quay sang thấy hắn vẫn đang cau mày, bèn ghé lại nhìn, cũng không khỏi sửng sốt, chữ này tôi không biết đọc.
Dù sao tôi cũng tốt nghiệp đại học chính quy, làm gì đến mức không đọc nổi chữ. Đây cũng không phải tạp chí học thuật chuyên ngành, một nội san doanh nghiệp sao có thể sử dụng chữ hiếm gặp. Tôi định hỏi Tần Nhất Hằng cách đọc, nhưng chưa kịp cất lời đã thấy hắn ra chiều vỡ lẽ, vội vã lật thêm vài quyển nữa, săm soi tìm kiếm rồi quay đầu nói với tôi, không chỉ quyển này có chữ sai, rất nhiều quyển khác cũng có, hơn nữa... Hắn đưa một quyển cho tôi xem, những chữ sai này hình như đều được đặt cùng một vị trí.
Hắn nói liến thoắng khiến trí não tôi không kịp xử lý. Tới khi nhìn thấy vài chữ sai, tôi mới dần vỡ lẽ. Những chữ đó không những không đọc được mà vị trí của chúng cũng khiến người ta kinh ngạc. Bởi bất luận chủ đề tập san là gì, nội dung của trang ra sao, lỗi sai vẫn nằm ở trang thứ tư từ cuối lên, hàng dưới cùng bên tay trái.
Như vậy là có ý gì? Là lỗi in ấn hay sai sót khi sắp chữ? Nhưng không thể quyển nào cũng gõ sai cùng một chỗ được. Tôi nhìn Tần Nhất Hằng, hắn cũng đang nghĩ mải miết.
Một lúc sau, hắn mới ừ một tiếng rồi nói, e rằng chính các chữ sai là nguyên nhân khiến người ta gửi chồng nội san tới đây. Dứt lời, hắn bảo tôi giở trang tương tự của tất cả số nội san ra, để hắn lần lượt kiểm tra rồi cẩn thận chép lại vào một tờ giấy. Trong lúc Tần Nhất Hằng sao chép, tôi đứng bên quan sát. Tuy mỗi quyển đều có chữ sai nhưng quanh đi quẩn lại chỉ có năm chữ thay phiên nhau xuất hiện.
Chép xong, Tần Nhất Hằng nhìn mấy hàng chữ rất lâu, cuối cùng khẽ lắc đầu bảo, không giống chữ vẽ bùa. Thật ra cũng có một số đạo sĩ viết lên bùa vài văn tự cổ, trông gần giống những nét bút tối giản hoặc totem, nhưng xét cho cùng cũng chỉ loanh quanh mấy loại, không hiếm đến mức tôi chưa từng nhìn thấy.
Ngay cả hắn còn chẳng biết đọc thì tôi càng miễn bàn. Cầm tờ giấy lên, tôi cũng không biết nên phán đoán theo hướng nào, lại đành đặt xuống.
Tần Nhất Hằng cũng đã thấm mệt, ngáp một cái rồi bảo, tạm dừng ở đây, giờ chúng ta đi nghỉ trước đã. Khi nào phục hồi tinh thần, tôi sẽ đưa anh tới gặp một cao nhân chuyên nhận biết chữ Hán, xem có giúp gì được không. Dứt lời, Tần Nhất Hằng đứng dậy tạm biệt, tiện thể mở tủ lạnh nhà tôi lấy hai cái xúc xích đem về.
Tôi cũng mệt lử, chẳng màng thu dọn đồ, cứ thế nằm vật ra giường đánh một giấc. Mãi tới chiều hôm sau tôi mới tỉnh lại, vội gọi điện cho Tần Nhất Hằng. Hắn lái xe đưa tôi tới thẳng khu chợ bán sỉ lớn nhất thành phố.
Tần Nhất Hằng dặn, lát nữa gặp người ta phải cố gắng hoạt bát, nhanh nhẹn và nói chuyện to hơn một chút. Ông lão hơi nghểnh ngãng, lại không thích những kẻ kiệm lời.
Xuống xe, Tần Nhất Hằng dẫn tôi đi vòng vèo trong khu chợ, cuối cùng dừng lại trước một của hàng. Hắn nói đã đến nơi, sau đó đẩy cửa vào trước. Tôi không vội theo sau mà đưa mắt quan sát bên ngoài một lượt. Cửa tiệm này hình như bán câu đối, tranh Tết hoặc tranh cắt giấy, thấy dán khắp tường, trông khá vui mắt. Ngoài cửa còn treo hai cái đèn lồng đỏ nhưng không có biển hiệu, cũng chẳng biết tên tiệm là gì.
Tôi tự nhủ, đây chính là ẩn dật giữa chợ à? Mặt tiền cửa tiệm tuy nhỏ nhưng giá thuê không hề rẻ. Ngày trước, tôi còn định đầu tư vài gian hàng ở đây, nhưng chưa kịp ra tay đã bị kẻ khác tranh mất. Ông lão này bán câu đối mà có thể thuê được cả cửa tiệm, chẳng lẽ lợi nhuận thực sự cao tới vậy?
Dù thế nào cũng phải vào trong xem cái đã. Tôi dụi tắt thuốc rồi đẩy cửa đi vào. Tần Nhất Hằng đã ngồi xuống nói chuyện với ông lão, trên bàn còn có tờ giấy chép lại những chữ viết sai.
Ông lão trông không già lắm, mặt không có mấy nếp nhăn, râu cũng không dài, mặc bộ đồ thể thao Adidas giống những người lớn tuổi bình thường. Thấy tôi đi vào, ông lão khẽ gật đầu với tôi, mỉm cười đầy thô bỉ.
Tần Nhất Hằng cũng không giới thiệu gì, chỉ vào một cái ghế nhựa, bảo tôi ngồi xuống rồi tiếp tục thảo luận với ông lão. Hắn nói chuyện rất to mà ông lão cũng chẳng kém, hai người nói qua nói lại hồi lâu, tôi nghe rất rõ. Tần Nhất Hằng hỏi ông ta có biết cách lý giải những chữ này không.
Ông lão cầm tờ giấy lên, nheo mắt xem rồi cười khà khà, nói, đây không phải chữ mà gọi là cái thăm. Xưa kia, rất nhiều thầy bói chữ sử dụng nó để đoán việc, chỉ không đoán được tình duyên thôi. Đôi khi nó cũng được dùng trong nhà giam, theo truyền thuyết Diêm Vương chỉ bắt số quỷ lẻ, nếu số tử tù bị hành quyết hôm đó lại chẵn, người ta sẽ rút thăm để chọn ra một người được hoãn chết, cũng xem như nể mặt Diêm Vương. Thăm gồm rất nhiều nét, có thể bỏ bớt hoặc thêm vào, nói kĩ hơn thì cũng hơi giống trò chơi trí tuệ, thách thức chỉ số thông minh của con người. Khi bói, phải bày thăm lên để người rút thăm dựa theo cảm giác điền thêm một nét. Xong xuôi, người ta sẽ suy đoán dựa trên nét bút, người có nét đậm nhất sẽ được miễn chết.
Ông lão nói sang sảng, nhưng tôi nghe vẫn thấy mơ hồ, nội san in ra chỉ để ai đó rút thăm? Suy đến cùng chỉ là trò tiêu khiển mua vui? Tôi nhìn Tần Nhất Hằng, hắn đưa mắt ra hiệu với tôi rồi vỗ tay bồm bộp khen hay. Tôi biết ý cũng vỗ theo hắn, chỉ thiếu điều hò reo hoan hô.
Ông lão đảo mắt nhìn quanh, khẽ gật đầu hài lòng, tiện tay lấy một cây bút nước viết lên giấy, tiếp tục giảng giải, xưa kia, khi tạo ra chữ tượng hình, tổ tiên chúng ta đã giấu trong đó nhiều đạo lý huyền diệu về trời đất vạn vật chứ không đơn giản như ta vẫn thấy. Thăm sở dĩ có thể biến hóa vô cùng, dùng để tiên đoán lành dữ, chính là bởi ý nghĩa của từng nét. Nét chữ này bao hàm cả ngũ hành bên trong. Nét sổ giống như que gỗ thẳng, tượng trưng cho Mộc. Nét ngang giống một đường thẳng vô tận, tượng trưng cho Thổ. Nét chấm như một hạt kim cương nhỏ, tượng trưng cho Kim. Còn hai nét phẩy, mác được kéo sang hai bên thì nét phẩy sang trái là Hỏa, thể hiện sự tấn công, nét mác sang phải là Thủy, thể hiện sự trút xuống. Đây mới chỉ là những nét cơ bản, muốn nói kĩ hơn thì còn tràng giang đại hải, mất nhiều thời gian nữa.
Vậy nên, đối với những người trong nghề, một nét nhỏ trên cái thăm cũng không thể coi nhẹ. Nếu kết hợp thêm ngày sinh tháng đẻ của người viết, sẽ xuất hiện sự tương khắc và tương sinh, từ đó sinh ra thăm nặng thăm nhẹ.
Lời giải thích của ông lão thực sự rất đặc sắc, khiến chúng tôi được mở mang tầm mắt. Chẳng cần đợi Tần Nhất Hằng nhắc nhở, tôi đã không kìm nổi gật đầu tán thưởng. Sau đó, ông lão tiện tay móc trong túi ra hộp thuốc lá sợi, cuốn một điếu đưa cho tôi, cũng tự mình châm một điếu rồi tiếp, về tổng thể, thăm là như vậy. Thứ các cậu đem tới đây tuy cũng cùng loại song lại không tuân theo quy tắc thống nhất, mỗi cái bỏ một yếu tố trong ngũ hành đi nên trông mới phức tạp và khó hiểu.
Ông lão lại hỏi Tần Nhất Hằng, các cậu lấy chúng ở đâu ra?
Tần Nhất Hằng có vẻ không muốn tiết lộ, nhưng tình hình hiện tại e cứ giấu giếm sẽ không giải quyết được vấn đề. Hắn do dự một lát mới trình bày với ông lão, nhưng không nói những cái thăm nằm trong nội san doanh nghiệp mà chỉ kể mình tìm thấy chúng trong mấy quyển sách cũ khi giúp bạn chuyển nhà, vì không nén nổi tò mò nên đã chép lại đem tới đây.
Ông lão nghe xong khẽ gật đầu, ho nhẹ một tiếng rồi nói với Tần Nhất Hằng, thật ra tôi có một suy đoán, nhưng cảm thấy có phần trái với lẽ thường. Thăm này không phải để bói toán, mà giống một bản thông báo tìm người.
Tôi nghe mà líu cả lưỡi, Tần Nhất Hằng cũng bàng hoàng. Ông lão chắc đã đoán được phản ứng của hai chúng tôi, cười khà khà rồi cầm bút viết lên giấy một hồi, sau đó đưa cho Tần Nhất Hăng. Hắn nhìn chằm chằm tờ giấy, lông mày nhíu lại.
Lòng hiếu kì cuộn lên trong ngực tôi như mèo cào. Tôi ngó xem nhưng vì góc nhìn hạn chế nên chỉ thấy mặt sau tờ giấy. Cuối cùng tôi đành đứng hẳn dậy, thấy trên giấy là một mớ lộn xộn, trông gần giống tờ nháp thi của học sinh. Tôi chẳng nhìn ra cái gì, bất đắc dĩ phải ngồi xuống, cố dằn lòng đợi một trong hai người lý giải.
Nhưng cả hai không nhắc lại chủ đề cũ nữa mà quay ra hỏi han nhau vài chuyện thường ngày. Tiện thể, ông lão hỏi Tần Nhất Hằng gần đây có gặp Lưu thọt không, nói rằng mấy tháng trước gã tới đây, mua vài câu đối Tết và tặng ông cái mũ để trời lạnh đội cho ấm. Lưu thọt còn biếu ông lão hai nghìn tệ, nói Tết có việc nên không thể tới thăm hỏi, số tiền này xem như chúc Tết trước. Tần Nhất Hằng nghe vậy thì vô thức ngả người tới gần ông ta. Tôi cũng không khỏi hồi hộp.
Vậy là trước khi mất tích Lưu thọt còn tới đây, hơn nữa theo lời gã nói với ông lão, rõ ràng là chuẩn bị lặn một thời gian. Không phải cùng một bè với gã Lưu thọt giả mạo kia chứ?
Tôi liếc sang Tần Nhất Hằng, hắn bĩu môi, vẻ như sợ tôi không nhịn được lại chen vào, rồi mau mắn tiếp lời hỏi ông lão xem cái mũ trông thế nào. Ông lão vô tư mang mũ ra cho Tần Nhất Hằng xem.
Cái mũ màu đen viền đỏ, có vẻ khá tốt. Tôi chưa sờ thử, cũng không biết cụ thể làm bằng chất liệu gì, có lẽ là da. Tần Nhất Hằng cầm xem qua một lượt, gật đầu khen mũ đẹp rồi đặt nó lên bàn.
Tôi ngồi cách bàn chừng hai bước chân, khi nãy Tần Nhất Hằng cầm mũ trên tay nên tôi không để ý, giờ nhìn từ góc độ này mới thấy nó cao hơn mũ thông thường, không biết là sai sót trong thiết kế hay bây giờ kiểu này đang thịnh hành, thoạt nhìn không vừa mắt cho lắm. Nhưng thấy ông lão có vẻ rất thích, tôi đành nén lại không nói, châm thuốc hút để khỏi phải lên tiếng.
Tôi hút xong điếu thuốc, Tần Nhất Hằng cũng trò chuyện được kha khá với ông lão, hắn xin phép cáo từ, cẩn thận thu lại tờ giấy kia rồi lấy một xấp tiền trong ví đặt lên bàn. Ông lão cũng không khách sáo, mỉm cười tiễn hai chúng tôi đến cửa rồi đưa cho Tần Nhất Hằng đôi câu đối, sau đó quay người đi vào nhà.
Ra khỏi cửa, tôi nhịn mãi cuối cùng cũng được nói, định hỏi hắn nhưng nhất thời chưa nghĩ ra nên bắt đầu từ đâu. Tần Nhất Hằng bèn tỏ ý đợi lên xe hẵng nói, rồi đưa tôi rời khu chợ.
Lên xe, hắn vẫn chưa vội kể chuyện mà chỉ dựa vào ghế trầm tư, nói với tôi rằng ông lão này họ Phòng, cũng được xem là một trong những bậc thầy về đoán chữ hiếm hoi ở Trung Quốc. Trông ông ta có vẻ chưa già lắm, chứ thật ra đã gần chín mươi rồi. Mấy năm trước lúc còn khấm khá, ông ta có vài quán trà, được người đời gọi là Phòng Vạn Kim, tên sao người vậy, hễ ai tìm tới ông ta nhờ đoán chữ, ít nhất cũng phải trả mười nghìn tệ. Đừng nhìn ông ta tươi cười vậy mà nhầm, thật ra ông ta rất xấu tính, cáu lên là ăn nói cực kì khó nghe, có lần đã làm mất lòng một nhân vật lớn tới xem bói nên bị đối phương trị cho một trận ra trò, mấy quán trà đều phải đóng cửa. Cuối cùng, ông ta thuê gian hàng trong chợ bán sỉ, bề ngoài bán tranh Tết và câu đối, nhưng thật ra vẫn đoán chữ. Vì vậy, khi lão Phòng đang bình chữ, không ai dám ngắt lời. Lão Phòng cũng niệm tình quen biết với hắn từ xưa, nếu không, hễ ông ta mở miệng là phải đặt mười nghìn tệ lên bàn mới được tính là một lần giao dịch.
Dứt lời, Tần Nhất Hằng đưa tôi xem tờ giấy bình chữ của lão Phòng. Tôi quan sát kĩ một hồi, thấy quả giống tờ nháp thi, có vài nét sổ, không biết là suy đoán cái gì. Tôi thầm nghĩ, chỉ mấy nét bút chết tiệt mà cũng lấy được mười nghìn tệ? Thật là hái ra tiền!
Nghe tôi hỏi, Tần Nhất Hằng liền giải thích, đây là cách thức đoán ngũ hành sinh của lão Phòng, chỉ mấy nét bút đơn giản nhưng lại bao hàm đạo lý sâu xa. Từ kết luận của ông lão, thứ này rất có thể là một bản thông báo tìm người, bởi bốn thăm đầu lần lượt thể hiện năm, tháng, ngày, giờ, liên kết lại với nhau sẽ thành bát tự, riêng thăm còn lại thì lão chưa đoán ra, chúng tôi cũng chẳng thể biết nó là gì.
Nói tới đây, Tần Nhất Hằng nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng bỗng nghiêm túc hẳn, sở dĩ ông Phòng nói thông báo tìm người này trái với lẽ thường là bởi bát tự mà ông ta đoán ra là giờ Tý, ngày Ất Mão, tháng Bính Dần, năm Giáp Ngọ.
Tần Nhất Hằng nhấn mạnh từng chữ một, mỗi chữ như một nhát búa đập lên ngực tôi.
Thời điểm mà hắn nói quá quen thuộc, tuy chưa từng nhắc tới nhưng tôi vẫn nghĩ về nó hằng đêm. Ngày tháng năm này không phải là thời gian được khắc trên ván quan tài sao? Giang Thước, qua đời năm Giáp Ngọ, tháng Bính Dần, ngày Ất Mão. Đây chẳng phải là giờ chết của tôi ư?
Tôi vội châm một điếu thuốc, gắng ép bản thân bình tĩnh lại. Sự việc có quá nhiều nghi vấn. Tôi chưa bao giờ coi giờ chết này là thật, nhưng tiềm thức vẫn hơi hoang mang, không nhắc thì chẳng sao, nhắc tới là khó chịu.
Tôi suy nghĩ một lát, cảm thấy bản thông báo tìm người này quả thật trái với lẽ thường, chưa bàn đến nó có liên quan tới giờ chết của tôi hay không, chỉ riêng thời gian đã là vài năm sau rồi. Cho dù là thông báo tìm người thì sao lại tìm một người ở tương lai? Theo bát tự thì người đó vẫn chưa ra đời mà! Sao có thể tìm được? Lẽ nào lão Phòng đoán sai, đây thật ra là giờ chết của tôi? Mẹ nó, sao lại muốn rủa tôi chết vào ngày đó chứ?
Tôi hỏi Tần Nhất Hằng, đây chính xác là bát tự à? Nếu như chỉ thời điểm thì có thể là một việc được ghi lại hoặc một dự định trong tương lai mà. Song hắn vẫn nghiêm trang lắc đầu, cái này được suy luận từ Thôi dương pháp, cho nên phỏng đoán của anh không có cơ sở. Đáp án phù hợp nhất chỉ có thể là bát tự của một người.
Tần Nhất Hằng vừa ngừng lời, trong xe bỗng lặng phắc. Tôi chưa nghĩ ra gì, cũng chẳng muốn nói chuyện. Chừng mười phút sau, hắn mới lên tiếng phá vỡ sự yên lặng, hôm nay cũng không đến nỗi công cốc, còn vô tình thu được tin tức về Lưu thọt. Ban đầu nghe lão Phòng nói, tôi cứ tưởng gã để lại manh mối gì, nhưng xem kĩ cái mũ kia thì không có gì khác thường. Có khi Lưu thọt chưa hề gặp bất trắc, chỉ là gã thấy tình hình không ổn nên muốn trốn đi một thời gian thôi.
Nhưng tính ra vẫn còn vài điểm kì lạ. Nếu Lưu thọt đã dự liệu mình sẽ gặp nguy hiểm thì tại sao không đi cầu cứu? Tuy hiện tại Phòng Vạn Kim đã sa sút hơn xưa nhưng quan hệ rất rộng, lại có nhiều mánh khóe, là nhân vật khá tiếng tăm trong giới, nói công bằng thì cũng có của ăn của để. Nếu Lưu thọt đã tới từ biệt thì có thể cầu xin lão Phòng trợ giúp.
Nghe Tần Nhất Hằng nói, tôi đoán lão Phòng tuổi tác đã cao, hành động không còn gọn lẹ, chắc Lưu thọt không muốn gây thêm phiền phức cho lão. Tần Nhất Hằng nghe vậy liền lắc đầu, dù thế gã vẫn có thể cầu cứu tôi.
Tôi đang choáng váng, chẳng còn sức mà nghĩ, bèn nhắm mắt lại day day thái dương. Bỗng nhiên, tôi chợt hiểu ra, sở dĩ Lưu thọt không cầu xin bất kì ai trợ giúp, chỉ có một khả năng là phiền phức gã gặp phải không ai giải quyết được, có nhờ người giúp cũng chẳng thấm vào đâu, đành tự gánh vác hoặc lẩn trốn. Nói vậy, không phải gã giết người rồi bỏ chạy đấy chứ?
Nghe tôi trình bày suy luận, Tần Nhất Hằng thở dài, đáp rằng phỏng đoán của tôi nghe cũng có lý. Hắn cúi đầu nghĩ ngợi một lúc rồi lại khẽ lắc đầu, nói hiện tại chỉ đoán bừa thì không thể tìm ra đáp án, có lẽ chúng tôi vẫn phải bắt tay điều tra từ tập đoàn Hoành Đạt, còn mọi chuyện khác đành chờ xem thế nào. Dứt lời, Tần Nhất Hằng nổ máy, trở về theo đường cũ.