Chương 5 Ma ngựa
Ba ngày sau đó, tôi và Tần Nhất Hằng không liên lạc. Thân tâm tôi đều mệt rã rời, chỉ muốn ở nhà nghỉ ngơi. Tần Nhất Hằng mang hết chỗ nội san doanh nghiệp về nhà mình, có vẻ muốn ở nhà suy nghĩ, giống như người ta tĩnh tâm ngồi thiền vậy. Tôi cũng lười chẳng buồn đi gặp hắn. Sang ngày thứ tư, tôi nhận được một vụ làm ăn, lần này cũng không cần Tần Nhất Hằng xử lý bởi có người gọi điện tới muốn mua một ngôi nhà của tôi.
Anh ta đưa ra mức giá không tệ, lợi nhuận cũng nằm trong dự trù. Tôi chẳng hề do dự, nhanh chóng để anh ta tới xem nhà. Dạo gần đây, số nhà tôi bán ra cũng ít, mà mua thêm lại nhiều, tiền vốn đã có phần hơi eo hẹp nên vụ mua bán này xem như giảm bớt mối nguy trước mắt. Sau khi kiếm được một khoản tiền, dĩ nhiên phải hẹn Tần Nhất Hằng đi ăn mừng nên ngay tối hôm đó tôi đã gọi điện cho hắn. Giọng Tần Nhất Hằng có vẻ hơi do dự, chần chừ hồi lâu mới nhận lời. Suốt bữa cơm, hắn gần như chẳng nói gì, thậm chí rất ít khi gắp thức ăn.
Tôi trông bộ dạng Tần Nhất Hằng như thể tẩu hỏa nhập ma, e là ở nhà nghiên cứu nội san sắp hóa điên, bèn quan tâm hỏi han vài câu. Hắn ngẩn người ra, rồi bỗng dưng bảo tôi lát nữa ăn xong ra ngân hàng rút ít tiền mặt cho hắn mượn, nói rằng tối nay cần dùng luôn.
Thấy vậy, tôi lại càng khó hiểu. Số tiền kiếm được sau các vụ làm ăn thường chia đều cho cả hai, Tần Nhất Hằng vốn chẳng có sở thích gì đặc biệt tốn tiền, hơn nữa lần này bán nhà, tôi cũng vừa chuyển khoản phần của hắn trước bữa ăn.
Dù rất tò mò, tôi lại ngại hỏi hắn cần tiền làm gì, chỉ khẽ gật đầu đồng ý. Ăn xong cơm, cả hai không hề nghỉ ngơi mà tới thẳng ngân hàng gần đó. Tôi rút năm mươi nghìn tệ tiền mặt từ cây ATM đưa cho hắn. Tần Nhất Hằng cất tiền vào túi giấy, ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo, lên xe đi, tôi đưa anh tới một chỗ.
Trông hắn như chuẩn bị đi tiêu tiền, thậm chí còn định phung phí không ít. Chúng tôi đi hơn nữa tiếng đồng hồ mới đến một khu nhà, rồi dừng lại trước cửa một sòng bạc. Xuống xe, Tần Nhất Hằng đi thẳng vào như thể quen thuộc lắm. Tôi theo sau hắn, không nén nổi tiếng thở dài.
Từ lúc vào nghề đến nay, số tiền tới tay hắn quả thật không nhỏ, nhưng tiền nhiều đến mấy cũng không bù nổi khoản thua bạc. Nghĩ vậy, tôi bỗng xót tiền thay hắn, cảm thấy dù là bạn bè hay cộng sự thì cũng nên ngăn hắn lại, bèn kéo áo Tần Nhất Hằng, toan lựa lời khuyên nhủ mấy câu, nhưng hắn lắc đầu dặn tôi lát nữa đừng xen vào, xong xuôi sẽ giải thích cho tôi hiểu. Dứt lời, hắn xoay người đi vào sòng bạc.
Nghe Tần Nhất Hằng cam đoan, tôi ngây cả người, tin rằng quả thật hắn đang ấp ủ một kế hoạch. Cứ cho là hắn lừa tôi đi, cùng lắm là thua sạch năm mươi nghìn tệ này chứ gì, về sau không cho hắn vay nữa là được. Nghĩ vậy, tôi bèn đi theo.
Vào trong sòng bạc, tôi mới để ý nó được sửa lại từ căn hộ tầng một của khu chung cư, cửa lớn trổ ở ban công hướng ra sân, bên trong vẫn giữ nguyên kiến trúc ban đầu.
Tần Nhất Hằng thì thầm vài câu với một người trông như ông chủ ở đây, rồi lấy chút tiền từ trong túi giấy đưa cho ông ta. Sau đó, hắn quay đầu gọi tôi và theo người vừa cầm tiền đi qua một cánh cửa khác.
Cánh cửa này vốn là cửa chính của ngôi nhà, nhưng không dẫn đến hành lang khu chung cư mà rẽ sang một căn phòng khác, có thể là căn đối diện với sòng bạc được họ nối thông sang. Kiến trúc bên trong cũng giống sòng bạc, nhưng không có bàn mạt chược, trông cách sắp xếp và bày biện thì có vẻ là chỗ ở của người trong sòng bạc.
Hiện đã có vài người ngồi quây quanh chiếc bàn gấp trong phòng khách. Họ ngẩng lên nhìn hai chúng tôi, cười đầy vẻ quái dị. Tần Nhất Hằng im lặng ngồi xuống rồi bảo tôi kê một cái ghế bên cạnh. Sau đó, hắn đặt tiền lên bàn.
Chết tiệt, thật giống cảnh giao dịch của xã hội đen trên phim! Tôi cứ nơm nớp sợ lát nữa họ sẽ chĩa súng vào chúng tôi, nhưng thấy Tần Nhất Hằng vẫn điềm tĩnh, tôi mới hơi vững dạ.
Mấy người kia cũng móc ra một xấp tiền. Một người trong số đó đứng dậy lấy bộ bài poker. Hóa ra Tần Nhất Hằng đưa tôi đi đánh bài thật, nhìn đống tiền trên bàn, xem chừng bọn họ đặt cược không ít. Nói thật lòng, tôi cũng hơi thất vọng về Tần Nhất Hằng, nhưng bây giờ đâm lao thì phải theo lao, tôi đành vừa hút thuốc vừa theo dõi canh bạc.
Bọn họ chơi trò xì tố 7 cây rất phổ biến. Vận may của Tần Nhất Hằng không tệ, cơ bản đều đã thủ sẵn bài để đánh, mới được vài ván đã thắng gần mười nghìn tệ. Nhưng trông hắn cứ tiu nghỉu, cuối cùng còn lén thì thào bảo tôi, anh lấy con dao Thụy Sĩ trong túi tôi ra, cắt một lỗ ở sau mông quần tôi.
Yêu cầu gì mà kì quặc, nhưng trước mặt bao người, tôi không tiện hỏi kĩ càng, đành lặng lẽ làm theo, cắt một lỗ trên quần của Tần Nhất Hằng, lộ cả quần lót bên trong. Hắn khẽ gật đầu nhìn tôi ra vẻ hài lòng rồi tiếp tục đánh bài.
Kể cũng lạ, sau khi bị thủng quần, vận may của Tần Nhất Hằng vội tụt dốc. Một lúc sau, số tiền thắng ban nãy đã bay biến, thậm chí còn mất trắng cả năm mươi nghìn tệ tiền vốn.
Tôi ngồi bên cạnh xem mà xót tiền vô hạn, nhưng vẻ mặt Tần Nhất Hằng lại rất thỏa mãn. Sau khi thua sạch, hắn phủi mông dẫn tôi ra khỏi sòng bạc. Tôi cố gắng đi sát lại để giúp hắn che lỗ thủng sau quần. Không hiểu hắn nghĩ gì mà mặc quần lót đỏ chót bên trong quần dài màu xám, màu quần lót lộ ra cứ đập vào mắt người ta.
Lên xe, tôi chưa kịp mở miệng, Tần Nhất Hằng đã giành nói trước, bảo rằng gần đây mình quá may mắn, nếu không thua mất ít tiền thì không bớt may được, việc mượn tiền người khác rồi thua sạch rất tổn hại đến vận may.
Sòng bạc vốn rất nặng âm khí, nói trắng ra là nơi cô hồn dã quỷ lảng vãng. Thứ nhất, sòng bạc trông có vẻ rất náo nhiệt nên chúng muốn tìm tới đây vui chơi. Thứ hai, vì con bạc đến từ khắp mọi nơi, mặc dù trong một thành phố thì cũng từ bốn phương tám hướng đổ lại, như vậy có thể nghe ngóng được nhiều tin tức. Thứ ba, cũng là điểm quan trọng nhất, rất nhiều người thua bạc sẽ suy sụp, thậm chí có người còn nghĩ quẩn hoặc bị thúc nợ quá đành tự sát. Vì vậy, lũ cô hồn dã quỷ này muốn đợi có người chết để tranh thủ nhập vào.
Dứt lời, Tần Nhất Hằng bảo tôi, sòng bạc từ xa xưa đã không phải nơi yên lành. Kẻ muốn mở sòng bạc không những phải có quan hệ sâu rộng mà còn phải cứng vía. Theo sự phát triển của xã hội, sòng bạc trong nước cũng hiếm dần, cùng lắm chỉ là nơi kín đáo để vài người tụ tập chơi một ván bài như thế này. Loại sòng bạc ngầm quy mô như trước kia cũng không dễ tìm nữa, nhưng lại xuất hiện vài chỗ có tính chất tương tự sòng bạc. Ví như phân xưởng chứa gỗ, tiệm bán quan tài hay thị trường chứng khoán trong thời kì bear market [38] .
Nguyên lý của sàn giao dịch chứng khoán thật ra cũng giống sòng bạc, vì tài vận của đa số cổ đông trong thời kì bear market đều suy giảm nên lũ cô hồn dã quỷ rất thích đợi ở đây. Còn gỗ sinh ra từ đất, thuộc tính âm, nên nhiều linh hồn lang thang muốn tìm một cỗ quan tài cho mình đều tụ tập ở xưởng gỗ, về nguyên tắc cũng giống như tiệm buôn quan tài.
Lời giảng giải của Tần Nhất Hằng quả khiến tôi được mở mang tầm mắt, nhưng tôi vẫn không hiểu. Người ta tìm trăm phương nghìn kế để kéo vận may về phía mình, chứ chưa thấy ai chê vận mình tốt quá bao giờ, tôi bèn hỏi, thế tại sao phải cắt thủng quần?
Nghe tôi hỏi, Tần Nhất Hằng mới sực nhớ mình đang mặc quần thủng, bèn lấy một cái quần ở ghế sau để thay, ra là đã có chuẩn bị từ trước. Thay xong, hắn dặn tôi, quần lót màu đỏ không thể mặc tùy tiện, thường thì vào năm tuổi dễ phạm phải thái tuế, một loại sao tính âm chủ việc hung, nên người ta có thói quen mặc quần lót đỏ để trừ tà. Nếu không phải năm tuổi mà mặc vào ngày thường cũng không sao, song đi viếng mộ, khiêng quan tài, tiễn người hấp hối thì tuyệt đối không được. Khi đánh bạc hay đánh nhau với người khác lại càng phải tránh, vì nó dễ khiến bản thân xúi quẩy. Bởi vậy, hắn cố ý mặc cái quần này để thua cho nhanh. Lỗ thủng ở quần cũng là để giảm vận may, người ta thường nói mặc áo rách đánh bạc rất đen đủi.
Xem ra để thua tiền, Tần Nhất Hằng đã bày không ít cách, quả là vất vả. Nhưng hắn vẫn chưa giải thích rốt cuộc là để làm gì. Thấy tôi gặng hỏi, hắn mới châm thuốc, nhẹ nhàng nhả ra mấy chữ, tôi muốn gặp ma, đoạn quay mặt đi nói tiếp, pho tượng kia có vấn đề.
Giọng Tần Nhất Hằng nhẹ tênh nhưng sắc mặt lại cực kì nghiêm trọng. Tôi bèn hỏi, pho tượng ấy có vấn đề gì. Hắn chỉ đáp rằng một hai câu không giải thích xuể, đợi lát nữa tôi xem sẽ biết, sau đó lái xe đưa tôi tới thẳng nhà hắn. Trên đường đi, tim tôi cứ tròng trành theo từng chuyển động của bánh xe, muốn chợp mắt một lát mà không tĩnh tâm nổi. Tới nơi, Tần Nhất Hằng mở cửa, tôi theo hắn vào. Cái tủ quần áo vẫn ở nguyên chỗ cũ, vừa nhìn đã thấy đau đầu.
Tôi chưa thấy pho tượng đâu, không biết Tần Nhất Hằng giấu ở chỗ nào. Nhìn kĩ mới nhận ra nó được dựng ở góc nhà, phía trên phủ một tấm vải, chẳng rõ là thảm hay quần áo. Tần Nhất Hằng đi thẳng tới, cẩn thận vén tấm vải lên rồi gọi tôi lại. Tôi chưa kịp đến gần, hắn đã ra chắn trước mặt, dặn tôi nhất định không được sờ tay vào rồi mới để tôi qua xem.
Đèn trong phòng đều bật sáng, pho tượng nằm trong góc vẫn có thể thấy rõ mồn một. Tôi quan sát một lúc, cảm thấy Tần Nhất Hằng có vẻ chuyện bé xé ra to, tượng đâu có điểm gì bất thường, ngoại trừ vài vệt màu hồng hay đỏ nhạt nơi ngực, trông như bị thuốc nhuộm hoặc thứ gì bẩn quệt vào.
Mấy vệt này vốn không quá rõ, nhưng trên nền thạch cao trắng nên trông khá nổi bật, chắc là dây ra từ tấm vải của Tần Nhất Hằng. Nhưng quay sang nhìn tấm vải, tôi lại cảm thấy hình như không đúng. Tấm vải màu xanh lam, dù phai ra cũng không thể thành màu hồng. Chẳng lẽ mấy vệt đó này tự nhiên xuất hiện? Hay có kẻ nào lẻn vào nhà Tần Nhất Hằng để lại chút manh mối cho chúng tôi?
Tôi hỏi Tần Nhất Hằng, hắn không trả lời ngay mà lại nhắc tôi không được tới quá gần pho tượng, rồi mới chỉ vào vệt màu đỏ giải thích. Lúc mới phát hiện ra, hắn cũng cảm thấy bất ngờ, lúc đầu còn cho rằng chúng có liên quan đến ánh sáng phản xạ trong nhà nên mới chuyển pho tượng vào góc, kết quả những vệt màu trên pho tượng ngày càng nhiều, không biết xuất hiện thêm từ lúc nào. Hắn nghĩ mãi, vài ngày sau mới nảy ra một ý, nhưng là một ý rất hoang đường, tới giờ cũng không có cách nào chứng minh.
Tần Nhất Hằng rít một hơi thuốc dài, chậm rãi tiếp, đây là vết hoen tử thi.
Mấy chữ cuối cùng của hắn khiến tôi cảm thấy chân lạnh toát như bị ai đó nhét đá vào giày. Vết hoen tử thi ư? Tức là chỉ trên xác chết mới có chứ? Tượng rõ ràng nặn bằng thạch cao, cứ cho là giống hệt người thật thì cũng không thể là tử thi được.
Tôi không hiểu nhiều về sinh học, nhưng dù sao cũng từng xem khám nghiệm xác chết trên phim, biết rằng sau khi nạn nhân tử vong, dần dần sẽ xuất hiện vết hoen tử thi. Hình như trong phim, người ta còn nói rõ là nó liên quan đến cách thức tử vong, thậm chí có thể dựa vào đó để ước chừng thời điểm chết. Nghe nói, người chết càng lâu thì màu sắc của vết hoen càng đậm. Vệt màu trên pho tượng khá nhạt, chẳng lẽ nó mới chết cách đây không lâu? Sao cứ như đóng phim khoa học viễn tưởng vậy?
Tình hình quả thật thách thức giới hạn tư duy của con người. Nếu đây là vết hoen tử thi thật, thì tôi đúng là sống uổng hơn hai mươi năm trên đời.
Tần Nhất Hằng chắc đã đoán được phản ứng của tôi, bèn thở dài nói, tôi chỉ đánh bạo đoán vậy thôi, hiện tại cũng không có bất cứ bằng chứng nào. Vì vậy, tối nay tôi định dùng nốt mấy biện pháp, xem phỏng đoán này đúng hay sai. Dứt lời, hắn cầm tấm vải xanh dưới đất lót tay, nâng pho tượng lên, bảo tôi đi trước giúp hắn mở cửa, chuyển tượng xuống dưới lầu, sau đó dùng dây thừng buộc nó ở ghế sau ô tô.
Khi cả hai đã ngồi trên xe, Tần Nhất Hằng nhìn đồng hồ, nói, còn một lúc nữa mới tới nửa đêm, bây giờ cứ nghỉ ngơi trước đã, tranh thủ chợp mắt dưỡng sức, lát nữa không chừng sẽ có con thiêu thân nào đó xuất hiện.
Hắn nói thì dễ lắm, giữa tình thế này, ngủ được mới là chuyện lạ. Tôi ngoái đầu nhìn pho tượng, chợt thấy nó thực sự giống xác chết. Tần Nhất Hằng thấy tôi cứ quay lại phía sau bèn khuyên tôi đừng nhìn nữa, e rằng bên trong pho tượng có tà vật, tốt nhất không nên chọc vào. Tôi bỗng cảm thấy sống lưng lạnh buốt, chỉ muốn xuống xe ngay lập tức.
Thời gian trôi qua rất chậm, một lúc lâu sau, Tần Nhất Hằng nói sắp tới giờ xuất phát. Để pho tượng không xảy ra chuyện ngoài ý muốn, Tần Nhất Hằng bảo tôi phụ trách lái xe, còn hắn ngồi bên cạnh chỉ đường. Tôi phóng như bay, bất chấp tốc độ đã vượt quá mức cho phép hay chưa, miễn là mau chóng thoát khỏi cảnh phải ngồi cùng pho tượng. Theo phương hướng Tần Nhất Hằng chỉ, hai chúng tôi đi thẳng ra ngoại ô.
Lúc tôi dừng xe đã là quá 12 giờ. Bên ngoài là đồng không mông quạnh, không một bóng người, hai chúng tôi cứ như nhân lúc đêm khuya đến đây phi tang thi thể vậy. Tần Nhất Hằng xuống xe trước, khiêng pho tượng ra, sai tôi lấy hai cái xẻng trong cốp rồi đi sau rọi đèn pin soi đường cho hắn. Đi được một đoạn khá xa, Tần Nhất Hằng nhìn xung quanh rồi đặt pho tượng xuống đất, bảo tôi đào giúp một cái huyệt.
Mẹ kiếp, quả đúng như tôi nói, hai chúng tôi tới đây để chôn xác. Chỗ này tuy nằm ở ngoại ô, nhưng cũng không cách đường quốc lộ quá xa, có vẻ là một cánh đồng, giờ đã qua vụ thu hoạch, vô cùng hoang vu. Trong lúc chôn, tôi vẫn nơm nớp sợ mấy lão nông dân tay cầm bồ cào đột ngột xuất hiện, tưởng chúng tôi là tội phạm xúm lại xử ngay tại chỗ.
Cũng may, chúng tôi đã đào khá sâu mà xung quanh vẫn vô cùng yên ắng. Yêu cầu của Tần Nhất Hằng rất nghiêm ngặt, phải đào xuống thật sâu, càng sâu càng tốt. Cả hai dốc hết sức, điên cuồng đào một mạch, tới khi gan bàn tay tôi toác cả ra, hắn soi đèn pin xuống huyệt, nói cũng kha khá rồi, sau đó khiêng pho tượng lên cắm vào huyệt. Lấp đất xong, hắn còn lấy thêm đất ở chỗ khác đắp quanh, cuối cùng toàn bộ pho tượng bị vùi trong đất, chỉ lộ đỉnh đầu.
Hai chúng tôi mệt đứt hơi, nghỉ một lúc mới thở đều trở lại. Uống xong ngụm nước, Tần Nhất Hằng lục túi lấy một thứ đặt vào tay tôi. Tôi soi đèn pin xem, quả nhiên là cái mai rùa phòng thân hắn vẫn mang bên người. Tần Nhất Hằng nói, lát nữa tôi sẽ đập vỡ đỉnh đầu pho tượng, anh phải đặt mai rùa lên đó thật nhanh nhé. Nhớ dùng hết sức ấn thật chặt mai rùa, tôi không bảo thì không được buông tay ra.
Dứt lời, Tần Nhất Hằng bảo tôi vào vị trí, còn hắn nhặt bừa một hòn đá, hít sâu rồi tiến đến ụ đất, dùng hết sức ném vào đó. Tôi nghe thấy một âm thanh trầm đục, chắc mẩm pho tượng đã vỡ, vội vàng lao đến. Đã có bấy nhiêu kinh nghiệm, tôi không hề sợ hãi, chụp ngay mai rùa lên trên đỉnh tượng, ấn thật chặt, chỉ sợ bên trong có thứ gì lao ra. Được một lúc, thấy dưới tay không có cảm giác khác lạ, tôi mới an tâm quay đầu nhìn Tần Nhất Hắng, hắn đang ngồi xổm mân mê cái gì đó. Bốn bề tối đen như mực nên tôi chẳng nhìn rõ, hơn nữa ánh đèn pin cũng không chiếu về phía hắn.
Lát sau, Tần Nhất Hằng không hiểu lôi từ đâu ra một cái sào tre rất dài, một đầu vót nhọn, cắm nó vào vị trí cách mai rùa hơn mười phân, ấn xuống thật sâu mới chịu buông tay, cái sào tre được cắm cố định vào ụ đất, nghiêng một góc khoảng 75 độ. Xong xuôi, Tần Nhất Hằng mới bảo tôi buông tay rồi lấy từ trong túi ra một chai nước, tưới lên cái sào. Thấy tôi lò dò lại xem, hắn bèn khoát tay bảo tôi đứng xa ra. Sau khi đổ hết chỗ dung dịch trong chai, hắn cũng lùi ra sau vài bước, căng thẳng nhìn chằm chằm vào ụ đất.
Tôi nhanh chóng giật lùi, giương mắt nhìn mãi nhưng chẳng thấy động tĩnh gì.
Tần Nhất Hằng bất động, tự nhiên tôi cũng không đám cựa quậy, cả hai cứ đứng lì ở đó một lúc, bằng thời gian hút xong điếu thuốc, hắn mới thấp giọng nói, tới rồi, sau đó nắm tay tôi, chốc nữa dù nhìn thấy gì anh cũng không được chạy, chạy là toi đời.
Tôi vốn không sợ, nhưng nghe hắn dặn dò như vậy chân lại nhũn ra, bây giờ muốn chạy cũng chẳng chạy nổi, đứng được đã là tốt lắm rồi. Tay Tần Nhất Hằng đầm đìa mồ hôi, xem ra hắn cũng rất căng thẳng. Thực tình thứ sắp đến không đáng sợ, đáng sợ là không biết thứ gì sẽ đến. Tôi thậm chí còn không dám chớp mắt, nhưng nhìn trân trối đến ba phút vẫn chẳng thấy gì.
Tần Nhất Hằng ồ lên kinh ngạc, dường như cũng cảm thấy kì lạ, hắn quay đầu lại hỏi tôi, có phải vì quên lấy cái mai rùa ra không nhỉ?
Tôi liền chột dạ, cho rằng mình đã phạm sai lầm, nhưng nghĩ một lúc mới nhớ, hắn chỉ bảo tôi buông tay ra chứ đâu dặn tôi lấy lại mai rùa! Tôi liền nói mai rùa vẫn ở chỗ cũ, còn huơ đèn pin chỉ cho hắn xem.
Tần Nhất Hằng vội hô lên, hỏng rồi! Anh mau qua đó lấy mai rùa đi, chần chừ nữa là không kịp đâu.
Giọng điệu của hắn rất phù hợp với hoàn cảnh, khiến tôi nghe xong cũng thấy rờn rợn, bèn rụt rè tiến lên vài bước. Đang định quay đầu trách Tần Nhất Hằng vài câu, nào ngờ vừa quay người thì hắn bỗng dưng tắt phụt đèn pin.
Đêm tuy có trăng nhưng cũng chỉ sáng lờ mờ, đèn pin vừa tắt, mắt tôi nhất thời chưa kịp làm quen với bóng tối. Tôi phải đứng nguyên tại chỗ vài giây mới nhìn thấy cái mai rùa, vội tiến lên chụp lấy nó rồi chạy về cạnh Tần Nhất Hằng, không dám chậm trễ. Tôi vừa định mắng hắn về tội tắt đèn đột ngột thì thấy Tần Nhất Hằng suỵt một tiếng, cau mày như đang quan sát. Tôi hấp tấp quay đầu nhìn, tức thì sững ra, bởi chỗ chôn pho tượng bỗng xuất hiện một bóng đen.
Đây không phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy bóng đen này, hay nói chính xác hơn là bóng đen kiểu này. Trong ngôi nhà đào được cửu tử kia, tôi cũng từng nhìn thấy một cái bóng tương tự đằng sau pho tượng Chung Quỳ bị đẩy đổ.
Bóng đen khá mờ ảo, không có đặc trưng hình thể rõ ràng, không biết có phải bóng đồ vật gì không. Tôi đứng im, đối mặt với nó nhưng không hề sợ hãi, trong đầu còn mải nhớ lại bóng đen trước đây trong ngôi nhà có cửu tử, định so sánh với cái mình đang thấy. Tiếc rằng tuy trí nhớ của tôi rất tốt nhưng hồi đó lại chưa quan sát kĩ càng.
Tần Nhất Hằng cũng không nhúc nhích, đăm đăm nhìn bóng đen. Hai chúng tôi không ai nói gì. Bóng đen cũng bất động, giống như đang đối mặt với chúng tôi vậy. Có khi nào nó là bóng của một vật thể quanh đây, chứ không phải tà vật? Thế nhưng bốn bề là đồng không mông quạnh, chẳng có gì cả.
Độ năm, sáu phút, cũng có thể vì quá căng thẳng nên tôi cảm thấy dài lê thê. Tóm lại, qua một lúc lâu, bóng đen kia bắt đầu nhúc nhích, ban đầu nó chỉ hơi lắc lư khiến tôi cứ tưởng mình bị ảo giác hay hoa mắt, nhưng càng về sau nó càng động đậy nhiều hơn, trông như thể đang từ từ ngồi xuống, hoặc là co lại thành một khối.
Tôi quan sát rất kĩ, tuy cái bóng như bị ngăn cách bởi một lớp kính mờ, không thể phân biệt rõ ràng tứ chi, nhưng nếu buộc phải hình dung thì trông hơi giống bóng nước. Tôi vẫn nhận ra đại khái động tác của nó, ít nhất thông qua hình dáng, nó quả thật đã ngồi xuống, nếu không cũng là quỳ xuống.
Chết tiệt, như vậy có ý gì? Muốn quỳ lạy tôi à? Trông có vẻ không giống. Tôi liếc Tần Nhất Hằng, do dự không biết đã hỏi được chưa, cuối cùng đành quay đi tự nghĩ tiếp. Được một lúc, thấy cái bóng lại lay động, trong lòng tôi hơi bất an. Bởi tôi bỗng phát hiện ra, động tác của nó hình nhưhơi giống tư thế chuẩn bị trước khi thi chạy một trăm mét. Mẹ kiếp, không phải nó đang chuẩn bị lấy đà chạy qua đây đấy chứ?
Tôi không bình tĩnh nổi nữa, vội véo tay Tần Nhất Hằng hòng nhắc nhở hắn. Hắn cũng lay lay tôi, ý bảo tôi trấn tĩnh. Sau đó, Tần Nhất Hằng bỗng kêu khẽ một tiếng, nghe như than thở, cũng hơi giống xuýt xoa. Tôi quay sang, thấy mắt hắn trợn trừng, không hiểu đã nhìn thấy thứ gì bất thường. Nhưng khi tôi nhìn lại, bóng đen kia vẫn giữ nguyên tư thế, không hề cựa quậy.
Thấy vậy tôi cũng ngạc nhiên, có gì mà sợ? Song chăm chú nhìn thêm một lúc, tôi mới hiểu ra, cái bóng tuy không cựa quậy nhưng giống như đang to dần lên, ít nhất cũng to hơn một phần ba so với lúc tôi vừa nhìn thấy. Đó là nó chưa đứng dậy, nếu đứng dậy e rằng sẽ cao tới hai mét.
Lòng bàn tay tôi bắt đầu túa mồ hôi, may thay bóng đen kia không tiếp tục to lên nữa, mà trong chớp mắt bỗng biến mất, không để lại dấu vết. Tự dưng tôi dao động, bụng bảo dạ chẳng rõ có phải nó từng xuất hiện hay không.
Tần Nhất Hằng bấy giờ mới hắng giọng nói, giờ thì cử động được rồi. Anh cầm xẻng đi, hai ta lại đào pho tượng lên. Nhớ cẩn thận một chút, đừng làm vỡ nó đấy!
Lại hì hục đào lượt nữa, may mà bình thường tôi cũng thi thoảng vận động, nếu không đêm nay kiểu gì cũng mệt tới mức tê liệt toàn thân. Ban nãy chúng tôi chưa nện chặt đất, Tần Nhất Hằng lại đổ nước vào, nên lúc đào lên dễ dàng hơn khi chôn xuống, có điều phải cẩn thận không làm vỡ tượng, thành ra lại tốn thời gian hơn nhiều, quá nửa tiếng mới xong. Tần Nhất Hằng dạo một vòng quanh pho tượng, nghĩ ngợi rồi bảo tôi cầm đèn pin soi. Hắn bắt đầu cẩn thận đập vỡ từng phần tượng.
Tôi theo dõi hắn đập mà hồi hộp, cái bóng lúc nãy thoát ra từ pho tượng, lẽ nào đây là vật chứa? Nghĩ thế, tôi lại càng tò mò, chẳng rõ sau khi đập vỡ tượng có phát hiện thêm gì không. Quả nhiên Tần Nhất Hằng mới đập vỡ phần cánh tay, bên trong đã lộ ra một đoạn na ná dây thừng, không to lắm, chiếu đèn pin vào cũng không thể nhìn rõ. Tần Nhất Hằng sửng sốt, đập nhanh hơn, pho tượng mau chóng vỡ nát. Sau khi dọn dẹp đống mảnh vỡ, Tần Nhất Hằng rút sợi dây ra giơ lên, quan sát từ trên xuống dưới rồi buột miệng chửi thề, ghê gớm đấy! Tôi nhìn mãi cũng không phát hiện ra chỗ nào đặc biệt, nhưng nó có vẻ dài hơn tôi tưởng, hơn nữa lại khá rườm rà, có nhiều nút thắt, trông như là nhiều đoạn dây buộc vào nhau. Khi giơ cao lên, nhìn nó hơi giống lưới cá, nhưng không phức tạp bằng, cùng lắm chỉ như một cái võng đang làm dở.
Đây là thứ gì nhỉ? Dùng để đánh cá sao? Tôi bèn hỏi Tần Nhất Hằng, song hắn chỉ ậm ừ bảo tôi thu dọn mọi thứ, lấy một ít đất ẩm từ chỗ vừa đào lên rửa tay, mọi chuyện để về nhà hắn rồi hẵng nói tiếp.
Tôi bới một ít đất vẫn còn ướt chà xát qua loa, bàn tay hơi dinh dính, cảm giác vô cùng ghê tởm. Khi tôi đang rửa tay, Tần Nhất Hằng thu dọn mọi thứ, cất riêng sợi dây tìm thấy trong pho tượng và cây sào tre dài ban nãy vào túi. Sau cùng, hắn đặt hòn đá đập tượng ngay ngắn lên ụ đất mới đào rồi đưa tôi trở về.
Lúc về, Tần Nhất Hằng im lặng lái xe, chẳng nói lời nào. Tôi sợ hắn phân tâm, cũng không dám quấy rầy. Tới khi vào nhà hắn, buông mình xuống sofa, tôi mới hỏi tối nay rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.
Tần Nhất Hằng khui một lon bia, hỏi tôi có nhìn thấy cái bóng kia không. Tôi gật đầu. Hắn lại hỏi, nó có hình gì? Tôi bèn hồi tưởng lại. Nếu nói là hình gì thì tôi không nhìn ra, chỉ ấn tượng là nó ngồi thụp xuống, hơn nữa còn to lên.
Tần Nhất Hằng rất hài lòng với câu trả lời của tôi, gật đầu nói, vốn dĩ tôi cố tình thua bạc thật nhiều, làm suy giảm vận may là để đối phó với tình hình đêm nay, xem liệu có thể giao lưu với tà vật này không. Đáng tiếc, tôi chưa kịp chuẩn bị gì, nó đã bị quỷ câu hồn đưa đi mất rồi.
Tôi không còn lời nào để nói, chỉ biết tổng kết lại bằng sáu chữ: mất toi năm mươi nghìn tệ. Tôi hỏi Tần Nhất Hằng, cái bóng kia vẫn luôn ở trong pho tượng hay sao?
Hắn thẳng thắn trả lời, không biết nữa. Hiện tại tôi không xác định được ngay từ đầu nó đã bị giam bên trong hay mãi về sau mới tự chui vào, có điều bất kể thế nào, cái bóng đó chắc chắn liên quan đến thứ này. Tần Nhất Hằng mở túi lấy sợi dây tìm thấy trong pho tượng, trải lên bàn trà, nói, tên nó là gì tôi không biết, nhưng mục đích của nó vô cùng rõ ràng. Đây là kinh mạch do một cao thủ làm cho pho tượng.
Đây là kinh mạch sao? Nếu không phải hắn nói với tôi, có cho tám cái đầu tôi cũng chẳng nghĩ ra! Tôi đứng dậy quan sát kĩ thứ đó, nghe hắn nói như vậy, tôi cũng nhìn ra được vài phần. Sau khi đống dây được trải ra, rất dễ thấy nó mô phỏng hệ thống kinh mạch trong cơ thể người, kinh mạch ở tứ chi khá dài, còn đầu đuôi thì ngắn. Nhưng như vậy cũng không đúng, kinh mạch sao lại có đuôi? Tuy không dài nhưng rõ ràng thò ra một đoạn nhỏ, chẳng lẽ đây là đàn ông?
Tôi chỉ vào đoạn lòi ra bên dưới rồi hỏi Tần Nhất Hằng, tượng thạch cao mà lại có đặc trưng giới tính, đoạn này chẳng phải là cái đó ư?
Hắn khẽ lắc đầu, nói rành rọt, anh nhìn ra trọng tâm rồi đẩy. Đây là cái đuôi, bởi kinh mạch này không phải của con người.
Tần Nhất Hằng tiếp tục giải thích, ban đầu hắn cũng không liên tưởng xa đến vậy, nhưng nhìn thấy tà vật kia mới dám chắc. Sở dĩ khi ngồi xuống nó có thể to ra, là bởi thứ nhập vào pho tượng, cũng có nghĩa là nhập vào kinh mạch này, không phải người, mà là một con ngựa.
Nghe vậy, tôi sởn cả tóc gáy, chưa bàn đến việc tại sao linh hồn con ngựa lại nhập vào tượng Viên Trận, mà riêng chữ “mã” thôi, không phải giống cách gọi quân mã trong bộ cờ tướng của lão Vạn hay sao? Chẳng lẽ nó thực sự có liên quan đến chuyện này? Nếu không tại sao lại trùng hợp như vậy được?
Đầu óc tôi hơi rối loạn. Quân mã đó hiện đang nằm trong tay tôi. Nhưng dù bên trong có mối liên hệ thì ông lão Vạn rốt cuộc muốn bày tỏ điều gì? Ông ta đã biết trước sự tình hôm nay ư? Muốn nhắc nhở chúng tôi phải cẩn thận với tà vật bên trong pho tượng? Tôi vội vàng hỏi Tần Nhất Hằng, thứ này liệu có phải là nguyên nhân khiến ông lão Vạn đánh rơi quân mã không?
Tần Nhất Hằng nghĩ một hồi rồi bảo tôi cùng hắn đi tới tủ quần áo, kéo cửa tủ ra, chỉ vào hình vẽ bên trong, anh xem, quá ư kì quặc, tư thế của mỗi người trông đều giống như đang nhảy múa, và là múa tập thể, động tác rất thống nhất. Trước đây tôi đã nghĩ rất lâu, cảm thấy phải tổng hợp hình vẽ trong tất cả những chiếc tủ lại mới hiểu được, nhưng hôm nay được pho tượng gợi ý, cuối cùng cũng nhìn ra thêm chút manh mối. Dứt lời, Tần Nhất Hằng ngoẹo cổ sang một bên, gần như thành một góc 90 độ rồi bảo tôi thử bắt chước hắn.
Tư thế của hắn trông rất buồn cười. Đêm nay, toàn thân tôi đã mỏi nhừ, cổ cũng rời rã, vặn như vậy quả là hơi đau. Nhưng khi điều chỉnh tầm nhìn theo góc 90 độ, tôi đột nhiên phát hiện những người có động tác kì quặc trong hình vẽ đều đồng loạt biến thành động vật bốn chân, trông như đang bò trên mặt đất!
Bọn họ không biết đi sao? Trước đây hai chúng tôi quả thật đã bỏ qua điểm này, cũng vì cái tủ quần áo quá nặng, không dễ di dời, hơn nữa một người bình thường, tứ chi khỏe mạnh thì khó mà liên tưởng theo hướng khiếm khuyết khả năng đi.
Tôi nghĩ thầm, lẽ nào cả đám đều bị tàn tật? Họ bò tới đâu nhỉ? Có việc gì quan trọng đến mức phải ra sức mà bò? Tới đây, tôi đột nhiên nảy ra một ý, tà vật đêm nay là một con ngựa ẩn trong pho tượng hình người. Như vậy, mấy người này căn bản không phải người mà là linh hồn ngựa trong thân xác con người, cho nên mới đi bằng tứ chi?
Nghe tôi suy đoán, Tần Nhất Hằng nghiêm trang gật đầu, khả năng ấy có vẻ rất hoang đường nhưng xem ra lại sát thực nhất. Chắc chắn đây là lý do Vạn Cẩm Vinh cho anh quân cờ, cũng là nguyên nhân pho tượng xuất hiện ở đây. Hắn giơ đống kinh mạch lên, dùng tay xoắn vài cái, nhìn kĩ một hồi rồi bảo, kinh mạch được bện bằng rất nhiều nguyên liệu, tôi cũng không nhận biết được hết, nhưng chắc không thể thiếu lông bờm ngựa và sợi gai, không chừng bên trong còn chứa dây chằng hoặc tủy xương của ngựa, chỉ có điều không dễ nhận ra thôi.
Thật ra sử dụng cách này để tà vật có cơ thể, lại dùng thạch cao làm vỏ ngoài, e rằng khi hoàn thành còn phải làm nghi thức tế máu ngựa, đốt xương ngựa rất phức tạp, mục đích duy nhất là để linh hồn trong tượng thạch cao nghĩ rằng mình vẫn còn sống, hay nói cách khác, nó biết bản thân đã chết nhưng không có cách nào chết được. Những vết hoen tử thi xuất hiện trên pho tượng chính là minh chứng.
Đây cũng là lý do tại sao Tần Nhất Hằng không hề cảm nhận được oán khí từ pho tượng. Tên quỷ câu hồn đêm nay e cũng đã chờ đợi khá lâu mới đưa được linh hồn này đi. Vì vậy, ở vị trí câu hồn, tức phần xương quai xanh trên pho tượng, mới lưu lại vài vệt màu đỏ nhạt. Đây chính là dấu vết đoạt hồn bất thành, màu đó là do lưỡi hái của quỷ sai để lại.
Quỷ sai bắt hồn không nhất thiết là đầu trâu mặt ngựa Hắc Bạch Vô Thường như trên phim. Nói theo kiểu dương gian thì, người chết phải đạt tới một mức độ nhất định, hoặc cực kì độc ác hoặc cực kì lương thiện, mới xứng được đầu trâu mặt ngựa Hắc Bạch Vô Thường tới bắt. Động vật cũng vậy, nếu không có đạo hạnh thì thường bị tiểu quỷ tới dẫn đi. Huống hồ, tên gọi đầu trâu và mặt ngựa không có nghĩa là chúng bắt hồn trâu và ngựa, mà Hắc Bạch Vô Thường ý nói Hắc Vô Thường sẽ không bắt hồn vào ban đêm, còn Bạch Vô Thường sẽ không bắt hồn vào ban ngày, nếu nói đến cùng thì còn rất nhiều cách giải thích khác.
Giảng giải xong, Tần Nhất Hằng nhấp một ngụm bia nhìn tôi, ý đợi tôi hỏi những chỗ chưa hiểu rõ. Lần này hắn giải thích rất rõ ràng, chúng tôi đập vỡ pho tượng, thành ra lại vô tình giúp quỷ sai một tay. Nhưng tôi vẫn không hiểu vì sao pho tượng lại phỏng theo hình dáng của Viên Trận, chúng tôi đã gặp Viên Trận nhiều lần, gã đi lại rất nhanh nhẹn, nếu pho tượng chỉ là để nhắc nhở chúng tôi về vấn đề trên hình vẽ, thì việc gì phải phí công vòng vèo thế? Cứ nói thẳng với chúng tôi không phải nhanh hơn sao?
Nghe tôi hỏi, Tần Nhất Hằng tặc lưỡi nói, bên trong hẳn còn có nguyên nhân, chỉ là chúng ta chưa biết mà thôi. Trên đời có những việc muốn nói mà không thể nói, cũng có những việc muốn nói nhưng không dám nói. Đối phương hao tổn nhiều tâm sức như vậy, dứt khoát là có điều lo ngại. Nhưng bất kể thể nào, hiện tại có thể thấy họ không có ác ý.
Tôi tự nhủ, tuy hắn nói thế, nhưng tôi vẫn cảm thấy hai chúng tôi bị người khác đùa giỡn, không chừng có ai đó đang trốn trong bóng tối, xem chúng tôi diễn kịch ở đây cũng nên. Nghĩ vậy, tôi lại thấy đau đầu, chuyện tới nước này, tôi thực sự không biết những việc chúng tôi làm hiện tại là gì hay vì cái gì. Nghĩ không ra chẳng thà gác lại không nghĩ nữa, tôi bèn chuyển chủ đề, hỏi Tần Nhất Hằng đã rót thứ gì xuống đất.
Hắn cười đáp, đó đều là nước tiểu của trẻ con, có tác dụng trừ tà, đổ xuống để phong bế mặt đất, ép tà vật chui ra từ đỉnh đâu pho tượng. Dứt lời, hắn không nhịn nổi phì cười.
Điệu cười chết giẫm của hắn nhìn thật gợi đòn, lúc chuẩn bị đi hắn còn bắt tôi rửa tay bằng đất thấm nước tiểu nữa chứ. Tôi hỏi Tần Nhất Hằng, hắn lại hùng hồn lý giải rằng tôi đã giữ mai rùa, e rằng cũng vô tình tiếp xúc với tà vật, làm vậy chỉ để bảo đảm an toàn cho tôi thôi. Tuy hắn nói vậy, tôi vẫn có cảm giác mình bị chơi khăm, có điều chuyện đã qua rồi, chẳng còn cách nào truy cứu, tôi đành ngậm ngùi nín nhịn.
Tới đây ít ra cũng đã rõ ngọn nguồn. Bận rộn suốt một đêm, chẳng mấy chốc trời đã sáng, tôi cũng quá mệt mỏi, chẳng thiết về nhà nữa, bèn tợp ngụm bia rồi ngủ luôn ở nhà Tần Nhất Hằng. Tôi ngủ mê mệt không biết trời trăng gì, tới khi tỉnh lại đã là giờ ăn trưa. Trở dậy đi một vòng quanh nhà không thấy Tần Nhất Hằng, giờ này chắc hắn đã ra ngoài mua bữa trưa rồi. Hắn không biết nấu nướng, mà lâu lắm mới có một lần tôi tới chơi nên không thể để tôi đói bụng được.
Tôi mở máy tính, vừa lên mạng vừa đợi Tần Nhất Hằng về. Ai ngờ chớp mắt đã hơn 1 giờ chiều mà vẫn chưa thấy hắn đâu. Bụng bắt đầu biểu tình, tôi bèn gọi điện thoại giục Tần Nhất Hằng thì nghe thấy tiếng chuông reo trong phòng, hắn không mang di động theo. Tôi chẳng còn bụng dạ nào ngồi chờ nữa, vội vã ăn mặc chỉnh tề, rửa mặt mũi rồi ra ngoài tìm một quán ăn chống đói. Mới ra khỏi hành lang, chưa kịp bắt xe, điện thoại của tôi đã reo. Là tin nhắn từ số máy lạ, muốn hẹn gặp tôi bàn chuyện nhà cửa.
Gần đây không có Viên Trận giúp đỡ, tôi đành thông qua quan hệ của bản thân, đăng kí số điện thoại với một trung tâm môi giới quy mô khá lớn trên toàn quốc, thỏa thuận đâu vào đấy, họ sẽ giúp người muốn bán đất liên hệ trực tiếp với tôi, nếu mua bán thành công, chúng tôi sẽ dựa vào giá bán trên hợp đồng để cắt phần trăm môi giới cho bên đó.
Ban đầu, tôi cũng không để ý, cứ ngỡ có mối làm ăn thật, liền gọi điện hỏi vài ba câu. Người nhận điện nghe giọng có vẻ đang độ tuổi trung niên, nói chuyện rất khách sáo, bảo rằng chỉ dăm câu ba điều qua điện thoại khó mà nói rõ được nên muốn gặp tôi để bàn bạc, sau đó cho tôi địa chỉ một quán trà.
Tới nơi, như đã hẹn, tôi lên thẳng phòng đặt trước ở tầng hai. Đẩy cửa vào, bên trong đã có bốn người ngồi, tuổi tác cũng không lớn, khoảng trên dưới ba mươi. Trông thấy tôi, họ đều mỉm cười chào đón, vẻ rất nhiệt tình, khiến tôi hơi ngần ngại. Bàn chuyện mua nhà mà phải kéo bốn người tới đây sao? Lại toàn là nam giới?
Tôi sợ mắc bẫy, không dám tùy tiện bước vào mà quay lại nhìn đằng sau, cả hành lang vắng tanh không một bóng người. Theo kinh nghiệm của tôi, nếu là bẫy thì chỉ cần đợi tôi đóng cửa, đồng bọn của họ sẽ tới chặn cửa và canh chừng bên ngoài. Nếu không nhìn thấy bóng người, tuy đối phương có thể đã mai phục sẵn, nhưng ít nhất chưa đến nỗi hết hi vọng. Cân nhắc một lát, tôi vẫn bước vào.
Thấy tôi ngồi xuống, bốn người đều rất niềm nở, người châm thuốc, kẻ mời trà, liên tục bắt chuyện. Chào hỏi xã giao chừng mười phút, vẫn chưa ai bàn đến chuyện kinh doanh. Tôi định hỏi xem họ muốn bán ngôi nhà thế nào, làm sao biết được số điện thoại của tôi, nhưng vừa mở miệng đã bị họ cướp lời.
Tôi hơi bực, kiểu này chắc chắn không phải tới để bàn chuyện làm ăn. Tôi cũng không định lãng phí thời gian với bọn họ nữa, đứng dậy viện cớ có việc phải đi, chuẩn bị mở cửa chuồn về. Bốn người thấy vậy thì vội vàng níu tôi lại, nhưng vẫn không nói bất kì câu nào liên quan tới chuyện nhà cửa.
Tới nước này, tôi thực sự không thể đợi thêm, rõ ràng họ muốn kéo dài thời gian, không chừng lại đang nung nấu ý đồ xấu. Nghĩ thế, tôi kiên quyết đứng dậy, mở cửa bước ra, nào ngờ đã thấy ngay một người chắn đường.
Quả nhiên bên ngoài có kẻ trông chừng chặn cửa!
Trải qua nhiều chuyện như vậy, ngoài lá gan to, khả năng phản ứng của tôi cũng tiến bộ không ít, trong lòng thật ra đã chuẩn bị liều chết đấu với bọn họ, tiện thể tính xem lát nữa nên chạy thoát theo lối nào. Nhưng khi nhìn kĩ, tôi mới phát hiện người đi tới là một ông lão lưng còng đội mũ đen, dáng vẻ tao nhã, nhìn thấy tôi còn gật đầu cười, làm động tác mời.
Bấy giờ tôi mới hiểu bốn người kia dùng trăm phương nghìn kế giữ tôi lại là để đợi ông lão này xuất hiện. Chắc họ chẳng có quyền bàn chuyện làm ăn, nên mới câu giờ hòng giữ chân tôi. Nhưng dù ông lão đã tới thì tôi cũng chẳng còn hứng thú, sắp xếp như vậy là hơi quá rồi, tôi đâu có nợ tiền ông ta. Tôi lắc đầu, tỏ ý không muốn nói chuyện rồi đi thẳng ra ngoài.
Ông lão không hề níu giữ mà còn tránh đường đê tôi qua. Được vài bước, tôi bất giác dừng lại, chợt thấy chiếc mũ ông ta đội trông rất quen. Tôi quay đầu nhìn mà thót tim. Mẹ kiếp, đây chẳng phải chiếc mũ Lưu thọt tặng Phòng Vạn Kim hay sao? Thế quái nào lại chạy tới chỗ ông lão? Hay ông ta cũng có một chiếc như vậy?
Tôi đứng chôn chân, nhìn chòng chọc vào chiếc mũ trên đầu ông lão. Ông ta cũng không quay đầu lại mà cứ đứng đó, dường như cố ý để tôi quan sát. Tôi nhìn kĩ một lượt mới dám khẳng định nó giống hệt cái mũ Lưu thọt để lại, ít nhất thì kiểu dáng và màu sắc đều như đúc từ một khuôn.
Chẳng lẽ ông lão quen biết Lưu thọt? Trước khi đi, Lưu thọt cũng tặng ông ta một cái mũ? Ông ta có liên quan tới việc gã mất tích không? Ông ta lớn tuổi rồi, có khi lại là lão tiền bối trong ngành huyền thuật cũng nên.
Do dự một lát, tôi vẫn cảm thấy không nên bỏ qua cơ hội này, bèn bước tới gọi ông lão. Ông ta quay đầu nhìn tôi cười, khuôn mặt đầy những nếp nhăn, chòm râu bạc dài rủ dưới cằm. Ông lão chẳng nói năng gì, chỉ làm động tác mời như trước, tôi đành gật đầu bước vào. Bốn người trong phòng thấy tôi quay lại thì hết sức vui mừng, vội vàng lui ra ngoài rồi nhẹ nhàng đóng cửa.
Ông lão trông khá ốm yếu nhưng vẫn rất phong độ, ngồi xuống rồi vẫn chưa vội lên tiếng mà chậm rãi nhấp một ngụm trà. Uống hết chén trà nhó, ông ta mới hỏi, cậu thanh niên, cậu tên gì thế?
Giọng điệu hòa nhã, nhưng lại có cảm giác không hề khách sáo, tôi bèn đáp, tôi là Giang Thước.
Ông lão ngẩng đầu nhìn tôi, nở nụ cười làm mặt đầy nếp nhăn rồi tiếp tục hỏi, Vạn Giang Thước?
Câu hỏi của ông ta khiến tôi ngây ngẩn. Hiện tại, tôi rất nhạy cảm với họ Vạn. Chết thật, không phải ông ta nghĩ tôi có quan hệ gì với từ đường Vạn gia đấy chứ? Lẽ nào ông ta nhận nhầm người, nghĩ rằng tôi là người nhà họ Vạn? Tôi vội vàng phân bua rằng tôi họ Giang, tên chỉ độc một chữ Thước.
Nghe xong, ông lão khẽ gật đầu, lại rót một chén trà, uống cạn mới hỏi tiếp, cậu có biết ngày mai cần mua cái gì không?
Tôi thầm nghĩ, lão già bị bệnh thần kinh hả? Sao giọng điệu có vẻ giống kẻ chơi xổ số nhiều quá hóa điên vậy? Tôi đành lắc đầu, tôi không biết.
Ông lão nhìn tôi đăm chiêu, sau đó lấy một vật nhỏ từ ngực áo ra đặt lên bàn, chỉ vào rồi hỏi, cậu nhìn thấy thứ này bao giờ chưa?
Ngồi cùng nhau chưa đầy ba phút, ông lão đã liên tục hỏi khiến tôi hơi luống cuống. Sao cứ như đang đi phỏng vấn thế không biết? Tôi cảm thấy rất bị động, định hỏi ông lão mấy câu nhưng xem tình hình có hỏi cũng chẳng ích gì, đành đứng dậy, cầm vật nhỏ kia lên quan sát.
Đó là một con dấu vuông đen sì, có vẻ làm từ đất sét, chỉ to bằng nửa bàn tay, nặng trịch, được chế tác rất thô, hiển nhiên không phải đồ cao cấp. Tôi từng thấy dấu làm bằng ngọc, bằng đá, nhưng bằng chất liệu này thì mới thấy lần đầu. Đáy con dấu còn khắc mấy chữ, tôi cố gắng nhận dạng nhưng chẳng đọc nổi chữ nào.
Tôi đặt con dấu xuống, khẽ lắc đầu với ông lão. Ông ta chằm chằm nhìn tôi hồi lâu, chẳng nói năng gì, chỉ liên tục uống trà. Thận ông ta khỏe hơn tôi tưởng đấy, nếu không chắc đã phải ra ngoài đi vệ sinh mấy lượt rồi.
Lại uống hết một chén trà nữa, ông lão mới lên tiếng, trước mắt, con dấu cứ để lại chỗ cậu. Cậu để ý giúp tôi, nếu tìm thấy một cái giống hệt nó, tôi sẽ mua lại với giá cao.
Tới đây, cuộc đối thoại mới đi vào chuyện làm ăn. Hóa ra ông ta lai rai mất nửa ngày cũng chỉ định nhờ tôi tìm giúp con dấu. Nhưng rõ ràng tôi tới đây để bàn chuyện mua nhà cơ mà.
Nghe tôi thắc mắc, ông lão cười quỷ dị, chỉ cần cậu tìm thấy con dấu, sẽ được trả nhiều hơn cả tiền lời bán nhà. Dứt lời, ông ta đứng dậy ra ngoài.
Tôi không thể ngồi im nữa, chưa nói vật ông ta đưa tôi có an toàn không, quan trọng là tôi còn rất nhiều câu hỏi cần giải đáp, liền tức tốc chặn ông ta lại.
Ông lão dừng bước nhìn tôi, bỗng nhiên hỏi, tay cậu có mấy ngón? Giọng điệu vẫn bình thản, nhưng tôi nghe xong lại cứng họng. Câu hỏi quả là nhiều ẩn ý, định uy hiếp tôi hay sao? Bảo nếu tôi còn cản trở thì hãy cẩn thận cái mạng, hay còn có ý gì khác? Trong lúc tôi ngây người, ông lão điềm nhiên chỉnh lại mũ rồi mở cửa. Bốn người nợ vẫn đứng đợi bên ngoài, thấy cửa mở liền nhanh nhảu đón ông ta đi ra.
Nói thật, tôi vô cùng thất vọng về bản thân. Tính ra tôi từng gặp gỡ không ít người, ngờ đâu ứng xử còn non nớt đến thế, ông ta mới nói mấy câu mà đã cuống cả lên. Đã vậy, nếu bỏ lỡ lần này, e chẳng còn cơ hội nào để hỏi nữa, tôi vội đuổi theo gọi, xin dừng bước, rồi bất kể ông lão có dừng lại hay không, tôi hỏi ngay chiếc mũ mua ở đâu, vì tôi thấy không ít người đội nó.
Cách hỏi tuy mập mờ, nhưng chắc chắn ông ta sẽ hiểu ý tôi.
Ông lão dừng bước nhưng không hề quay đầu, ho nhẹ một tiếng rồi nói, cái mũ này chỉ dành cho kẻ đã đặt nửa người xuống đất, người trẻ tuổi vẫn nên ăn mặc hợp mốt thì hơn. Dứt lời, ông ta đi thẳng xuống lầu.
Tôi không đuổi theo, biết rõ có làm vậy cũng chẳng ích gì, không chừng còn bị đánh. Quay lại phòng trà, tôi mở cửa sổ nhìn ra, quan sát ông lão và bốn người kia lần lượt chui vào hai chiếc xe hơi đi khuất, bây giờ mới ngồi xuống nghĩ xem chuyện vừa rồi là thế nào.
Ông lão đi con xe khá sang, chứng tỏ không phải người nghèo. Tại sao ông ta lại tìm tới tôi? Vì cái nghề tôi đang làm tương đối đặc biệt? Con dấu này chỉ có thể tìm thấy trong nhà ma? Những lời ông ta nói hết sức mơ hồ, khiến người ta nghe nửa hiểu nửa không. Tôi có cảm giác ông ta liên quan tới mọi chuyện, hơn nữa câu hỏi về ngón tay có vẻ không chỉ là uy hiếp. Dính dáng gì đến cả Sáu ngón không?
Tôi đúng là còn quá non, vào đời lâu như vậy mà bản lĩnh đối nhân xử thế vẫn chẳng khá lên tẹo nào. Thật ra, cũng có lúc tôi cho rằng mình rất giỏi dùng tâm kế, tính toán tỉ mỉ, thường chiếm ưu thế trong làm ăn. Vậy mà khi gặp ông lão này, chỉ xét riêng phong độ, tôi đã rõ vỏ quýt dày còn có móng tay nhọn.
Tôi ngồi nghĩ ngợi rất lâu, nảy ra vô số câu hỏi, định làm hớp trà cho đỡ khát thì phát hiện ông lão kia đã uống sạch cả ấm, đành đứng dậy chuẩn bị đi về, tìm Tần Nhất Hằng bàn bạc xem sao. Con dấu ông ta để lại vẫn còn nằm trên bàn. Sau khi cân nhắc một lúc, tôi bỏ nó vào túi áo, ít nhất cũng nên để Tần Nhất Hằng xem qua rồi hẵng tính tiếp.
Ra khỏi quán trà, tôi gọi điện cho hắn, nhưng không thấy nhấc máy. Tôi đành về nhà, tắm rửa qua loa rồi lên mạng giết thời gian, cứ cách một tiếng hoặc bốn mươi phút lại gọi điện cho Tần Nhất Hằng. Nào ngờ, tới nửa đêm vân không gọi được. Cuối cùng tôi đành bỏ cuộc, lấy con dấu vuông kia ra soi dưới đèn quan sát, vẫn không thấy có gì đặc biệt.
Kiểu dáng con dấu rất phổ biến, lại không có hoa văn trang trí, đặt trên bàn trông như một khối vuông. Tôi thầm nghĩ, ông lão muốn tôi tìm một cái tương tự, nhưng loại dấu này chẳng có điểm nào đặc biệt, biết tìm kiểu gì đây? Chẳng lẽ mấu chốt nằm ở đường nét sau khi đóng?
Tôi càng nghĩ càng cảm thấy suy đoán của mình rất có cơ sở, toan tìm một tờ giấy đóng thử, tiếc rằng trong nhà có giấy nhưng lại không có mực đóng dấu. Tôi không dám dùng thứ khác thay thế, chỉ sợ không cẩn thận lại làm hỏng, đành đặt nó trên bàn, dọn dẹp một chút rồi chuẩn bị đi ngủ.
Trong đầu lộn xộn bao ý nghĩ, tôi trằn trọc mãi, quá nửa đêm mới thiếp đi. Vừa ngủ được một lát, điện thoại đã reo. Tôi bất đắc dĩ bắt máy, đầu kia vang lên giọng nói quen thuộc của Tần Nhất Hằng, ngay câu đầu tiên đã khiến tôi bừng tỉnh. Anh có biết hôm nay cần mua cái gì không?
Tôi hỏi lại, hôm nay phải mua cái gì?
Hắn ở đầu bên kia thì thầm một hồi, tôi không nghe ra. Tần Nhất Hằng lại tiếp, mau dậy chuẩn bị đi, lát nữa tôi qua nhà đón anh. Nói xong hắn liền cúp máy.
Trời đã sáng, tôi đành dậy đánh răng rửa mặt. Lúc soi gương, tôi thấy mắt mình nổi đầy tơ máu. Trước khi vào nghề, Tần Nhất Hằng từng nói nếu tiếp xúc với những thứ không sạch sẽ trong thời gian dài rất dễ giảm thọ, trông bộ dạng bây giờ, e rằng tôi sẽ chết yểu.
Tôi ngồi đợi một lát thì thấy Tần Nhất Hằng gọi điện bảo xuống nhà. Lên xe chưa để hắn mở miệng, tôi đã kể lại một lượt mọi chuyện ngày hôm qua, nói xong còn vội vàng nhét con dấu vuông vào tay hắn.
Nghe xong, Tần Nhất Hằng tắt máy xe, cầm con dấu vuông lên xem hồi lâu rồi hỏi, ông lão kia không xưng tên sao?
Tôi lắc đầu, đoạn hỏi hắn, con dấu vuông này để làm gì?
Tần Nhất Hằng giơ nó lên trước ánh sáng quan sát, nói, không phải tà vật đâu, dưới đáy con dấu là một kí hiệu đơn giản để trấn hồn trừ tà. Nhưng chính vì đơn giản nên hơi kì lạ. Hắn lật con dấu lại, chỉ kí hiệu nọ rồi bảo, loại kí hiệu này quá phổ biến, không chỉ người của Đạo gia mà rất nhiều thầy pháp chuyên hô thần nhập tượng biết sử dụng, thậm chí không chừng các ông già bà cả từng trải sự đời cũng vẽ được. Đường nét của nó không quá phức tạp, chỉ cần để tâm học thuộc là nhớ, bởi thế mới trở nên cực kì thông dụng. Nhưng chính vì vậy lại không cần khắc thành con dấu. Những kí hiệu này ai cũng viết được, mà còn viết rất đẹp, khắc dấu chỉ tổ thừa thãi.
Tự cổ chí kim, quả thật có một số kí hiệu bùa được khắc thành con dấu, nhưng chỉ đếm trên đầu ngón tay, hơn nữa, cũng phải có công dụng đặc biệt mới cần làm dấu. Nói tới đây, Tần Nhất Hằng cúi đầu trầm tư một lúc mới ngẩng lên bảo, hình như hắn đã đoán được ý nghĩa của con dấu rồi. Đây là do người sử dụng muốn tạo ra một lượng lớn bùa trấn hồn trừ tà trong thời gian cực ngắn, không viết kịp, nên đành nghĩ ra cách này.
Tần Nhất Hằng bĩu môi, tặc lưỡi rồi tiếp, chỉ còn một điều nghĩ mãi không thông là việc gì mà cần nhiều bùa trừ tà đến vậy, lại còn trong một khoảng thời gian ngắn nữa. Quả là hoang đường, bởi loại bùa này mỗi nhà chỉ cần một tấm, dùng nhiều tuy không có hại nhưng cũng chẳng thể tăng hiệu quả.
Nghe Tần Nhất Hằng phân tích, tôi thầm nghĩ, hay con dấu là để sản xuất bùa chú hàng loạt? Ví như có một người trong nghề nhận được mẻ làm ăn lớn, phải dán bùa cho cả khu nhà hoặc cả tòa chung cư? Song ngẫm kĩ lại, ông lão kia đã tìm tới tôi, còn ra vẻ thần bí như vậy, lẽ nào muốn tôi tìm một ngôi nhà có thật nhiều bùa trấn hồn trừ tà? Nhưng gợi ý của ông lão rất mơ hồ. Tôi đem thắc mắc với Tần Nhất Hằng, hắn châm thuốc, nghĩ một hồi rồi khẽ lắc đầu, cảm thán, e rằng tạm thời chưa thể kết luận, theo miêu tả của anh, ông lão chắc chắn có vấn đề, hơn nữa nếu chiếc mũ đó thực sự giống với cái mà Lưu thọt để lại, có lẽ ông ta có dính dáng tới nguyên nhân mất tích của gã. Nội tình quả thật thâm sâu khó dò.
Nghe vậy, tôi cũng chẳng mấy kích động, có thể là vì quá buồn ngủ. Những người thức thâu đêm đều biết, người ngủ một, hai tiếng rồi tỉnh dậy như tôi còn không tỉnh táo bằng kẻ suốt đêm không ngủ. Tôi cũng châm điếu thuốc, rít một hơi dài mới sực nhớ ra, trước đó Tần Nhất Hằng hỏi tôi cần mua thứ gì nghĩa là sao nhỉ? Còn nữa, hôm qua đang yên đang lành, tại sao hắn lại mất tích suốt một ngày?
Nghe tôi hói, hắn bèn ném điếu thuốc đi, khởi động xe rồi hít một hơi thật sâu, nói, hôm qua sau khi tỉnh lại, tôi vô tình phát hiện ra câu đối mà Phòng Vạn Kim đưa không phải do ông ta tự viết! Phòng Vạn Kim nổi tiếng giỏi đoán chữ, trình độ thư pháp dĩ nhiên cũng không tệ, tính lại vô cùng sĩ diện, thích khoe khoang. Từ trước đến nay câu đối của Phòng Vạn Kim đều do chính tay ông ta viết, hòng khoe tài thư pháp, nhất là câu đối tặng bạn bè thân thiết. Tôi lo có điều gì sơ sẩy nên vội vàng đến đó xem sao, nào ngờ tiệm ông ta đã đóng cửa. Hỏi han các cửa hàng xung quanh, họ đều nói ông lão nhắn lại rằng muốn về quê mua sắm, khi nào mua đủ đồ dùng mới quay trở lại.
Tôi e Phòng Vạn Kim gặp phải điều bất trắc nên đã lái xe tới các nhà ga, sân bay và trạm xe khách đường dài để nghe ngóng suốt một ngày, nhưng không có tin tức gì. Tới quá nửa đêm, khi đã bỏ cuộc chuẩn bị về nhà, tôi mới sực nghĩ ra, mấu chốt trong lời nhắn Phòng Vạn Kim để lại chính là mua đủ đồ dùng. Nói tới đây, Tần Nhất Hằng nghiêng đầu chăm chú nhìn tôi, lúc trước đầu óc không có phút nào được nghỉ ngơi nên chuyện quan trọng như vậy tôi cũng quên khuấy mất. Hôm nay chính là ngày Chợ Lồng mở hàng. Dứt lời, không đợi tôi hỏi, Tần Nhất Hằng đã khởi động xe xuất phát.
Hắn lái xe rất nhanh, mà con đường từ nhà tôi đi ra vốn hẹp, khá khó lái. Tôi nhất thời cũng không dám mở miệng hỏi Chợ Lồng là gì, nhìn đồng hồ xăng thấy lượng xăng chỉ còn một nửa, tôi đoán hắn không đi xa nên quyết định không hỏi nữa, đợi tới nơi rồi nói.
Đúng như dự đoán, Tần Nhất Hằng không hề ra khỏi thành phố, chỉ lái xe đi lòng vòng trong mấy ngõ ngách ở nội thành, sau đó chạy thẳng tới khu khai thác ở rìa Tây thành phố.
Trên đường, tôi còn mải suy nghĩ, tôi sống ở đây hơn hai mươi năm, tuy rất hiếm khi tự lái xe, nhưng ít ra cũng đã đi khá nhiều chỗ, tại sao trước giờ chưa từng nghe thấy đường phố nào tên là Chợ Lồng? Tới khi dừng xe, tôi mới phát hiện nơi chúng tôi đến không phải một khu phố mà chỉ là một con ngõ hẹp, ô tô không vào nổi, nằm ngay bên khu khai thác, giữa hai dãy nhà do nông dân tự xây ở ngoại ô.
Xuống xe, Tần Nhất Hằng không giải thích mà đưa thẳng tôi vào trong. Trong ngõ đã có bảy, tám người xúm xít, không rõ đang xem cái gì. Chen vào đám đông, tôi mới nhìn thấy ở giữa đặt một chiếc bàn dài cũ nát, phía trên bày vài cái lồng chim, trong mỗi lồng đều có một hộp gỗ, to nhỏ khác nhau. Đám người đứng bên cạnh chỉ chỉ trỏ trỏ nhưng không ai dám sờ vào.
Tôi bất thần tự hỏi, lẽ nào đây là kiểu giao dịch ở chợ đen trong truyền thuyết? Bên trong là đồ cổ hoặc đồ trộm từ mộ cổ? Tôi đã hiểu vì sao nơi này được gọi là Chợ Lồng. Thông thường, người ta đi mua đồ thường dùng túi nhựa để đựng, còn ở đây lại sử dụng lồng chim ư? Tôi toan hỏi Tần Nhất Hằng nhưng hắn lại ra hiệu đừng lên tiếng, sau đó đưa tôi điếu thuốc xem như bịt miệng. Tôi đành hút thuốc, tiện thể đảo mắt quan sát xung quanh.
Khi tôi hút gần hết điếu thuốc, bỗng có hai người chen vào. Cả hai đều tai to mặt lớn, thân hình mập mạp, chẳng nói năng gì, người béo hơn tiến lên trước rồi lần lượt xách từng cái lồng chim lắc vài lần, điệu bộ gần giống mấy ông lão sáng sớm đem chim đi dạo ngoài công viên. Xong xuôi, gã ta ra khỏi đám đông. Tên còn lại nhìn quanh rồi hắng giọng.
Tôi càng xem càng thấy thú vị, loại bàn dài bày lồng chim này trước đây tôi t