← Quay lại trang sách

Chương 11

Như thế này, - Konrád lên tiếng sau món cá lăng, - đầu tiên anh tưởng, anh sẽ quen. - Ông nói về xứ nhiệt đới. - Tôi còn trẻ, khi đến đó, chắc anh nhớ. Tôi ba mươi hai tuổi. Tôi lập tức sa vào giữa đầm lầy. Ở đấy người ta sống trong các căn nhà mái lợp tôn. Tôi không có tiền. Hãng thuộc địa trang trải cho tôi tất cả. Đêm đêm anh ngủ, như nằm trong một màn sương nóng. Sáng ra màn sương này dày đặc hơn và bỏng giẫy. Rồi anh mệt lả. Ai cũng uống rượu, mắt vằn đỏ. Năm đầu tiên, anh tưởng anh sẽ chết. Đến năm thứ ba anh cảm thấy anh không bao giờ như cũ nữa, như thể nhịp điệu sống của anh thay đổi. Anh sống vội vã hơn, một cái gì đó cháy trong anh, tim anh đập kiểu khác, nhưng cùng lúc anh hoàn toàn lãnh đạm. Anh lãnh đạm hàng tháng trời. Rồi đến một lúc, anh không biết cái gì xảy ra với anh và quanh anh nữa. Đôi khi sau năm năm điều này mới xảy ra, đôi khi ngay trong những tháng đầu tiên. Anh nổi điên. Nhiều kẻ đã giết người lúc ấy, hoặc họ tự giết mình.

- Người Anh cũng thế à? - Vị tướng hỏi.

- Họa hoằn hơn. Nhưng cơn sốt này cũng lây sang họ, cơn điên ấy, thứ bệnh không vi khuẩn. Tôi tin chắc đấy là một thứ bệnh, chỉ người ta không tìm được nguyên nhân của nó. Có thể do nước, có thể do thực vật. Có thể đấy là những tình yêu Mã Lai. Không thể nào quen được với những người đàn bà bản xứ. Trong số họ có những người đẹp tuyệt vời. Nụ cười của họ, một dạng lụa mượt mà ẩn náu trong da thịt họ, trong những cử chỉ, trong nụ cười, trong những tập quán, cách thức họ hầu hạ, trong giường và bên bàn ăn... thế mà vẫn không thể nào quen được. Nhưng người Anh, phải rồi, họ tự bảo vệ. Họ mang theo mình một thứ nước Anglia, theo hành lý xách tay. Họ mang theo sự kiêu ngạo lịch thiệp, tính rụt rè, một nền giáo dục hoàn hảo, những sân gôn và bãi chơi tenis, rồi rượu whisky và những bộ xmôki mà họ diện vào các buổi tối trong những căn nhà lợp mái tôn, giữa đầm lầy. Tất nhiên không phải ai cũng thế. Đấy chỉ là những huyền thoại. Phần lớn họ sau bốn, năm năm đều trở nên sa đọa như những kẻ khác, như những người Bỉ, người Pháp, Hà Lan. Xứ nhiệt đới tước mất những hành vi văn minh của họ, như bệnh hủi lột da con người. Xứ nhiệt đới tước văn hóa Cambrid và Oxford từ con người họ. Anh cần phải biết, ở quê hương họ, tất cả những người Anh đều đáng ngờ, những người ở xứ nhiệt đới lâu. Họ vẫn được kính trọng và công nhận, nhưng vẫn đáng ngờ. Chắc chắn, trong hồ sơ mật ghi dòng chữ "xứ nhiệt đới", như thể ghi "bị giang mai" hoặc "làm gián điệp". Mọi kẻ ở lâu xứ nhiệt đới đều đáng ngờ, vì đã chơi gôn hoặc đánh tenis một cách vô bổ, uống whisky với giới chức Singapore và vô ích ngày nọ qua ngày kia xuất hiện trong bộ xmôkin, hoặc đồng phục, huân chương đeo đầy ngực, trong các buổi tiếp tân của chính phủ: họ vẫn là kẻ đáng ngờ. Vì họ đã ở xứ nhiệt đới. Vì họ đã trải qua những nạn dịch khủng khiếp và không thể thích nghi, mặc dù từ nó, có một cái gì đó quyến rũ, như mọi hoàn cảnh hiểm nghèo của cuộc sống. Đấy là bệnh nhiệt đới. Có thể chữa được các bệnh từ xứ nhiệt đới gây ra, nhưng bệnh nhiệt đới thì chẳng bao giờ.

- Tôi hiểu, - vị tướng nói. - Thế anh cũng mắc phải à?

- Ai mà chẳng mắc. - Người khách nhấp một hụm rượu Chablis, ngả đầu ra sau, thành thạo nhấm nháp. - Người nào chỉ uống, có thể chạy trốn nhẹ nhàng hơn. Những nỗi đam mê tràn ngập cuộc sống ở đấy, như cơn bão sau đầm lầy, giữa núi và rừng. Các kiểu loại đam mê. Bởi vậy đối với người Anh chính quốc, tất cả những ai từ xứ nhiệt đới về đều đáng ngờ. Không thể biết được, có gì trong máu, trong tim, trong hệ thần kinh của anh ta? Chắc chắn không bao giờ anh ta còn là một người Âu bình thường nữa. Hoàn toàn không. Vô ích anh đặt tạp chí Châu Âu, đọc những gì người ta viết, mới nhất hoặc từ những thế kỷ trước, giữa những đầm lầy ấy. Vô ích anh gìn giữ, cẩn thận đến khổ sở những hành vi khác thường, mà những người nhiệt đới thường canh chừng khi ở giữa những người da trắng. Đấy là hành vi giữa đám say rượu: Xử sự quá nghiêm khắc, để người khác đừng nhận biết những đam mê của mình, xử sự thật hoàn hảo, đúng mực và có giáo dục... Nhưng bên trong lại khác.

- Vậy thì, - vị tướng nói và giơ cốc rượu đầy về phía đèn sáng. - Anh hãy nói xem, bên trong có cái gì?

Ông nói tiếp khi thấy người kia im lặng:

- Tôi hình dung, hôm nay anh đến đây, để nói ra.

Họ ngồi bên chiếc bàn dài, trong phòng ăn lớn, mà từ sau cái chết của Krisztina chưa hề có ai ngồi. Căn phòng, nơi hàng chục năm không ai ngồi ăn, giống như phòng bảo tàng, nơi chuyên gìn giữ đồ gỗ và những vật dụng khác, tượng trưng cho một thời kỳ. Những bức tường dát gỗ Pháp cũ của xứ Versailles. Hai người ngồi hai đầu bàn dài, giữa họ trải tấm khăn trắng bằng vải thô, những bông hoa phong lan cắm trong bình phalê. Bốn bức tượng bằng sứ bao quanh bình hoa, là sản phẩm tuyệt tác của nhà máy xứ Sevres, tượng trưng cho bốn hướng Bắc, Nam, Đông và Tây. Trước mặt vị tướng là biểu tượng Phương Tây, trước mặt Konrád là biểu tượng của Phương Đông: một người da đen đang cười nhăn nhở với con lạc đà và cành cọ.

Những chân đựng nến xếp thành hàng trên bàn, với những cây nến to dày, hay thắp trong nhà thờ. Trong bốn góc phòng hắt ra ánh sáng đèn được che khuất. Những ngọn lửa nến bốc cao, căn phòng tranh tối tranh sáng. Trong lò sưởi cẩm thạch xám, lửa củi màu vàng, đen, đỏ nhảy tý tách bập bùng. Những cánh cửa sổ phủ xuống tận đất khép hờ, những tấm rèm lụa màu xám không kéo hết. Đôi khi khí mát lạnh của đêm hè tràn vào phòng qua khe cửa sổ, cảnh vật dưới ánh trăng hiện ra qua bức rèm mỏng và xa xa nhấp nháy những ánh lửa bập bùng của thành phố.

Giữa bàn, chiếu sáng bởi những ngọn nến có hoa văn, quay lưng lại lò sưởi là chiếc ghế phủ vải Gobelin. Đây là chỗ của Krisztina, người vợ thuở nào của vị tướng. Trước chỗ ngồi để trống là bức tượng Phương Nam: một con sư tử, con voi và một người mặt đen mặc áo choàng có mũ, cùng thanh bình bảo vệ một cái gì đó trong khoảng trống bé bằng bàn tay. Người quản gia mặc áo đen, đứng không động đậy sau bàn phục vụ, đưa ánh mắt điều chỉnh hành vi của các gia nhân, những người tối nay mặc quần lửng và áo đuôi tôm đen. Mẹ vị tướng đã đưa tập quán này vào gia đình, lần nào khi họ ăn tại đây - nơi đồ gỗ, bát đĩa, dao dĩa bằng vàng, những bình phalê, cốc chén, gỗ lát tường đều được mang đến từ quê hương người đàn bà xứ lạ - bà đã ra lệnh cho các gia nhân phải mặc đồng phục phục vụ. Căn phòng yên lặng đến mức nghe rõ tiếng nổ lách tách của củi. Họ thì thầm trò chuyện, nhưng vẫn hiểu lời nhau: những bức tường nóng dát gỗ cũ kỹ phản hồi lại từng từ mới nói một nửa, như âm hưởng của dây đàn phát ra từ hộp đàn.

- Không. - Konrád nói, vừa ăn vừa suy nghĩ. - Tôi đến đây vì tôi vừa đến Viên.

Ông ăn nghiến ngấu, bằng những động tác tinh tế, nhưng với nỗi háu ăn của người già. Rồi ông đặt dĩa xuống cạnh đĩa, hơi cúi về phía trước, ông gần như gào lên hướng về phía ông chủ nhà.

- Tôi đến vì muốn nhìn thấy anh lần nữa. Chẳng lẽ điều này lại không tự nhiên?

- Không có gì tự nhiên hơn, - vị tướng trả lời lịch sự. - Tóm lại anh đến Viên. Chẳng nhẽ đấy là một sự kiện lớn đối với người đã đi qua xứ nhiệt đới và những nỗi đam mê, như anh. Lâu lắm rồi anh chưa đến Viên?

Ông hỏi câu này rất lịch sự, trong giọng nói không chút giễu cợt. Khách nghi ngờ nhìn ông từ đầu bàn đằng kia. Họ ngồi gần như chìm nghỉm, hai người già, trong căn phòng rộng, cách xa nhau.

- Lâu rồi, - Konrád trả lời, - cách đây bốn mươi năm. Lúc đó... - ông hơi phân vân, buộc phải im lặng một chút và bối rối, - lúc đó tôi đi ngang qua Viên, trên đường đến Singapore.

- Tôi hiểu, - vị tướng trả lời, - bây giờ anh thấy gì ở Viên?

- Nhiều thay đổi. - Konrád nói. - Ở tuổi tôi và hoàn cảnh của tôi, chỗ nào cũng gặp sự thay đổi. Đúng là, bốn mươi năm nay tôi chưa đi qua Châu Âu. Tôi chỉ dừng ở cảng Pháp vài tiếng đồng hồ, trên đường đi từ Singapore đến Luân Đôn. Nhưng tôi muốn nhìn thấy Viên. Và ngôi nhà này.

- Vì thế anh lên đường? - Vị tướng hỏi tiếp. - Vì anh muốn nhìn thấy Viên và ngôi nhà này? Hay là anh có việc ở Châu Âu?

- Tôi hết việc rồi, - khách trả lời. - Tôi đã bảy ba, như anh. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ chết. Bởi vậy tôi lên đường, bởi vậy tôi đến đây.

- Người ta bảo, - vị tướng nói lịch sự, với giọng khuyến khích, - ở tuổi này con người sống đến chừng nào chán thì thôi. Anh không cảm thấy thế à?

- Tôi đã chán từ lâu, - khách đáp.

Ông đáp bình thản, lãnh đạm.

- Viên, - khách tiếp, - anh biết không, Viên là một tiêu chuẩn trên thế gian, đối với tôi. Khi nói ra từ này - Viên - như khi ta gẩy một cây đàn chuẩn và lắng nghe, từ âm thanh cây đàn ấy có tiếng gì khác, với người mà đúng lúc ấy tôi trò chuyện. Tôi kiểm tra con người như vậy. Người nào không trả lời được, đấy không phải là người của tôi. Vì Viên không chỉ là thành phố mà còn là một âm thanh, hoặc nghe thấy trong tâm hồn con người, mãi mãi, hoặc là không. Đấy là nơi đẹp nhất của đời tôi. Tôi nghèo, nhưng không đơn độc, vì tôi có một người bạn. Viên giống như một người bạn. Tôi luôn nghe thấy âm thanh của nó, ở xứ nhiệt đới, khi trời mưa. Và cả những lúc khác. Mùi ẩm mốc của cổng căn nhà ở Hietzing đôi khi làm tôi sực nhớ đến, ngay cả khi ở trong rừng. Âm nhạc hiện hữu ở Viên và tất cả những gì tôi yêu, trong từng viên đá, trong cái nhìn của con người và hành vi của họ, như thể những cảm hứng đã được rửa tội trong trái tim một con người. Anh biết không, khi cảm xúc không còn đau đớn nữa. Viên mùa đông và Viên mùa xuân. Những con đường dạo mát ở Schonbrunn. Ánh sáng xanh trong các phòng ngủ của trường, bậc cầu thang rộng, màu trắng với những bức tượng Barốc. Những sáng phi ngựa ở Práter. Những con ngựa trắng trong trường Tây Ban Nha. Tôi da diết nhớ và ao ước được nhìn lại một lần nữa, - khách nói nho nhỏ, gần như ngượng ngùng.

- Và anh thấy gì, sau bốn mươi năm? - Vị tướng hỏi lại một lần nữa.

- Một thành phố, - Konrád trả lời và nhún vai, - nhiều thay đổi.

- Tại đây, - vị tướng nói, - ít nhất không có sự vỡ mộng. Ở đây ít thay đổi lắm.

- Trong những năm cuối anh đi nhiều không?

- Ít lắm, - vị tướng nhìn vào ngọn lửa nến. - Tôi chỉ đi khi công việc yêu cầu. Có một thời gian tôi cũng định giải ngũ, như anh đã làm. Đã có những giây phút tôi nghĩ như thế. Và ra đi, khắp nơi trên thế giới, để nhìn ngắm, tìm kiếm, kiếm tìm một cái gì đấy hoặc một ai đấy.

Họ không nhìn nhau: người khách ngây người ngắm cốc phalê đầy rượu vàng óng, vị tướng nhìn ngọn lửa nến. - Nhưng sau đó tôi ở lại. Anh biết đấy, tôi ở lại quân ngũ. Con người sẽ rắn rỏi và bướng bỉnh. Tôi đã hứa với cha, sẽ ở trong quân đội suốt đời. Tôi ở lại vì thế. Nhưng đúng là tôi về hưu hơi sớm. Khi tôi năm mươi tuổi, người ta muốn tôi chỉ huy quân đoàn. Tôi nghĩ mình non nớt, nên từ chối, người ta hiểu và chấp thuận.

- Thực ra, - ông nói tiếp và ra hiệu cho người gia nhân rót thêm vang đỏ, - lúc đó, đến một thời kỳ khiến niềm vui được phục vụ quân đội không bao giờ còn nữa. Cách mạng. Thời kỳ của những sự thay đổi.

- Vâng, - người khách trả lời. - Tôi có nghe thấy điều này.

- Anh chỉ nghe thấy? Chúng tôi đã trải qua. - Ông nói nghiêm nghị.

- Có thể tôi không chỉ nghe thấy, - người kia trả lời, - năm mười bảy, đúng thế. Lúc đó tôi sang xứ nhiệt đới lần thứ hai. Tôi làm trong đầm lầy cùng những culi Trung Quốc và Mã Lai. Culi Trung Quốc là những kẻ giỏi nhất. Tiền kiếm được họ đánh bài tất, nhưng là bọn giỏi nhất. Chúng tôi ở tít sâu trong đầm lầy và trong những khu rừng già. Không điện thoại, chẳng rađiô. Chiến tranh lan tràn trên thế giới. Lúc đó tôi đã mang quốc tịch Anh, người ta hiểu là tôi không thể chiến đấu chống lại tổ quốc mình. Điều đấy họ hiểu. Và vì thế tôi quay lại xứ nhiệt đới. Ở đó chúng tôi chẳng biết gì cả, đám culi biết ít nhất. Nhưng một ngày, trong đầm lầy, không báo chí, rađiô, hàng tuần liền sống cách xa thế giới bên ngoài, bỗng nhiên họ bỏ việc. Vào mười hai giờ trưa. Không vì bất kỳ lý do gì. Không có gì thay đổi quanh họ, các điều kiện lao động, hệ thống kỷ luật, tất cả đều như cũ, cả dịch vụ cung cấp cũng thế. Không xấu cũng chẳng tốt. Ở mức có thể chịu được. Và vào một ngày, năm mười bảy, mười hai giờ trưa, họ bảo họ không làm tiếp nữa. Họ ra khỏi rừng già, bốn nghìn culi, bùn đất đến tận thắt lưng, tấm thân trên để trần, họ đặt dụng cụ xuống, rìu, xẻng và bảo thế là đủ rồi. Họ đòi hỏi mọi yêu sách. Họ yêu cầu các chủ hàng xem lại kỷ luật lao động. Họ muốn cải thiện tiền lương. Họ đình công dài hạn. Thật không hiểu cái gì đã tác động vào họ. Bốn nghìn culi, ngay trước mắt tôi biến thành bốn nghìn con quỷ da vàng và da đen. Buổi chiều tôi phi ngựa đến Singapore. Ở đấy tôi mới biết. Tôi là một trong những người đầu tiên trên bán đảo biết điều này.

- Anh biết điều gì ở bán đảo ấy? - Vị tướng hỏi và ngả người ra phía trước.

- Tôi được biết, cách mạng đã nổ ra ở nước Nga. Một người, mà người ta chỉ biết qua tên gọi là Lênin, đã trở về từ toa xe lửa niêm phong, mang theo hành lý xách tay là chủ nghĩa Bônsêvich. Ở Luân Đôn cùng ngày, người ta biết điều đó, khi những người culi của tôi, không cần điện thoại và rađiô, giữa rừng già, giữa đầm lầy cũng biết điều đó. Không hiểu nổi. Sau đó thì tôi hiểu. Cái gì quan trọng đối với con người, họ khắc biết, không cần điện thoại hoặc bất kỳ phương tiện gì.

- Anh nghĩ thế à? - Vị tướng hỏi.

- Tôi biết, - người kia bình thản trả lời. - Krisztina mất khi nào, - không dừng lại, khách hỏi.

- Làm sao anh biết Krisztina đã chết? - Vị tướng lên tiếng, không ngạc nhiên. - Anh sống ở xứ nhiệt đới, bốn mươi mốt năm không về lại Châu Âu. Hay anh cảm thấy như những người culi cảm thấy cuộc cách mạng?

- Tôi cảm thấy? - Người khách trả lời. - Có thể. Nhưng cô ấy không ngồi đây với chúng ta. Vậy cô ấy có thể ở đâu? Chỉ có thể ở trong mồ.

- Đúng, - vị tướng trả lời. - Krisztina được chôn trong vườn, gần khu nhà kính. Như cô ấy muốn.

- Cô ấy chết lâu chưa?

- Tám năm, sau khi anh ra đi.

- Tám năm sau, - người khách nói, đôi môi nhợt nhạt, hàm răng giả trắng khẽ động đậy như đang cắn lại hoặc nhẩm đếm một điều gì đó. - Hai mươi tám tuổi. - Rồi khách lại nhẩm tính và nói khá to. - Nếu cô ấy còn sống nay đã sáu mươi mốt.

- Vâng, sẽ là một bà già như chúng ta là những ông già.

- Cô ấy bị làm sao?

- Người ta bảo cô ấy chết vì bệnh thiếu máu nặng. Một bệnh tương đối hiếm.

- Cũng không hiếm lắm. - Konrád trả lời một cách am hiểu. - Ở xứ nhiệt đới đấy là bệnh thịnh hành. Những điều kiện sống của con người thay đổi, công thức máu cũng thay đổi cho phù hợp.

- Có thể lắm, - vị tướng trả lời, - có thể ở Châu Âu cũng thịnh hành, nếu những điều kiện sống thay đổi. Tôi không biết nhiều về chuyện này.

- Tôi cũng không biết nhiều hơn. Nhưng ở xứ nhiệt đới, cơ thể luôn luôn có vấn đề. Người ta dần dần trở thành thày lang. Những người Mã Lai đều hành nghề thuốc, đời nọ qua đời kia. Nghĩa là cô ấy chết năm một nghìn chín trăm linh tám, - cuối cùng người khách nói, bình thản như người từ nãy đến giờ chỉ để tâm vào chuyện nhẩm tính. - Lúc đó anh vẫn ở quân ngũ?

- Vâng. - Tôi phục vụ hết thời gian có chiến tranh.

- Như thế nào?

- Chiến tranh? - Vị tướng nhìn khách, cứng cỏi với đôi mắt không nhìn rõ. - Kinh khủng hơn cả xứ nhiệt đới. Đặc biệt là mùa đông cuối cùng, nơi Phương Bắc. Tại đây, tại Châu Âu, cuộc sống cũng đầy phiêu lưu, - vị tướng nói và mỉm cười.

- Phiêu lưu?... Vâng, có thể lắm, - vị khách gật đầu am hiểu. - Anh có thể tin rằng, đôi khi tôi khổ sở với ý nghĩ tôi không có mặt ở nhà khi các anh đánh nhau. Tôi cũng đã nghĩ tôi sẽ quay về và trình diện tại trung đoàn.

- Về điều này, - vị tướng nói bình thản, lịch sự, nhưng rất dứt khoát, - nhiều người cũng nghĩ thế, tại trung đoàn. Nhưng anh đã không về. Có thể anh có việc khác. - Ông nói giọng khích lệ.

- Tôi mang quốc tịch Anh. - Konrád nhắc lại một cách bối rối. - Con người không thể khoảng mười năm lại thay đổi tổ quốc.

- Không thể, - vị tướng tiếp lời một cách thông cảm, - tôi cho rằng, con người tuyệt đối không thay tổ quốc được. Chỉ có thể thay đổi giấy tờ. Anh có cho là như thế không?

- Tổ quốc của tôi đã biến mất, đã bị tan vỡ. Tổ quốc của tôi là Ba Lan và Viên, là căn nhà này và doanh trại trong thành phố, là Galicia và Chopin. Còn gì từ những thứ đó? Cái để ràng buộc những thứ đó lại, một tố chất bí mật đã mất tác dụng. Tất cả đã tan ra từng mảnh, từng phần. Tổ quốc của tôi là một cảm xúc. Người ta đã xúc phạm cảm xúc đó. Khi ấy con người bỏ đi. Đến xứ nhiệt đới hoặc xa hơn thế nữa.

- Xa hơn, là đi đâu? - Vị tướng lạnh lùng hỏi.

- Là đi vào thời gian.

- Loại rượu này, - vị tướng nói và giơ cao cốc rượu sắc đen đỏ óng ánh, - có thể anh còn nhớ năm sản xuất nó. Năm tám sáu, người ta đóng chai, khi chúng ta tuyên thệ. Cha tôi cho chất một phần hầm thứ rượu này, để kỷ niệm. Loại rượu lâu năm, như suốt cuộc đời. Thứ rượu cuộc đời.

- Cái chúng ta tuyên thệ đã không bao giờ tồn tại nữa, - vị khách nói hết sức nghiêm trang và ông cũng nâng cốc. - Tất cả đều đã chết, đã đi mất, đã bán hết những thứ chúng ta từng tuyên thệ. Từng có một thế giới xứng đáng để ta sống và chết vì nó. Thế giới ấy đã chết. Với cái mới tôi không liên quan. Đấy là tất cả, những gì tôi có thể nói.

- Thế giới ấy đối với tôi vẫn sống, kể cả khi trong thực tế nó đã chấm dứt. Nó sống vì tôi đã tuyên thệ với nó. Đấy là tất cả, những gì tôi có thể nói.

- Vâng, anh vẫn là người lính, - vị khách trả lời.

Họ giơ cốc rượu về phía nhau và cùng im lặng uống cạn cốc rượu đỏ.