← Quay lại trang sách

Chương 12

Khi anh bỏ đi, - vị tướng nói thân mật, như thể điều quan trọng nhất, căng thẳng nhất họ đã nói xong, giờ chỉ còn trò chuyện, - chúng tôi vẫn tin rất lâu, là anh sẽ quay lại. Tất cả mọi người ở đây đều đợi. Tất cả mọi người đều là bạn của anh. Anh hơi lập dị, đừng giận. Chúng tôi bỏ qua điều này, vì chúng tôi biết rằng âm nhạc quan trọng hơn, đối với anh. Chúng tôi không hiểu lý do đi xa của anh, nhưng dần dần chúng tôi cho rằng, chắc có nguyên do. Chúng tôi biết anh chịu đựng vất vả hơn chúng tôi - những người lính thực sự. Cái đối với anh là một trạng thái, đối với chúng tôi là nghề nghiệp. Cái đối với anh là thứ để ngụy trang, đối với chúng tôi là số phận. Chúng tôi không ngạc nhiên khi anh vứt bỏ thứ ngụy trang này. Nhưng tin một ngày kia anh sẽ trở về. Hoặc anh sẽ viết. Nhiều người nghĩ như thế, cả tôi và Krisztina và vài người trong trung đoàn.

- Giờ tôi chỉ nhớ lờ mờ thôi, - người khách nói một cách lãnh đạm.

- Vâng, vì anh có nhiều ấn tượng khác. Anh sống với thế giới bên ngoài. Những lúc đó người ta hay quên.

- Không, - vị khách lên tiếng, - thế giới bên ngoài chẳng là cái gì. Cái gì quan trọng ta sẽ không bao giờ quên. Điều này tôi biết hơi muộn, chỉ khi tôi đã già. Nhưng đã không có những vặt vãnh khác, như vứt bỏ một giấc mơ. Tôi không nhớ về trung đoàn. - Vị khách bướng bỉnh trả lời. - Sau một thời gian, tôi chỉ nhớ về những cái quan trọng.

- Ví dụ về Viên và về ngôi nhà này? Anh định nói thế?...

- Viên và ngôi nhà này, - khách nhắc lại một cách máy móc. Mắt lim dim suy ngẫm. - Kỷ niệm đã chắt lọc tuyệt vời tất cả. Những ấn tượng mạnh mẽ, sau mười, hai mươi năm té ra chẳng làm thay đổi chút gì bên trong anh. Rồi một ngày anh chợt nhớ ra một buổi đi săn, hoặc một tình tiết của một quyển sách, hoặc nhớ tới căn phòng này. Khi chúng ta ăn tối lần cuối, ba người. Khi Krisztina vẫn còn sống. Nàng ngồi đây, ở giữa. Lúc đó, cũng bày biện như thế này.

- Vâng, - vị tướng nói, - trước mặt anh là Phương Đông, trước mặt Krisztina là Phương Nam. Và trước mặt tôi là Phương Tây.

- Anh nhớ cả những chi tiết đó? - Vị khách kinh ngạc hỏi.

- Tôi nhớ tất cả.

- Vâng, chi tiết đôi khi rất quan trọng. Nó thống nhất sự vật, dán các mảnh kỷ niệm. Đôi khi tôi cũng suy nghĩ về điều này, ở xứ nhiệt đới, lúc mưa rơi. Loại mưa này, - khách nói, như bắt đầu bàn sang chuyện khác, - rơi hàng tháng trời. Nó gõ nhịp như súng liên thanh lên mái tôn. Đầm lầy bốc hơi, đây là mưa nóng. Tất cả đều ẩm ướt, chăn gối, quần áo lót, sách vở, thuốc lá trong hộp, bánh mỳ. Tất cả dinh dính, nhớt nháp. Anh ngồi trong nhà, những người Mã Lai cất tiếng hát. Người đàn bà anh mang về, ngồi bất động trong góc phòng và nhìn. Họ có thể ngồi bất động như thế hàng giờ và nhìn. Đầu tiên anh không để ý. Sau đó anh bắt đầu bực mình, anh ra lệnh cho cô ta đi ra ngoài. Nhưng điều này chẳng giải quyết được gì: anh biết là cô ta sẽ ngồi chỗ khác, trong một góc phòng nào đấy và nhìn xuyên qua cả tường. Họ có đôi mắt nâu to, như của loài chó Tây Tạng, đấy là những con thú hung bạo câm lặng, dữ dằn nhất. Họ nhìn với ánh mắt lấp lánh, bình thản, cho dù anh đi đâu, anh cũng cảm thấy ánh mắt ấy, như thể một người nào đấy xua đuổi trừ tà bằng tia sáng. Nếu anh quát mắng, họ mỉm cười, nếu anh đánh, họ nhìn và cười, nếu anh đuổi họ đi, họ ngồi ở bậc cửa và nhìn. Lúc đó anh phải gọi họ lại. Họ đẻ con liên tục, nhưng chẳng ai nói về điều này, họ lại càng ít hơn. Như thể một con vật, một kẻ giết người, một bà xơ, một gã phù thủy và một kẻ điên khùng cùng tồn tại trong duy nhất một cá nhân và túc trực bên anh. Sau cùng anh mệt mỏi, bởi cái nhìn ấy mãnh liệt đến mức làm kẻ mạnh nhất cũng phải mệt mỏi. Mãnh liệt như một đụng chạm. Như thể có ai đó cứ vuốt ve anh. Có thể phát điên lên vì điều đó. Rồi anh trở nên lãnh đạm. Mưa vẫn rơi. Anh ngồi trong phòng mình, uống rượu trắng, rất nhiều rượu trắng và hút thuốc lá có vị ngọt. Thỉnh thoảng có một người đến, uống rượu trắng và hút thuốc lá ngọt. Anh muốn đọc, nhưng hình như mưa cũng rơi vào trong trang sách, không theo nghĩa đen, nhưng vẫn hoàn toàn có thực, anh không làm sao hiểu nổi ý nghĩa của chữ cái, anh ngồi nghe mưa rơi. Anh muốn chơi đàn dương cầm, nhưng mưa ngồi cạnh anh và chơi đàn cùng anh. Tiếp đến là mùa khô, là thứ ánh nắng bốc hơi. Con người chẳng mấy chốc già đi.

- Bản "Vũ khúc Pôlônê", - vị tướng hỏi lịch sự, - anh vẫn thỉnh thoảng chơi ở xứ nhiệt đới chứ?

Họ ăn món thịt tái một cách chăm chú và ngon miệng chưa từng thấy, với cách thức mải miết nhai, nuốt của những người già, mà việc ăn uống không chỉ để tiếp nhận dinh dưỡng nữa mà đã trở thành một cử chỉ long trọng và cổ xưa. Như người đang tập hợp sức lực, họ nhai, nuốt hết sức cẩn thận. Cần sức mạnh để hành động và sức mạnh này nằm trong thức ăn, trong thịt đỏ và rượu đen. Họ ăn, hơi nhồm nhoàm một chút, với vẻ hiến dâng sùng kính và buồn bã, như khi con người không đủ thời gian để ăn cho tử tế, điều quan trọng hơn là cần gặm hết các thớ thịt và hút lấy từ thịt sức mạnh mà họ cần đến. Họ ăn với những cử chỉ tao nhã, như những thủ lĩnh của bộ lạc trong ngày lễ: vừa nghiêm trang vừa hết lòng.

Người quản gia trong góc phòng lo âu dõi theo từng cử chỉ của người gia nhân đeo găng tay trắng đang giữ thăng bằng chiếc đĩa lớn trong tay. Giữa đĩa là ngọn lửa đốt món kem sôcôla, với những ánh lửa cồn xanh - vàng.

Các gia nhân rót sâm banh vào trong cốc của chủ và khách. Hai người già nhận ra, vị của chất rượu vàng nhạt, trong cái chai lớn bằng cơ thể một đứa bé, với vị giác tinh tường.

Vị tướng nếm một chút rồi đẩy cốc sâm banh ra. Ông vẫy tay ra hiệu mang rượu vang đỏ đến. Khách hấp háy cặp mắt mờ nhìn cảnh tượng này. Họ ăn và uống đã nhiều, mặt cả hai đều bừng đỏ.

- Thời ông nội tôi, - vị tướng nhìn chai rượu và nói, - trước mặt mỗi người khách đều đặt một pint rượu để bàn. Đấy là suất của một người khách. Một pint bằng một lít rưỡi. Rượu để bàn. Cha tôi kể, trước mặt các vị khách của nhà vua cũng có một bình pha lê đựng rượu vang. Mỗi người khách lại thêm một chai riêng nữa. Đấy là loại rượu để bàn, vì nó đặt trước mặt khách, ai muốn uống bao nhiêu thì uống. Còn những loại rượu chính thống khác sẽ được rót riêng. Đấy là trật tự của các loại rượu của vua.

- Vâng, - Konrád, mặt đỏ bừng, nghiền ngẫm, - lúc đó mọi thứ đều có trật tự của nó, - ông nói một cách lãnh đạm.

- Nhà vua ngồi đây, - vị tướng thản nhiên, ánh mắt chợt lóe sáng khi chỉ chỗ vua ngồi giữa bàn - bên phải là mẹ tôi, bên trái là ông mục sư. Ngài ngồi đây, trong căn phòng này, ở vị trí chính giữa. Và ngài ngủ trên gác, trong căn phòng màu vàng. Sau bữa tối, ngài khiêu vũ với mẹ tôi. - Ông nói khẽ khàng, già nua, giống như một đứa trẻ đang hồi tưởng.

- Anh thấy chưa, không thể nói về những cái khác được nữa rồi. Vì vậy, anh tìm về là một điều rất tốt. - Vị tướng hết sức nghiêm nghị bảo. - Anh đã chơi bản "Vũ khúc Pôlônê" với mẹ tôi. Hồi ở xứ nhiệt đới, anh có chơi nữa không? - Ông hỏi thêm một lần nữa, như thể một điều quan trọng chợt nảy ra trong đầu.

Người khách suy nghĩ.

- Không. - Khách nói. - Tôi không bao giờ chơi Chopin ở đó. Anh biết đấy, bản nhạc ấy động chạm đến nhiều cái trong tôi. Ở xứ nhiệt đới, con người nhạy cảm hơn.

Giờ đây khi đã ăn uống xong, sự căng thẳng và long trọng lúc đầu đã bắt đầu tan ra giữa họ. Máu chảy rần rật hơn trong mạch, làm nổi gân lên trán và thái dương họ. Các gia nhân mang hoa quả trồng trong nhà kính vào. Họ ăn nho và sơn trà. Căn phòng ấm lên, luồng khí đêm hè nhấc tấm rèm lụa ra khỏi cánh cửa sổ xám khép hờ.

Cà phê đen, - vị tướng nói, - ta sang đằng kia uống.

Bất ngờ, một luồng gió ào mạnh làm bật tung cánh cửa sổ. Tấm rèm lụa xám nặng nề bắt đầu bay phần phật, chiếc chao đèn phalê nặng chao đảo như trên tàu lúc giông bão nổi lên. Bầu trời bỗng lóe sáng trong một khoảnh khắc, một ánh chớp vàng chóe rạch ngang màn đêm, như lưỡi đao vàng của đao phủ xả xuống phạm nhân. Cơn giông tràn vào căn phòng, vài ngọn nến run rẩy phụt tắt, tất cả chìm vào bóng tối. Người quản gia vội vã đến bên cửa sổ, cùng hai gia nhân, trong bóng tối, họ hì hục đóng cửa sổ. Lúc này họ mới thấy thành phố cũng đen như mực.

Sét đã đánh trúng sở cung cấp điện trong thành phố. Hai người già ngồi lặng thinh trong bóng tối, chỉ ánh lửa trong lò sưởi và hai ngọn nến mảnh dẻ, cô độc còn sót lại đang chiếu sáng. Người ta mang những chân nến nhiều nhánh mới vào phòng.

- Sang bên kia, - vị tướng nhắc lại, như người không màng tới sấm chớp và màn đêm.

Một gia nhân cầm cây nến nâng cao dẫn đường cho họ. Họ lặng lẽ chuyển động trong ánh sáng mờ ảo, chập chờn và khật khưỡng như những cái bóng trên tường, từ phòng ăn, qua phòng khách lạnh lẽo sang một phòng khác, nơi những tấm phủ đồ gỗ đã được tháo ra, một chiếc dương cầm dài và ba chiếc ghế bành đặt xung quanh lò sưởi sứ bệ vệ đã đốt lên ấm cúng. Họ ngồi xuống, nhìn cảnh vật tối mờ qua cửa sổ rủ những tấm rèm trắng, dài sát đất. Người gia nhân mang cà phê, xì gà và rượu trắng đặt xuống bàn và đặt lên bệ sưởi một chân nến bằng bạc, trên cắm những cây nến to, dài như cánh tay đứa trẻ nhỏ. Hai người già châm xì gà, ngồi im lặng, sưởi ấm. Hơi nóng rực từ lò sưởi tỏa thẳng ra ngoài, ánh sáng của những ngọn nến nhảy nhót trên đầu họ. Người ta đóng các cửa phòng lại. Giờ đây chỉ còn mỗi hai người.