← Quay lại trang sách

Chương 13

Chúng ta sống chẳng còn bao lâu, - vị tướng đi luôn vào câu chuyện, như thể muốn kết thúc một cuộc tranh luận câm lặng, - một, hai năm nữa thôi, có thể ít hơn nữa. Chúng ta sống chẳng còn bao lâu, vì anh đã tìm về. Điều này chắc anh rõ. Anh đủ thời gian suy nghĩ ở xứ nhiệt đới, ở nhà anh, cạnh Luân Đôn. Bốn mươi mốt năm là quãng thời gian dài. Anh đã nghĩ nhiều rồi, đúng không? Anh tìm về, vì không còn cách khác. Tôi đợi chờ anh, vì cũng không còn cách nào khác. Chúng ta đều biết rõ, sẽ gặp nhau một lần, là hết. Hết đời sống, hết những gì từ trước tới nay, mang ý nghĩa và mọi thăng trầm cho đời chúng ta. Bởi trong bí mật lẩn quất giữa tôi và anh, có một sức mạnh đặc biệt. Nó đốt cháy các tế bào của đời sống, như nhưng tia độc hại, nhưng cùng lúc mang đến nỗi thăng trầm và các mức độ tình cảm. Nó bắt ta phải sống... Chừng nào con người còn nhiệm vụ trên trái đất, chừng ấy còn phải sống. Tôi sẽ nói cho anh biết tôi đã kinh nghiệm được gì, một mình, trong rừng, bốn mươi mốt năm, khi anh ở xứ nhiệt đới và ở chỗ khác. Nỗi cô đơn cũng là thứ đặc biệt... đôi khi giống như khu rừng già, đầy rẫy những hiểm nguy và bất ngờ. Tôi biết hết các dạng biến đổi của nó. Sự buồn chán, thứ anh vô ích muốn xua đuổi bằng trật tự sống được xây dựng từ những chăm bẵm của anh. Rồi đến những cơn phá phách bất ngờ. Nỗi cô đơn bí hiểm như rừng già, - vị tướng bướng bỉnh nhắc lại, - con người đang sống, trong một nề nếp, bỗng một ngày trở thành tên mộng du, giống đám Mã Lai của anh. Những căn phòng quanh anh, chức tước, phẩm hàm, một lối sống chính xác đến ngớ ngẩn. Một hôm, con người nổi điên, vũ khí trong tay hoặc tay không... điều đó còn nguy hiểm hơn. Con người nhảy xổ ra thế giới bên ngoài, mắt long sòng sọc: bạn bè, người thân đứng dạt sang một bên. Anh xông vào những thành phố lớn, mua đàn bà, mọi thứ xung quanh anh nổ tung, anh tìm kiếm cuộc tranh đấu và gặp ở khắp nơi. Như tôi nói, đấy chưa phải điều tồi tệ nhất. Có thể người ta sẽ dần cho anh một trận, như đánh những con chó điên. Có thể anh đập đầu vào tường, gặp muôn vàn cản trở của cuộc đời và trở nên tàn phế. Nhưng điều tồi tệ hơn, nếu người ta tự nén lại trong lòng những xúc cảm, mà sự cô độc đã chất chứa trong một linh hồn. Anh ta không chạy đi đâu hết. Không giết ai hết. Anh ta làm gì? Sống, chờ đợi, gìn giữ những nề nếp. Sống như một tu sĩ, như một kẻ đa đạo, theo trật tự tất nhiên của trời đất... nhưng với một tu sĩ, dễ dàng hơn, vì họ có niềm tin. Còn những kẻ như anh ta, người đã trao linh hồn và số phận cho sự cô độc, thì không có niềm tin. Mà chỉ chờ đợi. Chờ đợi một ngày hoặc một giờ, đến khi tất cả những gì đẩy anh ta vào sự cô độc, sẽ mang ra để bàn luận với những người, hoặc với một người đã đẩy anh vào tình thế ấy. Anh chuẩn bị cho khoảnh khắc này, mười năm, hoặc bốn mươi năm ròng rã, hay đúng hơn bốn mươi mốt năm ròng rã, như người thách đấu chờ đợi cuộc đấu kiếm. Tất cả đã được sắp xếp kỹ càng để anh không phải nợ nần ai, nếu trong cuộc đấu, anh ngã gục. Và ngày nào anh ta cũng tập luyện, như một kẻ đi đấu chính thống. Tập luyện bằng gì? Bằng những kỷ niệm, sao cho sự cô độc, lãng quên của thời gian đừng bỏ qua bất kỳ cái gì trong tâm hồn và trái tim anh. Bởi có một cuộc quyết đấu trong đời, không gươm giáo, nhưng xứng đáng để chuẩn bị. Đấy mới là sự nguy hiểm nhất. Nhưng vào một ngày, khoảnh khắc ấy sẽ đến. Anh cũng nghĩ thế chứ? - Ông tướng lịch sự hỏi.

- Đúng như thế, - người khách trả lời và ngắm những tàn thuốc xì gà.

- Tôi vui mừng vì anh cũng nghĩ như thế, - vị tướng nói. - Sự chờ đợi này bắt ta sống. Tất nhiên có thời hạn, như mọi thứ trong đời. Nếu tôi không tin có ngày anh tìm về, có thể tôi đã lên đường, hôm qua hoặc cách đây hai mươi năm, để tìm anh, cạnh Luân Đôn, tại căn nhà của anh hoặc ở xứ nhiệt đới, giữa những người Mã Lai, hoặc tận đáy địa ngục. Bởi vì tôi đã định đi tìm anh, anh cũng biết điều đó. Rõ ràng, con người biết những gì là quan trọng và cần thiết. Anh nói đúng, ngay cả khi không có điện thoại và rađiô. Trong nhà tôi không có điện thoại, chỉ ở dưới kia, trong phòng người quản lý. Tôi không có rađiô, vì tôi cấm những âm thanh nhơ bẩn và ngu ngốc của bên ngoài lọt vào phòng tôi. Thế giới bên ngoài không bao giờ chống lại tôi được nữa. Trật tự của thế giới mới có thể thủ tiêu lối sống mà tôi đã sinh ra và lớn lên trong nó, các thế lực điên cuồng tấn công có thể giết được nó, lấy mất tự do và cuộc sống của tôi. Tất cả những điều này thật ngớ ngẩn. Cái quan trọng, tôi không mặc cả với thế giới, thứ thế giới tôi đã nhận ra và xua đuổi khỏi đời mình. Vậy mà, không cần bất cứ phương tiện gì tôi cũng biết là anh vẫn sống và một ngày sẽ quay về tìm tôi. Tôi không giục giã khoảnh khắc này. Tôi muốn chờ đợi, như con người chờ đợi thứ tự và thời gian của sự việc. Giờ đây khoảnh khắc ấy đã tới.

- Anh định nói gì về điều này? - Konrád hỏi. - Tôi ra đi, tôi có quyền làm thế. Thậm chí có nguyên nhân của nó. Tất nhiên, đúng là tôi ra đi bất ngờ và không từ biệt. Tôi không thể làm khác, đấy là việc của tôi.

- Anh không thể làm khác? - Vị tướng hỏi, đầu ngẩng lên. Ông nhìn xoáy vào người khách, như nhìn một đồ vật. - Vấn đề là ở chỗ đó. Tôi đã suy nghĩ rất lâu về điều này, lâu rồi. Nếu nhẩm tính lại, đã bốn mươi mốt năm.

Và ông nói tiếp, khi người kia im lặng:

- Giờ đây, khi đã già, tôi nhớ nhiều đến thời niên thiếu. Người ta bảo đây là quá trình tự nhiên. Con người nhớ lại cái ban đầu một cách mãnh liệt và chính xác, khi cái kết thúc tới gần. Tôi nhìn thấy các khuôn mặt, nghe thấy những giọng nói. Tôi nhìn thấy giây phút, khi tôi giới thiệu anh với cha tôi trong vườn trường. Cha tôi khi đó nhận anh là bạn, vì anh đã là bạn của tôi. Cha tôi rất khó nhận người nào đó là bạn. Nhưng nếu người nói, có thể yên tâm đến cuối đời. Anh nhớ giây phút đó không?... Chúng ta đứng dưới rặng cây dẻ, trước đường ngầm qua đường, cha tôi bắt tay anh. "Cháu là bạn con trai ta". - Cha tôi bảo. - "Các con hãy tôn trọng tình bạn này". - Cha tôi nghiêm nghị nói thêm. Tôi cho rằng, không gì quan trọng hơn với người là từ này. Anh có chú ý nghe không đấy?... Cảm ơn, vậy tôi nói tiếp. Tôi sẽ cố gắng nói đến đầu đến đũa. Không cần sốt ruột, xe vẫn chờ anh, có thể đưa anh đi vào thành phố bất kỳ lúc nào, nếu anh muốn. Tôi định nói, có thể anh không dễ chịu nếu ngủ lại đây. Nhưng nếu thích, anh có thể ở qua đêm. - Ông nói lãnh đạm, thản nhiên. Và khi người kia ra dấu hiệu từ chối:

- Anh muốn thế nào cũng được. Xe vẫn đợi. Sẽ chở anh quay lại thành phố và anh có thể về nhà vào buổi sáng, về Luân Đôn hoặc đến xứ nhiệt đới, nơi nào anh muốn. Nhưng trước hết, anh nghe cái đã!

- Tôi nghe đây, - người khách trả lời.

- Cảm ơn. - Vị tướng trả lời niềm nở hơn. - Chúng ta có thể nói về cái khác. Hai người bạn già, khi đã sắp hết thời của mình, có thể nhớ ra nhiều thứ. Nhưng giờ, anh đã ở đây, chúng ta sẽ chỉ nói về sự thật. Tôi bắt đầu bằng việc cha tôi nhận anh là bạn. Anh biết nghĩa là gì và anh biết là nếu cha tôi đã giơ tay, trong mọi nguy hiểm, đói rách, trong mọi tình huống và bất hạnh của cuộc đời, đều có thể trông cậy vào người. Thật sự cha tôi rất ít khi giơ tay ra. Nhưng nếu đã, thì sẽ cho tất cả. Cha tôi đã bắt tay anh như vậy, trong sân trường, dưới rặng cây dẻ. Lúc đó chúng ta mười hai tuổi. Đấy là giây phút cuối cùng của tuổi thơ. Đôi khi ban đêm, tôi nhìn thấy giây phút này, cũng như những cái khác, những gì quan trọng trong đời. Với cha tôi, "Tình bạn" đồng nghĩa với Danh dự. Anh thừa biết điều này, vì anh biết tính cha tôi. Và hãy cho tôi bộc lộ, đối với tôi danh từ này còn có ý nghĩa nhiều hơn thế. Tôi xin lỗi, nếu anh khó chịu với điều tôi nói ra. - Vị tướng dịu giọng, như thân tình.

- Không gì khó chịu cả, - Konrád cũng trả lời khẽ khàng như thế. - Anh cứ nói đi.

- Quả thật, giá mà biết được, - vị tướng nói, như tự tranh luận với mình, - có hay không thứ gọi là tình bạn? Giờ tôi không nói đến nỗi vui sướng tạm thời mà hai con người cảm nhận chung nhau, vì họ quen nhau, vì trong một quãng nào đó của cuộc đời, họ suy nghĩ giống nhau, cùng chung một thị hiếu, một cảm xúc. Những thứ này không phải tình bạn. Đôi khi tôi đã tin, đây là quan hệ mãnh liệt nhất trong cuộc đời... Vì thế mà hiếm hoi. Và nền tảng của nó là gì? Mối cảm tình? Một từ rỗng tuếch, mà nội dung của nó không đủ để hai con người, trong những cơn khủng hoảng của cuộc đời, hành động vì nhau, chỉ vì một mối cảm tình? Hay nó là cái gì khác?... Có lẽ tận gốc rễ của mọi quan hệ con người đều có một chút tình yêu Eros trong đó. Tại nơi đây, cô độc trong rừng, khi tôi đã cố gắng hiểu mọi sự việc của cuộc đời, vì việc khác đã hết, đôi khi tôi nghĩ về điều này. Tình bạn tất nhiên khác, với việc những người có xu hướng bệnh tật, đi tìm một thỏa mãn lệch lạc nào đó ở những người cùng giới. Eros trong tình bạn không cần xác thịt... vì xác thịt quấy rầy hơn là khích động. Nhưng nó vẫn là Eros. Trong tất cả tình yêu thương, trong tận cùng của mối quan hệ con người đều có vị thần Eros. Anh biết không, tôi đọc nhiều, - vị tướng phân trần, - ngày nay người ta viết tự do hơn về những điều này. Nhưng tôi đã đọc đi đọc lại Platon, vì khi ở trường, tôi chưa hiểu hết. Tình bạn, tôi nghĩ thế này - anh, người đi khắp thế giới, chắc chắn anh biết nhiều hơn và biết những cái khác về điều này, hơn tôi, trong cái cô độc quê mùa của tôi - đấy là một mối quan hệ con người, không gì thiêng liêng hơn, giữa những kẻ được người mẹ sinh ra. Lạ lùng là ở loài vật lại có quan hệ này. Có tình bạn giữa những con vật, vô tư, sẵn sàng giúp đỡ nhau. Một công tước Nga đã viết...tôi quên tên ông ta: Sư tử và gà rừng, các sinh vật sống, ở mức tiến hóa khác nhau đều cố gắng giúp đồng loại qua cơn hoạn nạn, bản thân tôi đã từng thấy, chúng giúp cả kẻ khác loài nữa. Ở ngoại quốc anh có nhận ra điều này không?... Ở đó chắc tình bạn khác, tiến bộ hơn, hiện đại hơn ở đây, trong thế giới lạc hậu này của chúng ta. Những sinh vật sống tổ chức sự giúp đỡ lẫn nhau... đôi khi chúng gặp phải những trở ngại tương trợ, nhưng luôn có những nhân tố mạnh mẽ hơn, sẵn sàng giúp đỡ trong các cộng đồng sống. Có hàng nghìn ví dụ trong thế giới loài vật. Nhưng rất ít khi gặp giữa những con người. Nói chính xác, tôi chưa gặp. Mối cảm tình, hình thành nhanh chóng giữa những con người, luôn chết chìm trong vũng lầy của thói ích kỷ và sự kiêu ngạo. Tính đồng bọn, sự đàn đúm đôi khi thoạt nhìn tưởng là tình bạn. Quyền lợi chung đôi khi tạo ra những hoàn cảnh, giống như tình bạn. Chạy trốn sự cô đơn, con người sẵn sàng lao vào mọi cảm xúc thân tình, mà sau đó, phần lớn làm người ta hối hận, nhưng trong một khoảng thời gian ngắn, nó khiến người ta tin rằng, sự thân tình này là một dạng của tình bạn. Tất cả đều không phải tình bạn chân chính. Người ta cho rằng - cha tôi cũng nghĩ vậy - tình bạn là một phụng sự. Giống như người đang yêu, người bạn không chờ phần thưởng ban cho cảm xúc của mình. Họ không muốn chống lại phận sự, không phủ nhận sự bấp bênh của nhân vật được chọn làm bạn, họ nhận ra điểm yếu của người kia và sẵn sàng tiếp nhận, với những hệ quả kèm theo. Điều này thật lý tưởng. Nhưng liệu có xứng đáng sống và nên người khi thiếu lý tưởng? Nếu một người bạn thất bại, vì không phải một người bạn chân chính, ta có thể buộc tội họ? Buộc tội những cá tính, sự yếu hèn của họ? Được gì, thứ tình bạn, nơi ta yêu đức khiêm tốn, lòng chung thủy, sự tận tụy ta tìm thấy từ người kia? Tình yêu thương để làm gì, khi chờ đợi phần thưởng? Ta có phải bắt buộc tiếp nhận một người bạn phản bội, như tiếp nhận một người bạn không vụ lợi và chung thủy? Tính không vụ lợi, không chờ đợi và không muốn bất kỳ cái gì từ người khác, là nội dung cơ bản nhất của tất cả các mối quan hệ con người? Có phải càng cho nhiều, càng nhận lại ít? Và nếu ta hiến dâng lòng tin của tuổi trẻ, sự xả thân của đời người đàn ông, tặng người khác nhiều nhất những gì con người có thể tặng cho nhau, với niềm tin mù quáng, vô tư và đầy say mê, rồi sau đó nhận ra rằng, người kia đã phản bội thì, ta có quyền đòi rửa nhục và trả thù không? Bị xúc phạm, gào lên đòi trả thù, còn là bạn hay không, kẻ bị lừa dối và bị bỏ rơi? Anh thấy đấy, tôi đã suy ngẫm những vấn đề lý thuyết như vậy khi còn lại một mình. Sự cô độc tất nhiên không cho câu trả lời. Sách không đưa câu trả lời hoàn thiện. Kể cả những cuốn sách lâu đời, những công trình của các nhà tư tưởng Trung Quốc, Do Thái hay La tinh, hoặc mới hơn, nhưng chỉ là những từ ngữ vang lên, chứ không phải sự thật? Thật ra đã có ai viết về sự thật ở một nơi nào đó hay chưa? Tôi đã nghĩ nhiều về điều này, khi một ngày tôi bắt đầu lục tìm trong tâm hồn mình và trong những cuốn sách. Thời gian cứ trôi đi, cuộc sống nhợt nhạt dần quanh tôi. Sách và kỷ niệm thu thập ngày càng dày đặc hơn. Trong mỗi cuốn sách đều có chút sự thật, mọi kỷ niệm đều trả lời, con người vô ích nhận biết bản chất đích thực của những mối quan hệ con người, họ không hề thông thái hơn, bằng bất kỳ loại kiến thức nào. Ta không có quyền đòi hỏi sự thật trần trụi và lòng chung thủy từ người ta nhận là bạn, kể cả khi các sự kiện chỉ cho ta thấy, người bạn đã phản bội.

- Anh có chắc chắn, - khách hỏi, - người bạn đã phản bội?

Họ lặng thinh hồi lâu. Bé nhỏ hẳn lại trong ánh sáng tối mờ, dưới ngọn nến bập bùng, hai người già đưa mắt nhìn nhau, họ gần như chìm nghỉm trong căn phòng tranh tối tranh sáng.

- Tôi không chắc hoàn toàn, - vị tướng trả lời. - Nên anh mới ở đây. Chúng ta sẽ nói về điều đó.

Ông ngả người ra sau, bằng những cử chỉ bình thản và chăm chú, ông đan hai bàn tay vào nhau:

- Bởi vì có thứ sự thật theo số liệu. Điều này và điều này đã xảy ra. Đã xảy ra như thế này như thế kia. Lúc này hay lúc khác đã xảy ra. Không khó để nhận ra chúng. Các sự việc tự lên tiếng, người ta bảo, vào cuối đời toàn bộ các sự việc lộ diện và gào thét, to tiếng hơn cả phạm nhân trên ghế hành hình. Tại hồi kết, tất cả đều xảy ra, không hiểu nhầm được. Nhưng đôi khi, sự việc chỉ là những hậu quả thảm hại. Con người không bào chữa, bằng việc làm của mình, mà bằng ý đồ, ý đồ để làm điều này hay điều khác. Tất cả đều do ý đồ. Những bộ luật tôn giáo lớn, lâu đời, mà tôi đã nghiên cứu, đều xác định và tuyên bố điều này. Một người có thể phạm tội không chung thủy, đê tiện, thậm chí tồi tệ hơn, giết người, nhưng bên trong vẫn trong sạch. Hành động chưa phải là sự thật. Luôn mới chỉ là hậu quả, con người vào một ngày, muốn phán và xét, không chỉ bằng những chứng cớ hình sự, cần phải biết cái mà luật sư gọi là động cơ nguyên nhân. Sự việc chạy trốn của anh dễ dàng hiểu được. Nhưng nguyên nhân của nó thì không. Bốn mươi mốt năm, tôi đã đặt ra mọi giả thiết để nghiên cứu, tìm nguyên nhân cuộc chạy trốn khó hiểu này. Không giả thuyết nào đưa ra lời giải đáp. Chỉ sự thật đưa ra câu trả lời, - ông nói.

- Anh nói về cuộc chạy trốn? - Konrád lên tiếng. - Từ này hơi mạnh. Tôi không nợ ai bất kỳ cái gì. Tôi từ bỏ cấp bậc của mình như một việc làm cần thiết. Những món thuế bẩn thỉu không tồn sau lưng, không Chạy trốn, từ này quá nặng nề, - khách lẩm bẩm và hơi thu mình lại.

Nhưng trong giọng nói run rẩy của ông, sự phản đối khiến nó trở nên buồn bã, khó nhận ra sự chân thành.

- Có thể, từ này hơi nặng nề thật, - vị tướng nói và gật đầu đồng ý. - Nhưng nếu anh nhìn từ xa, những gì đã xảy ra, anh cần thú nhận với tôi rằng, khó tìm được từ nào nhẹ hơn, êm ái hơn. Anh nói anh không nợ ai. Điều này vừa đúng vừa sai. Anh không nợ ông thợ may, hoặc những kẻ cho vay trong thành phố. Với tôi, anh không nợ tiền bạc hoặc lời hứa. Vậy mà, một ngày tháng bảy - anh thấy không, tôi còn nhớ cả ngày nữa, hôm đó là thứ tư - anh bỏ đi và biết đã để lại sau mình một món nợ. Buổi tối tôi đến căn hộ anh ở, vì tôi nghe nói, anh đã đi. Chỉ chập tối tôi mới biết, trong một hoàn cảnh đặc biệt. Về điều này ta có thể đề cập, nếu anh muốn. Tôi đến căn hộ anh thuê, cậu lính cần vụ của anh mở cửa. Tôi yêu cầu cậu ta hãy để tôi được một mình trong căn phòng anh ở, vào những năm cuối, khi anh đóng quân trong thành phố, gần nhà chúng tôi, - vị tướng im lặng. Ông ngả người ra sau ghế, tay che mắt như muốn nhìn vào quá khứ. Rồi nói tiếp bằng giọng bình thản: - Cậu cần vụ tất nhiên tuân lệnh, vì không thể làm khác. Tôi một mình ở lại trong phòng của anh. Tôi ngắm thật kỹ toàn bộ... Xin lỗi anh vì sự tò mò bất lịch sự. Nhưng tôi không thể tin được hiện thực: một người, sống với tôi cả một quãng dài trong cuộc đời, chính xác là hai mươi hai năm, những năm tháng đẹp nhất của thời thơ ấu, của tuổi trẻ và thời trưởng thành của người đàn ông, lại có thể bỏ trốn. Tôi cố gắng bào chữa, tôi nghĩ chắc anh bị bệnh nặng, hoặc hy vọng anh đã bị điên, hoặc bị săn đuổi, hoặc thua bài, hoặc anh làm một việc ngu ngốc nào đó chống lại trung đoàn, chống lại quân kỳ, lời thề và danh dự của anh. Vâng, anh đừng ngạc nhiên, trong mắt tôi, đó là những tội lỗi nhẹ hơn điều anh làm. Tôi chỉ không thể hiểu: Tại sao anh chống lại tôi?. Thực tôi không hiểu. Không gì bào chữa nổi. Anh biến mất, như một kẻ tham ô, như một tên kẻ trộm đột nhập, vài giờ trước, anh còn ngồi với tôi và Krisztina trong lâu đài, nơi chúng ta đã cùng chia sẻ nhiều ngày và đôi khi nhiều tiếng đồng hồ ban đêm, năm này qua năm khác, tin cậy và thân mật như ruột thịt, như hai anh em sinh đôi, như những sinh vật đặc biệt, mà sự bốc đồng của tự nhiên đã buộc chúng dính với nhau một cách sinh tử. Những kẻ sinh đôi, anh biết đấy, họ sống xa nhau, khi trưởng thành, nhưng biết tất cả về nhau. Một định luật tiến hóa đặc biệt nào đấy ra lệnh cho họ, ốm cùng một lúc, chịu đựng cùng một thứ bệnh, kể cả khi một người sống ở Luân Đôn, còn người kia sống tận miền đất lạ. Họ không viết cho nhau, chẳng trò chuyện, trong điều kiện sống khác nhau, cứ thế sống, tồn tại, hàng nghìn và hàng nghìn cây số chia cắt họ. Thế mà, vào năm ba mươi, bốn mươi tuổi, trong cùng một giờ, họ cùng mắc một thứ bệnh, với cùng một dạng phục hồi và hủy hoại như nhau, ví dụ như viêm túi mật hoặc đau ruột thừa. Một thể trạng chung giữa hai cơ thể, như trong bụng mẹ... họ cùng yêu, cũng như căm thù chung một người. Điều đó, có trong tự nhiên. Không phổ biến... nhưng chẳng hiếm hoi. Đôi khi tôi nghĩ, tình bạn có những ràng buộc tương tự, như sự gắn bó số phận của trẻ sinh đôi. Cá tính, mối cảm tình, thị hiếu, trình độ, cảm xúc hòa hợp, kết hợp hai con người vào cùng một số phận. Vô ích một người làm gì đó chống lại người kia, số phận họ vẫn là số phận chung. Vô ích người nọ trốn người kia, họ vẫn biết những gì cần biết về nhau. Vô ích người này chọn tình nhân hoặc bạn mới, không có sự đồng thuận bí mật và vô hình của người kia, cũng không thể tách khỏi số phận chung. Số phận của những con người này song song tồn tại, vô ích người này tách thật xa người kia, thật xa, ví dụ đến miền nhiệt đới. Tôi nghĩ vậy, giữa phòng anh, ngày anh chạy trốn. Tôi nhìn rõ giây phút ấy, thấy ánh sáng trong phòng, giờ đây tôi vẫn ngửi thấy mùi thuốc lá Anh khét nặng, vẫn nhìn thấy đồ đạc, chiếc giường với tấm thảm Phương Đông, bức tranh ngựa treo trên tường. Tôi nhớ cả một chiếc ghế bành bằng da booc đô trong phòng hút thuốc. Chiếc giường khá to, rõ ràng anh đặt làm, vì ở vùng chúng tôi không bán. Không phải giường đơn mà là giường đôi kiểu Pháp, dành cho hai người.

Vị tướng nhìn khói thuốc.

- Cửa sổ nhìn ra vườn, nếu tôi nhớ không nhầm?... Đấy là lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng tôi đến chỗ anh. Anh chưa bao giờ muốn tôi đến thăm. Anh đã thản nhiên bảo, anh thuê nhà ở ngoại ô, trong một khu vắng vẻ, một ngôi nhà có vườn. Trước ngày bỏ trốn ba năm, anh thuê ngôi nhà ấy. - Xin lỗi, tôi thấy anh không thích nghe từ này.

- Anh cứ nói tiếp, - khách lên tiếng. - Từ ngữ chẳng nói lên điều gì. Hãy nói tiếp, nếu anh đã bắt đầu.

- Anh tin vậy? - Vị tướng hỏi với giọng hiền hòa và chỉ dẫn. - Từ ngữ chẳng nói lên điều gì? Tôi không dám quả quyết. Đôi khi tôi có cảm giác, rất nhiều, thậm chí tất cả đều phụ thuộc vào từ ngữ, khi người ta nói ra đúng chỗ, hoặc im lặng, hoặc viết ra đúng chỗ... Đúng, tôi tin. - Ông nói quả quyết. - Anh không bao giờ mời, còn tôi không đến thăm mà không được mời. Thật lòng, tôi tưởng anh xấu hổ trước một người giàu có về căn nhà của anh, về đồ đạc anh mua... Có thể vì anh mua những đồ đạc tầm thường quá chăng... Anh là một người rất kiêu ngạo. - Vị tướng dõng dạc: - Thứ duy nhất chia rẽ tuổi trẻ của chúng ta là tiền. Anh là một kẻ kiêu ngạo, anh không bao giờ tha thứ cho cho tôi vì tôi giàu. Sau này, khi cuộc đời trôi đi, tôi từng nghĩ rằng có lẽ sự giàu có không thể tha thứ. Gia tài mà anh thường xuyên nhìn thấy, quá lớn... Tôi sinh ra từ trong nó, vậy mà đôi khi tôi cũng nghĩ rằng, quá nhiều. Anh luôn cầu kỳ giữ kẽ cho tôi hiểu, sự khác biệt của chúng ta về chuyện tiền nong. Những kẻ nghèo, nhất là những kẻ nghèo khó quý phái luôn như vậy. - Vị tướng nói, với vẻ đắc thắng đặc biệt. - Tôi cho rằng anh giấu nơi ở, xấu hổ về đồ đạc tầm thường. Giả thiết này thật ngu xuẩn, nhưng sự kiêu ngạo của anh không giới hạn. Thế là một ngày tôi đứng trong căn nhà anh, ngạc nhiên đến mức không tin ở mắt mình. Căn nhà đó, anh biết không, là một công trình tuyệt tác. Nhà không rộng lắm, tầng đất có một phòng lớn, hai phòng nhỏ trên gác, nhưng khu vườn, các phòng, đồ đạc, chỉ một bàn tay nghệ sỹ mới sắp xếp được như thế. Lúc đó tôi hiểu, anh đúng là một nghệ sỹ. Tôi chợt hiểu tại sao anh lại xa lạ đến thế, khi ở giữa chúng tôi, những kẻ kiểu khác. Còn những người vì tình yêu thương và lòng háo danh đã phạm tội đến mức nào với anh, khi đẩy anh vào quân đội. Không, anh không thể là người lính - tôi cảm nhận sâu sắc nỗi cô đơn khi anh sống giữa chúng tôi. Ngôi nhà này chính là căn hầm ẩn náu của anh, như thời Trung cổ, những lâu đài trong thành hoặc các tu viện để dành cho những kẻ cô đơn. Và như một tên cướp với những đồ cướp bóc được, anh tha tới đây đủ thứ đẹp và sang trọng: các tấm thảm, rèm cửa, đồ đồng, đồ bạc lâu đời, đồ phalê và đồ gỗ, những tấm vải quý... Tôi biết, trong những năm đó mẹ anh đã qua đời, anh được thừa hưởng từ cả họ hàng Ba Lan. Một lần anh nói, ở nơi nào đấy gần biên giới Nga có một dinh cơ và một trang trại và dinh cơ này sẽ là của anh. Vậy thì dinh cơ và trang trại ấy, đã biến thành đồ đạc và ba căn phòng. Một chiếc dương cầm lớn nằm cuối phòng khách, phủ vải gấm và một bình phalê cắm ba nhánh phong lan. Ở khu vực này người ta chỉ trồng hoa phong lan trong nhà kính của tôi. Tôi đi tất cả các phòng, nhìn kỹ tất cả. Tôi chợt hiểu, anh sống ở giữa chúng tôi, nhưng anh không thuộc về chúng tôi. Tôi chợt hiểu, anh bí mật xây dựng công trình tuyệt hảo này bằng tất cả sức lực, một cách bướng bỉnh, giấu kín trước người đời căn nhà đặc biệt này, mà anh dựng nên cho bản thân anh và con người nghệ sỹ trong anh. Bởi anh là một nghệ sỹ, anh có thể sáng tạo ra một cái gì đấy, - vị tướng nói, như người không chịu nổi sự mâu thuẫn, - tôi hiểu tất cả, trong căn nhà bị bỏ rơi, giữa những đồ đạc còn lại. Trong khoảnh khắc đó Krisztina bước vào.

Vị tướng khoanh hai tay trước ngực, nói lạnh lùng, đều đều, như đang tường thuật sự kiện một vụ tai nạn trong đồn cảnh sát.

- Tôi đứng trước cây đàn dương cầm, ngắm những bông phong lan, - ông nói tiếp. - Căn nhà như bộ quần áo cải trang của một con người. Hay quân phục chính là quần áo cải trang của anh? Điều này chỉ anh trả lời được, giờ đây, khi tất cả đã qua đi, anh đã trả lời bằng cuộc đời anh. Con người rốt cuộc trả lời những câu hỏi quan trọng nhất chính bằng cuộc đời của mình. Không quan trọng, giữa chừng anh nói gì, bằng những từ ngữ gì và tự bảo vệ bằng những lý thuyết gì? Ở đoạn kết, ở tận cùng sự việc, anh sẽ trả lời bằng những sự kiện của đời anh, cho câu hỏi mà thế gian đã khăng khăng đặt ra cho anh. Những câu hỏi ấy là: Anh là ai?... Thực ra anh muốn gì?... Anh biết cái gì?... Anh trung thành và phản bội cái gì?.. Anh dũng cảm và hèn nhát trước cái gì?... Đấy là những câu hỏi. Con người trả lời như họ hiểu, chân thành hoặc giả dối, nhưng điều này không quan trọng lắm. Quan trọng là ở phần kết anh đã trả lời bằng cả cuộc đời. Anh vứt bỏ quân phục, vì cảm thấy đấy chỉ là đồ cải trang, điều đấy đã được kiểm chứng. Còn tôi mặc đến cùng, chừng nào quân đội và thế gian còn yêu cầu tôi, vậy là tôi cũng đã trả lời. Đấy là một câu hỏi. Câu hỏi thứ hai: Anh là gì đối với tôi? Anh là bạn của tôi? Rốt cuộc, anh đã bỏ trốn. Anh bỏ đi không từ biệt, không hoàn toàn là không từ biệt, vì một ngày trước đó, trong cuộc đi săn, đã xảy ra một việc, mà mãi sau này tôi mới hiểu, đấy là lời từ biệt. Con người ta ít khi biết, lời nói hay hành động nào sẽ chỉ ra sự thay đổi không cưỡng được số phận trong những quan hệ con người. Tại sao tôi đến nhà anh trong ngày hôm đó? Anh không mời, không tạm biệt, không nhắn. Tôi tìm gì trong căn nhà của anh, nơi không bao giờ anh mời đến, đúng vào ngày anh vĩnh viễn bỏ đi? Thông điệp nào khẩn cấp khiến tôi lập tức lên xe, lao vào thành phố, để tìm anh trong căn nhà trống rỗng?... Tôi biết gì hôm trước, trong buổi đi săn? Có điều gì lộ tẩy chăng?... Tôi không nhận được tin mật, một dấu hiệu, một lời cảnh báo là anh đang chuẩn bị chạy trốn?... Không, tất cả mọi người đều im lặng, kể cả Nini - anh còn nhớ người nhũ mẫu già không? Bà biết tất cả về chúng ta. Bà còn sống hay không? Vâng, bà còn sống, theo cách của bà. Bà sống như cái cây trước cửa sổ cụ tôi đã trồng. Thời gian của bà vẫn còn, như của mọi sinh vật khác, khoảng thời gian cần phải sống cho hết. Bà biết. Nhưng không nói. Tôi hoàn toàn cô đơn trong những ngày đó. Vậy mà tôi vẫn biết, giây phút này, khi tất cả đã chín muồi, tất cả sẽ sáng tỏ, mọi vật và mọi người, sẽ trở lại đúng vị trí của nó, tôi, anh và những người khác. Đúng vậy, trong buổi đi săn, tôi đã biết, - ông nói, giọng hồi tưởng, như thể tự trả lời một câu hỏi đã day dứt nhiều. Rồi ông im lặng.

- Anh biết gì trong buổi đi săn? - Konrád hỏi.

- Một buổi đi săn tốt đẹp, - vị tướng tiếp, giọng bỗng nồng nhiệt, như người nhớ lại từng chi tiết của một kỷ niệm êm đềm, - đấy là một buổi đi săn lớn cuối cùng trong khu rừng này. Thuở đấy họ còn sống cả, những người thợ săn thực thụ... Có thể bây giờ họ vẫn còn sống. Còn tôi khi đó đi săn lần cuối cùng trong khu rừng của mình. Từ đó đến nay chỉ có những người lính bắn súng trường tới đây, những người khách mà đại điền trang tiếp đón, họ đến và bắn hàng tràng trong rừng. Cuộc đi săn thực thụ khác hẳn. Anh không hiểu điều này đâu, vì anh chưa bao giờ là thợ săn. Đối với anh, săn bắn là nghĩa vụ, một nghĩa vụ quý phái và trách nhiệm nghề nghiệp, như cưỡi ngựa hoặc tham dự cuộc sống bạn bè. Anh đi săn, nhưng như một người hòa đồng vào một hình thức xã hội. Anh đi săn với vẻ mặt kinh bỉ. Còn vũ khí được anh cắp nách như một cây gậy dạo mát. Anh không hiểu nỗi đam mê đặc biệt này, một trong những niềm say mê bí ẩn nhất của đời người đàn ông, được giấu kín trong hệ thần kinh đàn ông, sau các vai trò, thời trang, tri thức, sâu kín như thể lửa thiêu giấu trong đất. Niềm say mê này là khát vọng được giết. Chúng ta là con người, mệnh lệnh của đời ta là hãy giết. Không thể làm khác được... Con người giết, để bảo vệ một cái gì đó, giết, để thu thập một cái gì đó, giết, để trả thù một cái gì đó. Anh cười?... Anh cười một cách khinh bỉ?... Anh là một nghệ sỹ, những bản năng thấp hèn, thô thiển này đã được gọt rũa tinh tế trong tâm hồn anh?... Anh nghĩ là anh chưa bao giờ giết?... Chưa chắc, - vị tướng nghiêm khắc và rành mạch. - Tối nay vô nghĩa nói về cái khác, chỉ nên nói về sự thật và bản chất, bởi sau tối hôm nay sẽ không còn cái tiếp diễn, sẽ không có những đêm và ngày... Tôi muốn nói, trong mọi trường hợp, sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Một lần rất lâu rồi, tôi đi về Phương Đông, đấy là chuyến du ngoạn tuần trăng mật cùng Krisztina. Chúng tôi đi với những người Ả Rập và là khách của một gia đình Ả Rập ở Bagda. Đấy là những nhà quý tộc giàu có nhất, điều này, anh, một kẻ lữ hành thường xuyên, chắc anh biết rõ. Sự kiêu ngạo của họ, sự kiêu hãnh đầy tính nhân văn của cách xử sự, những say mê và sự bình thản của họ, kỷ luật về thể xác và sự tự chủ của hành vi, những tiêu khiển của họ và ánh mắt họ, tất cả đều toát lên một vẻ quý phái lâu đời và một cái gì khác nữa, khi con người lần đầu tiên bừng tỉnh dậy trong cơn hỗn mang của tạo hóa, để đạt tới đẳng cấp con người cao hơn. Theo một lý thuyết, thế giới con người bắt đầu từ những người Ả Rập, vào thuở bình minh của thời gian, trước tất cả các dân tộc, bộ lạc, các nền văn hóa, thẳm sâu là thế giới của người Ả Rập. Có thể vì thế họ kiêu hãnh xiết bao. Tôi không biết, tôi không hiểu rõ lắm... Nhưng về sự kiêu hãnh thì tôi biết ít nhiều, khi họ lập tức hiểu ý nhau mà không cần dấu hiệu hình dáng bên ngoài, họ nhận ra nhau cùng một dòng máu và đẳng cấp, tôi thấy rõ điều này trong những tuần sống tại Phương Đông. Họ đều là những người quý phái, kể cả những người chăn lạc đà bẩn thỉu đi nữa. Chúng tôi sống với những người bản xứ, trong một ngôi nhà như lâu đài. Chúng tôi là khách của một gia đình theo lời giới thiệu của ông đại sứ. Đấy là những ngôi nhà trắng, râm mát... Chắc anh biết? Sân nhà rộng, lúc nào cũng náo nhiệt bởi cuộc sống của gia đình và họ tộc, một tuần có một lần chợ phiên tại đấy, cũng như cái sân vừa là nhà quốc hội vừa là sân nhà thờ cùng lúc... Trong mọi cử động của họ có một cái gì đấy bất định và đầy khát vọng tham lam được vui chơi. Đấy là sự vô công rồi nghề quý phái và mạnh mẽ, chất chứa sau nó là cả những chuỗi say mê, là tình yêu cuộc sống, như thể một con rắn ngoằn ngoèo dưới nắng mặt trời, giữa những tảng đá im lìm. Một buổi tối họ mời khách, để tỏ lòng kính trọng với chúng tôi, những người khách Ả Rập. Trước đó họ tiếp đón chúng tôi theo kiểu Châu Âu, chủ nhà là một quan tòa, đồng thời là một kẻ buôn lậu, một trong những kẻ giàu nhất thành phố. Trong các phòng khách phủ toàn đồ gỗ Anh, bồn tắm bằng bạc nhiều màu sắc. Tối hôm đó chúng tôi đã chứng kiến một việc. Khách khứa kéo đến khi hoàng hôn xuống, tất cả đều là đàn ông, các ông chủ và đầy tớ. Lửa nhóm bập bùng trong sân, khói cay xè mắt. Tất cả mọi người ngồi quanh đống lửa im lặng. Krisztina là phụ nữ duy nhất. Người ta mang tới một chú cừu trắng, chủ nhà lấy ra một con dao và bằng một động tác không thể quên nổi, đâm chết con cừu... Động tác ấy không thể học được, một động tác Á Đông, khi sự giết chóc còn ý nghĩa tượng trưng tôn giáo, vừa đồng nghĩa với bản chất, với nạn nhân. Ábrahám Isăk đã nâng dao lên như thế, khi muốn dâng tế, trong nhà thờ cổ kính để giết những con vật bị tế trước bàn thờ, trước lễ vật, trước hình ảnh tượng trưng của thánh thần và cũng bằng động tác này đã chặt đầu thánh Keresztelő Szent János... Đây là một động tác rất lâu đời. Ở Phương Đông, nó lẩn quất trong bàn tay mỗi con người. Có thể bằng cử động này, con người bắt đầu, khi tách ra khỏi sinh vật bậc trung, kẻ tồn tại, giữa con vật và người... Theo nhân chủng học, con người được bắt đầu bằng khả năng gập được ngón cái của mình vào nắm tay, nghĩa là nắm được vũ khí và công cụ. Nhưng cũng có thể bắt đầu bằng linh hồn, chứ không phải bằng ngón cái, có thể lắm, tôi không biết... Vị quý tộc Ả Rập đâm chết con cừu, người đàn ông đứng tuổi trong khoảnh khắc ấy, trong chiếc áo dài trắng không vấy bẩn một giọt máu, trông thật sự như một giáo chủ Đông Phương dâng đồ tế lễ. Mắt ngài long lanh, trẻ ra trong giây lát, xung quanh ngài là không khí câm lặng như chết. Mọi người ngồi quanh đống lửa, nhìn hành vi giết, nhìn lưỡi dao sáng loáng, tấm thân cừu giẫy đành đạch, máu phụt ra thành dòng và mắt mọi người đều rực sáng long lanh. Lúc đó tôi bỗng hiểu, những con người này vẫn quá gần với bản chất của sự giết chóc, máu là chất liệu quen thuộc với họ, lưỡi dao vung lên sáng loáng là cử động tự nhiên, như nụ cười của phụ nữ hay như một cơn mưa. Chúng tôi đều hiểu ra - tôi nghĩ là Krisztina cũng hiểu, vì nàng im lặng một cách đặc biệt, nàng đỏ bừng mặt, rồi lại tái đi, thở một cách khó nhọc, rồi quay đầu đi, như thể nàng là một nhân chứng vô tình của một cảnh tượng đầy xúc cảm và đam mê đặc biệt nào đó. - Chúng tôi đều hiểu ra, ở Phương Đông người ta vẫn cho rằng giết có ý nghĩa biểu tượng và thiêng liêng, họ hiểu được ý nghĩa của nó. Vì mọi người đều mỉm cười, những khuôn mặt da màu sẫm, quý phái, miệng họ chúm lại, ngây ra nhìn nhau với nụ cười trên môi, như thể sự giết chóc là một công việc đầy nhiệt huyết, như một cái hôn. Kỳ lạ, trong ngôn ngữ tiếng Hung hai từ: giết và ôm, âm thanh vang lên giống nhau, chỉ khác một chữ cái ở giữa. Tất nhiên chúng ta là người Phương Tây, - vị tướng nói bằng một giọng khác, như muốn thảo luận, - là người Phương Tây hoặc ít nhất di cư tới đây và trụ lại. Với chúng ta, giết là vấn đề pháp luật và đạo đức, hoặc y học, nhưng kiểu gì cũng là một hiện tượng được ghi lại chính xác từng ly trong hệ thống pháp luật và đạo đức, được cho phép, hay bị cấm đoán. Chúng ta cũng giết, nhưng phức tạp hơn, chúng ta giết, như luật pháp quy định và cho phép. Chúng ta giết để bảo vệ những lý tưởng cao cả và những của cải danh dự của con người, chúng ta giết để bảo vệ trật tự chung sống giữa con nguời. Không thể làm cách khác. Chúng ta là những người Thiên Chúa giáo, có mặc cảm tội lỗi, là sản phẩm của nền giáo dục Phương Tây. Lịch sử của chúng ta đầy rẫy, cho đến tận ngày hôm nay, những ví dụ về việc giết người hàng loạt, nhưng chúng ta cụp mắt xuống và nói về chuyện giết chóc với giọng mộ đạo và khiển trách. Không thể làm khác được, đấy là vai diễn của chúng ta. Chỉ có săn bắn. - Ông nói như người sắp vui. - Khi đi săn ta duy trì những nội quy cao thượng và thực tế, tha những con thú như vùng này đã quy định. Thực ra săn bắn là một mảnh lễ nghi méo mó còn lại của hành động tín ngưỡng rất lâu đời một thời của con người. Bởi vì săn bắn không giết vì chiến lợi phẩm. Người ta không bao giờ giết chỉ vì chiến lợi phẩm, kể cả thời tiền cổ, cho dù đấy là hình thức của khả năng tìm kiếm thức ăn cho con người. Săn bắn luôn luôn là nghi lễ, nghi lễ của bộ lạc và của tôn giáo. Người thợ săn giỏi luôn luôn là thủ lĩnh của bộ lạc, có thể là mục sư luôn. Tất cả những điều này bị mai một theo thời gian. Nhưng các nghi thức vẫn còn lại trong những hình thái nhợt nhạt. Có lẽ trong đời, tôi không yêu thích gì hơn những buổi sớm mai, những bình minh đi săn. Con người trở dậy khi vẫn còn đêm, mặc bộ quần áo khác ngày thường, họ mặc lên người bộ quần áo tiện lợi đã được chọn kỹ. Họ ăn sáng cũng kiểu khác, uống rượu trắng để cổ vũ trái tim mạnh mẽ hơn, trong gian phòng được chiếu sáng bằng đèn cây, cùng những tảng thịt nguội. Tôi mê thích mùi của bộ quần áo săn, chất vải dạ phảng phất mùi rừng, mùi lá khô, không khí và mùi máu bắn ra, vì người ta nhét những con chim bắn được vào thắt lưng, máu của chúng thấm vào lần vải. Máu bẩn?... Tôi không tin. Đấy là chất liệu quý phái nhất trên thế gian, khi con người muốn bày tỏ với Thượng đế điều gì to lớn, không diễn đạt nổi, trong mọi thời đại, người ta đều dâng hiến máu. Và mùi kim loại thấm dầu mỡ của khẩu súng. Và mùi tanh, ẩm ướt của những đồ dùng bằng da. Tôi mê thích tất cả những thứ đó, - vị tướng nói, hơi ngượng ngùng như đang hé lộ một điểm yếu của mình, - anh bước từ nhà ra sân, bạn săn chờ đợi sẵn sàng, mặt trời vẫn chưa mọc, lũ chó bị bịt mõm trong rọ, những sự kiện này lặng lẽ diễn ra trong màn đêm. Anh ngồi vào xe và xuất phát. Cảnh vật từ từ tỉnh giấc, khu rừng trải dài ra trước mắt, như thể đang dụi mắt, bằng những cử động ngái ngủ. Tất cả tinh khiết một mùi vị trong sáng, như thể anh trở về một tổ quốc khác, nơi anh lần đầu bắt đầu cuộc sống và công việc của mình. Xe dừng lại bìa rừng, anh nhảy xuống, lũ chó và các bạn săn theo sau. Đôi giày săn cao cổ chạm vào đất mềm ẩm ướt không phát ra một tiếng động. Trên con đường mòn xuyên qua rừng đầy vết chân thú. Tất cả bỗng trở nên sống động xung quanh anh: ánh nắng chiếu sáng vòm khu rừng, như thể một hệ thống cánh gà bí mật trên sân khấu trần gian bắt đầu hoạt động. Chim thi nhau hót véo von, một con hươu vụt ngang con đường rừng, cách xa anh chừng ba trăm bước chân, anh nấp trong bụi rậm và nghe ngóng. Hôm nay anh mang chó theo và không định đi săn hươu... Con vật dừng lại, nó không nhìn thấy gì, không ngửi thấy mùi gì, vì ngược chiều gió, nhưng nó vẫn cảm thấy, cái kết thúc đang đến gần. Nó ngẩng cao đầu, quay cái cổ mềm mại sang một bên, toàn thân căng ra, nó dừng lại vài ba giây gần anh trong tư thế như trời trồng, không động đậy, như con người sửng sốt trước sự tận thế, tuyệt vọng, bởi vì họ biết tận thế không ngẫu nhiên và cũng không phải tai nạn, mà là một trong những hậu quả tất yếu của tổng thể những điều không lường trước, không tính toán trước. Giờ đây anh ân hận đã không mang theo súng nạp đạn. Anh cũng sửng sốt, trong bụi rậm, anh cũng như bị chôn chân trong giây phút ấy, anh, một người đi săn. Anh cảm thấy sự run rẩy của đôi tay, cái run rẩy cùng tuổi với con người, cảm thấy việc sẵn sàng để giết, một niềm khao khát bị cấm đoán, thứ mạnh hơn mọi nỗi đam mê và niềm hưng phấn không tốt cũng chẳng xấu, là sự rạo rực bí ẩn nhất của con người: trở nên mạnh hơn kẻ khác, giỏi hơn, thành thạo hơn và không phạm lỗi lầm. Con báo cảm thấy nỗi hưng phấn này, khi chuẩn bị vọt xa, con rắn khi trườn mình giữa những mỏm đá, con đại bàng khi sà xuống từ hàng nghìn mét cao vời vợi và con người khi đưa nạn nhân của mình vào tầm ngắm. Đúng, anh đã cảm thấy niềm hưng phấn ấy, có lẽ lần đầu tiên trong đời anh, ở nơi ẩn náu, trong rừng, khi anh nâng súng lên và ngắm đích vào tôi, để giết.

Vị tướng cúi xuống chiếc bàn nhỏ, đặt giữa hai người, trước lò sưởi, ông rót một cốc rượu vang ngọt và lấy đầu lưỡi nhấm chút chất nước sánh màu hồng. rồi bình thản đặt cốc xuống bàn.