Chương IV
Và rồi suốt một tháng trời ròng rã, tôi nằm liệt trên giường bệnh. Người tôi róc đi một cách kinh khủng. Cổ tay tròn lẳn của tôi bây giờ chỉ còn khẳng khiu như hai ống sậy, với nước da xanh rờn. Tóc tôi rụng gần hết. Mỗi lần vuốt một sợi thấy nó rời ra một cách dễ dàng lòng tôi lại xót xa vô hạn. Tôi lo lắng cho sắc đẹp của tôi tàn tạ theo năm tháng nặng nề trôi qua. Mỗi ngày Chủ nhật, nhìn nắng chói lọi hắt qua khung cửa, bầu trời trong xanh lững lờ những đám mây trắng bạc, lòng tôi dâng lên những háo hức khiến tôi muốn vùng đứng dậy, mặc chiếc áo dài và đội noun đi theo lũ trẻ. Nhưng tôi yếu quá, không cất nổi mình. Người tôi dán xuống giường sắt. Lắng nghe lũ trẻ lao xao xếp thành hàng ngũ, tiếng chân bước lạo xạo trên đá sỏi, lúc ấy tôi muốn khóc to lên cho hả lòng uất hận. Tôi nghĩ đến người yêu, đến chiếc ghế đá mà chàng ngồi đọc sách mỗi ngày. Những hình ảnh ấy đối với tôi bây giờ hình như xa xôi lắm. Làm sao cho chàng biết được rằng tôi đang ốm nằm đây và tôi vẫn nghĩ đến chàng. Quang cảnh căn phòng lúc ấy lặng lẽ quá. Lũ trẻ đi rồi, tiếng nói, tiếng hò hét, tiếng guốc đi lại lách cách đã tắt hẳn. Quanh tôi im lìm quá. Bốn bức tường như cao hơn, căn phòng như rộng hơn, và tôi thấy cô độc một cách lạ lùng. Tình yêu của tôi đối với chàng lại càng nung nấu một cách dữ dội. Tôi cầu mong cho chóng khỏi để lại được sống những ngày khỏe mạnh. Điều ấy làm tôi lại nhớ đến Hòa ngày trước. Chắc Hòa khi còn sống cũng mong mỏi như tôi, nghĩa là sống cuộc đời mồ côi mà không bệnh tật.
Cả một buổi sáng tôi xoay mình trên chiếc giường không biết bao nhiêu lần. Cuốn Quatre-vingt-treize của Victor-Hugo nhầu nát, tôi cầm lên đặt xuống mãi mà không đọc hết. Những tình tiết éo le trong khung cảnh cách mạng ấy không đủ lấp những chỗ trống trong lòng tôi. Lúc ấy, tôi thấy cần phải viết. Tôi viết lung tung, nét chữ run run, nguệch ngoạc Tôi thổ lộ tâm tình trên trang giấy. Tôi say sưa nói chuyện với chàng trên giòng chữ, nhưng không lâu, vì nằm sấp mãi khiến ngực tôi như bị ép lại. Tôi lại phải nằm lên thở dốc. Cho đến khi hết mệt, tư tưởng của tôi đã khác. Đọc lại những hàng chữ ấy, tôi thấy trơ trẽn lạ. Thất vọng lại đến xâm chiếm hồn tôi, và lại xé đi không thương tiếc.
Bệnh tình của tôi cứ cái đà quay quắt như vậy nên khó có bề thuyên giảm. Người tôi mỗi ngày một tóp đi, tóc rụng thêm nhiều, hy vọng được gặp mặt chàng lại lụi dần theo ngày tháng.
Suốt trong thời gian ấy bé Phượng chẳng lúc nào không quấn quít lấy tôi. Ngoài những giờ ăn, học và cầu kinh ra, nó kê chiếc ghế đẩu ngồi bên tôi hàng giờ. Có lúc nó lặng lẽ trầm mặc. Hai chị em ngồi bên nhau mà mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Cũng có lúc nó huyên thuyên kể chuyện. Chuyện ở lớp học, ở phòng ăn, ở phòng nữ công. Chuyện bà Tâm bắt được Hằng trẩy trộm nhãn ở vườn sau, chuyện con Liên xé áo của con Cúc bị hai ngày phạt, chuyện con Hiền đánh vỡ bát ở phòng ăn. Những câu chuyện chẳng vui gì nhưng cũng đủ giết những thì giờ dài dằng dặc của tôi.
Và có một hôm Phượng kể cho tôi nghe câu chuyện của em bé Lucie.
Lucie là tên do bà phước Nhân đặt cho một đứa hài nhi bên salle số 4. Mẹ nó là một thiếu nữ nhà quê xinh đẹp. Nàng bị một người đội Tây bắt gặp trong một buổi hành quân. Cuộc ái ân tàn bạo trong giây phút ấy đã tạo nên trong người con bé hai giòng máu. Mắt nó xanh lơ lơ, tóc hung hung đỏ, chân tay bụ bẫm. Thừa hưởng nước da tươi mát của người mẹ, da nó trắng như trứng gà bóc. Hôm mẹ nó gửi vào Cô nhi viện, bà Nhân thích lắm và đặt tên cho nó là Lucie. Theo lời Phượng, Lucie ngoan lắm, nó không hay khóc, nhưng cũng không hay cười. Hàng ngày nó vô tội nằm ngoan ngoãn trong một chiếc nôi, đến giờ, đói thì ăn, rồi lại nằm quay ra ngủ. Khi tỉnh giấc, mắt nó lơ láo nhìn lên trần nhà, tay chân đập lung tung và miệng đã bập bẹ “ma…ma…”. Phượng yêu Lucie lắm, nó thì thọt chạy sang bên ấy luôn. Nó xin chị Giang để cho nó cầm bình sữa cho Lucie bú. Nó thêu chữ Lucie bên cạnh con vịt chèo thuyền trên yếm dãi của Lucie. Nó còn kết những cái gù len xanh đỏ hay con búp bê bằng vải sặc sỡ treo ở trên đầu nôi của Lucie. Ngày trước con búp bê cụt tay của nó đã đem chôn theo con người phu hồ, bây giờ nó lại có một con búp bê bằng xương bằng thịt ngoan ngoãn không kém mà còn biết gọi cả “ma ma” nữa thì làm sao không thích.
Phượng tha thiết kể chuyện Lucie làm tôi cũng yêu lây con bé ấy nữa. Tôi mong cho chóng khỏi để được thấy mặt Lucie và được bế nó.
Một buổi tối, Phượng kể rằng sáng hôm ấy bà ngoại Lucie vào thăm Lucie lúc chín giờ. Bà ta là một cụ già lọm khọm đã pha hai mầu tóc. Quần áo lam lũ, chân đi đất, đầu chít khăn, mắt che một mảnh vải đỏ. Một tay bà ta chống chiếc gậy tre, còn tay kia cầm hai hộp sữa. Bà ta bảo với bà Nhân rằng bà đã lặn lội từ làng Lim cách Hà Nội hơn ba chục cây số để lên thăm cháu, nhân thể cho cháu hai hộp sữa bò. Rồi với giọng đầy nước mắt bà cụ báo tin rằng con bà, mẹ Lucie đã chết. Người thiếu phụ đau khổ ấy cũng chẳng nhìn thấy mặt đứa con một lần cuối.Bàn tay gầy guộc của bà cứ xoa mãi lên mặt của Lucie. Rồi bà cụ bật ra tiếng khóc:
– Cháu ơi…
Nước mắt bà ngoại nó cứ rỏ mãi lên má, lên cổ và lên trán Lucie. Nhưng Lucie chẳng biết gì, cặp mắt xanh lơ vô tội vẫn mở to nhìn lên đình màn. Chân tay Lucie vẫn đập lung tung và cái miệng xinh xinh của nó thỉnh thoảng lại bập bẹ:
– Ma…ma…
Tôi bồi hồi cảm động, tưởng tượng lại khung cảnh đau thương ấy. Tôi hình dung đến mẹ Lucie trên giường bệnh, đến hình ảnh bà cụ già nghèo nàn, tóc pha sương lặn lội từ hơn ba mươi cây số để được nhìn thấy mặt cháu một lần. Và rồi có lẽ trong một nếp nhà lụp xụp ở một nơi xa xôi nào đó, từ nay sẽ chỉ có một bóng già lọm khọm, thiếu tình thương của một người con, và thiếu tình yêu của một đứa cháu.
Nghĩ như vậy, tôi muốn ứa nước mắt. Còn Phượng của tôi thì đã khóc từ lúc nào.
Cả tối hôm đó tôi quên hẳn câu chuyện tâm tình của tôi, và tôi giúp bé Phượng may cho Lucie một chiếc khăn tang trắng…