Chương V
Trận ốm của tôi kéo dài đúng năm tuần lễ. Năm tuần gò bó trong chiếc giường chật hẹp, tôi có cảm tưởng như dài hàng năm. Bây giờ tôi đã khỏi hẳn, đã được bà Madeleine cho ăn giả bữa. Sau một tháng trời chỉ ăn toàn sữa và nước cháo, tôi thấy thèm cơm một cách lạ lùng. Người tôi gầy sọm đi, mặt hốc hác, đôi mắt sâu như hai lỗ đáo, nước da xanh rờn một cách ghê sợ. Nhưng chỉ trong vòng nửa tháng, tôi đã lại sức rất nhiều. Tôi hân hoan nhìn ra ngoài, nền trời xanh, trong văn vắt. Nắng chớm thu giải dịu dàng lên từng chòm cây đang bắt đầu xơ xác lá. Bồn hoa sân trước phong quang và sáng sủa hơn trước nhiều. Chiếc tường trắng chạy dài không còn gợi cho tôi ý nghĩ hằn học nữa. Chiếc cổng sắt cao vòi vọi ngăn hẳn thế giới bên kia, đón tôi với một vẻ vui mừng. Tôi không còn thấy ghét chúng nữa, tất cả đối với tôi chỉ còn là những vật thân yêu sau một thời gian dài xa vắng. Tôi tung tăng chạy lên, chạy xuống, tôi lên gặp Giang, gặp các bà Phước và bé Lucie của Phượng. Tất cả công việc gì đối với tôi cũng vui, cũng lạ, ít khi tôi gây được những cảm giác chân thành vô tư lự như vậy.
Và tôi đếm từng ngày cho mau chóng đến Chủ nhật. Tôi vui tươi sửa soạn cuộc đi chơi từ hôm trước. Tâm tình tôi xao động một cách nhẹ nhàng. Tôi có cảm tưởng như mình sửa soạn đi đón người yêu sau một thời gian xa cách. Lòng tôi hồi hộp, bâng khuâng và xao xuyến như một đứa trẻ thơ…
Thưa các bạn, tôi còn nhớ mãi cái cảm giác của tôi trong thời gian ấy. Nghĩa là kể từ ngày Chủ nhật đầu tiên sau khi ốm khỏi cho đến ngọn gió mùa đông ngoài kia lạnh lùng lùa qua khe cửa.
Tôi đã không gặp chàng và mãi mãi không bao giờ tôi còn gặp chàng nữa.
Đất trời như đổ sụp xuống quanh tôi. Tôi thấy hoa mắt, người lảo đảo phải vịn vào bé Phượng. Người xưa của tôi không còn đây nữa. Chiếc ghế đá vẫn nằm kia lặng lẽ. Nếp cỏ cao hơn trước, mang một vẻ lạnh lùng. Niềm hy vọng của tôi bùng lên một thời gian ngắn ngủi lại tắt ngấm trong tâm tư. Tôi không còn cười được nữa. Mắt tôi ngơ ngác, mặt tôi nhợt nhạt như kẻ mất hồn. Bà Tâm tưởng tôi còn yếu nên cho lên xe đi về trước.
Suốt ngày hôm ấy tôi không ăn được gì, chỉ có nước mắt là ràn rụa qua hai bên má. Tuy vậy tôi còn cố nuôi cái hy vọng mỏng manh là được gặp chàng trong tuần tới. Nhưng tuần sau, tuần sau nữa, bóng dáng chàng thanh niên ấy vẫn bằn bặt để gieo vào lòng tôi biết bao nhiêu tủi hận.
Cho đến nay thì hy vọng của tôi hoàn toàn như chết hẳn. Bởi vì rặng sấu vườn sau đã rụng hết lá, ngọn gió heo may đầu tiên đã mang lạnh lẽo vào phòng tôi. Bầu trời vẩn đục hơi sương nặng nề và u ám quá. Bọn chúng tôi không còn được đi vườn hoa nữa, và cũng đã có người giở áo len ra mặc. Tôi đoán chắc những chòm cây ở ngoài ấy cũng đã trơ những cành khẳng khiu lên nền mây xám, và nơi ấy giờ đây cũng vắng cả bóng người. Hoa Phượng vĩ đỏ chói ngày nào chắc đã héo úa. Tôi thầm ví cánh Phượng như mối tình của tôi. Đỏ lên, say sưa, gay gắt trong một thời gian ngắn ngủi rồi cũng tàn theo nắng hạ.
Tôi không còn đầu óc ngồi xem truyện nữa. Tôi cũng không muốn ngồi thủ thỉ với bé Phượng, hoặc bế Lucie. Người tôi ngao ngán, mất hết cả nguồn vui đến độ ngơ ngác. Đầu óc tôi hoang mang, trống rỗng, mặt tôi thẫn thờ, cả ngày tôi chẳng hé răng nói chuyện với ai một câu. Bởi vì tôi đã thất vọng, đã mất hẳn nguồn an ủi độc nhất, đời tôi thế là hết cả.
Hàng ngày, tôi chỉ chăm chú cầu kinh. Tôi muốn đi tìm sự giải thoát cho linh hồn. Ý định xin làm bà phước bắt đầu nay nở trong đầu óc tôi từ giây phút đau khổ cùng cực ấy.
Một buổi tối trời mưa dầm rả rích. Từng giọt nước mưa rỏ trên ống máng ngoài hiên nghe tí tách. Gió lồng lộng thổi quay cuồng trên từng lùm cây ngoài đường phố, heo hút lùa qua cửa phòng chúng tôi cái rét của buổi lập đông. Đèn trong mọi phòng đã thắp, vẫn cái ánh sáng vàng vọt ngả lên những nếp tường in bóng lố nhố của lũ trẻ. Tiếng học bài quen thuộc lại vang lên như vỡ chợ.
Tôi lặng lẽ bỏ cái khung cảnh náo nhiệt ấy mà xuống giảng đường. Căn phòng yên lặng một cách lạnh lẽo. Ngọn đèn bốn mươi nến ở chân cây Thánh Giá hắt xuống soi sáng mờ mờ những hàng ghế nằm im lìm chạy dọc xuống cuối phòng. Bức tượng Chúa Giê Su đặt trên cao hơn, thấp thoáng trong ánh sáng mờ nhạt. Tôi trèo lên bục và quì xuống chỗ bà Nhân vẫn đứng. Mắt tôi ngước lên nhìn cây Thánh Giá với tất cả niềm tin. Rồi tự nhiên nước mắt tôi ràn rụa. Tôi gục đầu xuống một chiếc ghế và cứ thế khóc lên rưng rức. Đau khổ phũ phàng vò xé tâm tư tôi từ hơn một tháng nay bây giờ càng làm tôi tràn trề xúc cảm. Hình ảnh những buổi đi chơi, những cái nhìn tha thiết của người tôi yêu, cái chết của Hòa, của đứa con người phu hồ, sự ra đi của Liễu, tất cả hiện ra trong óc tôi như ảo ảnh, và rồi lại tan đi như sương khói.
Tôi cứ quỳ như thế không biết bao lâu và không hiểu tôi đã khóc hết bao nhiêu nước mắt. Mặt và tay tôi ướt đẫm, chiếc khăn tay của tôi cũng đầy nước mắt. Rồi một thời gian lâu lắm, tôi yên lặng, thẫn thờ, và quỳ như thế để mà có lúc tôi không nghĩ rằng tôi đã quì ở đấy, đã sống trong Cô nhi viện này. Ánh sánh lạnh lùng của ngọn đèn vẫn lặng lẽ soi vào mặt tôi, tôi ngước nhìn lên ngọn đèn ấy và nghĩ rằng đời tôi cũng tăm tối như thế.
Cho đến khi tôi trấn tĩnh được lòng mình đã phân biệt được tôi với những nỗi khổ đang vò xé, tôi mới thấy lòng vơi đi được mối sầu. Tôi lại gần cây Thánh Giá, nắm lấy miếng gỗ vô tri ấy như nắm lấy niềm tin. Lòng tôi như thanh thoát. Tôi phải tìm cho tôi ý nghĩa của sự sống. Sự sống lãng quên mình mà nghĩ đến kẻ khác Tôi tưởng tượng tôi sẽ là bà Nhân, bà Hòa, bà Tâm, bà Hạnh, một ngày kia tôi sẽ hủy bỏ tuổi thanh xuân của mình để mà khoác những tà áo trắng giống như các bà ấy và chôn vùi cả tuổi thanh xuân vào chốn này. Nghĩ như vậy tôi thấy tin mình hơn, tôi thấy đã tìm được bản ngã của tôi sau một thời gian lạc lõng. Miệng tôi lâm râm cầu kinh, những lời kinh mà bây giờ tôi mới thấy lắng sâu vào tận tâm hồn:
– “Lạy Thánh Nữ đồng trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bào chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy tôi lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình dưới chân Đức Mẹ, là nữ Đồng Trinh, trên hết các kẻ Đồng Trinh, xin Đức Mẹ đoái lấy tôi là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là mẹ Chúa Cứu Thế, xin chớ bỏ qua lời tôi, xin rủ lòng thương mà nhận lời tôi cùng – A – men”.
Gần chín giờ tôi đứng dậy tìm xuống phòng bà Nhân. Bà đón tôi với tất cả kinh ngạc. Bà nhìn cặp mắt đượm lệ của tôi, rồi dịu dàng kéo tôi ngồi xuống ghế. Tôi ngoan ngoãn theo bà như một đứa con nghe theo lời mẹ. Rồi tôi kể hết cho bà nghe câu chuyện tâm tình mà tôi giữ kín gần một năm nay. Bà Nhân lặng lẽ nghe và chỉ nhìn tôi thương xót.
Sau cùng bà an ủi tôi rất nhiều, bà khuyên tôi đừng vội chán nản cuộc sống, bà có thể tìm cho tôi được một người chồng xứng đáng bên nhà Chung. Nhưng tôi còn thiết gì chuyện chồng con. Lòng tôi thế là đã chết, bây giờ tôi chỉ còn tìm thấy ánh sáng trên đường dẫn đến Đạo. Tôi khóc lên rưng rức để van xin bà dẫn tôi trên đường tìm đạo.
Và rồi tôi cầu kinh với bà tới khuya. Hôm ấy bên tôi có hai sự vững chãi che chở và cứu giúp đời tôi. Đó là bà Nhân và sự vững tin ở nơi Chúa.