CHƯƠNG III
Chiếc Cúp DD70 lướt êm trên đường làng rồi rẽ ngoặt vào chiếc ngõ gạch có dãy hàng rào ô rô được xén tỉa cẩn thận. Chủ chiếc xe là một thanh niên trạc ba nhăm tuổi có bộ ria mép đen ánh, đôi mắt ẩn sau cặp kính Nhật sẫm màu, vận chiếc áo bay màu rêu nhạt và chiếc quần bò lơvít mỏ đỏ đầy những túi và khuy đồng sáng loáng.
Thấy bóng chiếc xe máy, mấy cậu thanh niên choai đang đứng túm tụm nhau trước chiếc cổng gạch, hăng hái phán đoán về kết quả số đề tối nay, vội bấm chí nhau:
- Ông Phát hồi này chất cực. Tuần trước còn diện chiếc Supe Cúp xanh, giờ đã lại thay chiếc Cup DD rồi.
- Chuyện. Dân xế, ngồi bên tay lái là có quyền hái ra tiền. Bà Năm vợ ông ấy hồi này cũng phất ghê lắm. Cả vụ nóng vừa rồi cửa hàng bà ấy lúc nào cũng đông nghịt những khách sộp túi phồng căng loại tiền năm trăm đỏ chói.
- Nói đến cửa hàng mậu dịch của bà ấy làm đ. gì. Toàn những lợi dụng nhà nươc để chém người tiêu dùng. Mua được cốc bia ba mươi đồng thì phải xì ra trăm bạc để lấy mấy chiếc bánh phồng tôm...
Dù bàn tán tranh luận thế nào thì rồi cuối cùng đám thanh niên làng cũng cứ phải thừa nhận rằng Phát đang là một mẫu người lí tưởng mà khối người mơ ước. Nếu như trước đấy, vào thời chống Mĩ, có một dạo Phát đã từng là niềm tự hào của làng Hạ, bởi cái danh hiệu "Dũng sĩ đường 559", thì bây giờ anh lại là một mẫu người hùng khác của làng Hạ - người hùng trong cung cách làm kinh tế, cả ở tốc độ phát đạt, cả ở lối làm giàu và cách hưởng thụ.
Công bằng mà nói, làng Hạ là một làng vốn có truyền thống văn vật. Cái làng nhỏ hơn năm nghìn dân này đã có một thời khá dài từng tự hào được đóng góp vào danh sách những người kiệt hiệt khắc chìm trong bia đá ở Văn Miếu hai vị tiến sĩ thời Lê trung hưng và thời Mạc. Thời chống Pháp, rồi thời chống Mĩ, làng Hạ cũng có hai người làm đến chức đại tá. Ông đại tá Trần Bưu, người có khả năng lên tướng, bị hi sinh ở cửa ngõ Xuân Lộc năm 1975. Ông đại tá Lê Cao Đoàn nghỉ hưu năm tám nhăm, hiện đang tham gia trong tổ trồng thuốc nam của xã. Về đường văn chương, cử nghiệp, so với hai ông tiến sĩ thời Lê-Mạc, người làng Hạ bây giờ cũng không phải xoàng. Kĩ sư, bác sĩ, giáo viên cấp ba, kể có tới con số trăm. Nhưng đáng chú ý là hai ông phó tiến sĩ và một nhà văn. Hai ông phó tiến sĩ, tên tuổi cũng không có gì ghê gớm lắm, nhưng kể ra cũng là người có danh của làng Hạ. Các ông ấy đều nghèo, chuyến đi nước ngoài tu nghiệp cách đây đã hơn chục năm, nên gia tài bây giờ chỉ còn vài quyển sách, vì thế, từ lâu rồi các ông ấy không còn là thần tượng của thanh niên làng Hạ nữa. Đáng nói một chút có ông nhà văn, nguyên là một giáo viên tình nguyện lên xây dựng kinh tế văn hoá miền núi từ năm sáu hai. Kể cũng lạ, người làng Hạ chẳng ai nghĩ rằng ông Lê Văn Trí lại có thể là một nhà văn. Bởi từ ngày ông chuyển công tác từ miền núi về một nhà xuất bản ở Hà Nội, vẫn thấy hàng ngày ông đi chiếc xe đạp cà khổ về làng. Vợ ông làm ruộng. Mấy đứa con học hành cũng chẳng có gì xuất sắc. Căn nhà ba gian xây bằng gạch xỉ tự đóng lấy so với mọi nhà trong làng cũng chẳng khác nào so sánh cái bếp với mấy gian nhà trên. Nhà văn Lê Văn Trí hình như đã viết từ cái hồi ông lên dạy học ở miền núi. Nhưng cả làng Hạ không ai để ý, vì ông lấy một cái bút danh thật lạ: Lữ Hành. Cho đến cuốn tiểu thuyết mới nhất của ông gần đây được đài truyền hình Trung ương dựng, chiếu trên ti vi, thì người làng Hạ mới bổ chửng, bàn tán xôn xao về nhà văn Lữ Hành của làng mình. Nhưng rồi sự ngưỡng mộ cũng chỉ được hơn tuần. Nói đúng ra thì người làng thất vọng, có người còn thương hại vì nhà văn Lữ Hành của họ suốt đêm trong đèn ngồi viết mà nhuận bút cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim cũng không đủ mua một chiếc xe đạp tầm tầm để thay cái xe đạp tàng hàng ngày ông vẫn kẽo kẹt đạp đến nhà xuất bản. Người làng Hạ thầm nói với nhau: "Học hành đỗ đạt, tiếng tăm như hai ông phó tiến sĩ, ông nhà văn mà làm gì cho nó khổ. Phải kiếm cái nghề gì có phương tiện vật tư trong tay như vợ chồng anh Phát, hoặc có chức quyền như ông giám đốc công ty vật tư Long ở trong Sài Gòn, mới mong mở mày mở mặt ra được".
Vậy là Phát đã trở thành một trong những mẫu người của làng Hạ. Mỗi lần anh về làng, người ta lại bàn tán, bình phẩm. Đám thanh niên trẻ trong làng, nhất là những anh chàng không có chí hướng và hi vọng gì ở con đường học hành, luôn luôn nhìn anh với con mắt đầy ngưỡng vọng và thèm muốn.
Dựa xe dưới gốc hồng xiêm, Phát đưa hai tay vuốt nhẹ mái tóc dày mượt, liếc qua chiếc gương ở tay lái rồi khoan thai bước vào nhà.
- Thằng Phú nó đâu rồi hả bố?
Ông Tài đang ngồi vót nan ở hiên nhà, đáp thủng thẳng:
- Nó đi Thái Bình sáng nay rồi. Hôm nay anh không đi làm à?
- Cũng chỉ vì việc của thằng Phú đấy bố ạ - Phát kéo ghế ngồi trước mặt ông Tài - Trưa nay vừa phải chi mấy "thiên" mời bọn tổ chức ở hiệu thịt chó Hàng Lược. Chỗ nào cần chi thì đã rải hết tiền cả rồi. Bố tính, mấy tháng nay vợ chồng con ngửa tay xin việc đến như thế là cùng.
- Việc của em nó bây giờ chỉ còn biết trông nhờ vào anh chị.
- Con không làm thì thằng chó nào nó chịu hứng lấy - Phát rút thuốc Bông Sen bật lửa ga châm hút rồi chun miệng thở khói như hun chuột. Anh nhìn rất lâu vào những bối khói thuốc, giơ tay nắm bắt chúng như một thứ đồ chơi, rồi bất giác nhếch miệng cười một cách đầy khinh bạc - Khốn nỗi, xin bố hiểu cho là thằng anh thì cứ như mõ làng xin việc mà thằng em thì lại khủng khỉnh thờ ơ. Nhắn ba lần bảy lượt bảo về cho người ta xem mặt mà vẫn mất hút. Hừ, để rồi con dạy nó. Nó láo. Mấy lần nó về mà cũng không thèm giáp mặt vợ chồng con.
- Hôm qua tao giục nó ra, nhưng nó mệt...
- Mệt gì? Chơi bời quá độ chứ sao? Có phải hôm qua nó mang cô vợ nông trường về phải không?
- Nghe nó nói là bạn gái... - Ông Tài như muốn trả lời cho qua chuyện. Bởi ông biết rằng không nên bới chuyện ấy ra trong lúc này. Cứ đợi Phú đi Thái Bình về đã. Không dàn xếp khéo chuyện này là anh em hục hặc với nhau to. Tính Phú ngang bướng mọi việc đều nhất nhất làm theo ý mình. nhưng Phát lại thích quyền bính, tính nóng như lửa. Cái hồi Phú bỏ đội phà tình nguyện đi bộ đội, hai anh em đã xô xát một trận kịch liệt đến mức có dễ gần hai năm không dàn mặt nhau. "Nó ngu. Thời buổi này không ai bỏ cơm đi ăn cứt. Đang lái tàu, được làm chủ cả một phương tiện hốt ra của như thế mà không biết tận dụng thì ngu hết chỗ nói" - Phát vẫn thường nhiếc móc Phú như vậy. Chính ông Tài cũng thấy việc Phú làm là một hành động dại dột. Ông đồng tình với Phát nhưng ông cũng tỏ ra tôn trọng sự lựa chọn của Phú. Bây giờ giữa hai anh em rất có thể lại xảy ra một cuộc va chạm lớn. Và lần này, sự có mặt của một cô gái sẽ càng làm cho mối mâu thuẫn giữa hai anh em thêm căng thẳng.
- Con đã nghe người ta nói hết mọi chuyện rồi. Hai đứa dắt nhau về nhưng không dám dàn mặt vợ chồng con vì nó biết là con không đời nào để cho nó làm cái việc ngu xuẩn ấy. Gái nông trường, giường bệnh viện, có hay hớm gì. Lần này thì bố không thể dửng dưng ba phải như cái hồi nó đi bộ đội. Con phân tích cho bố nghe. Thứ nhất là phẩm hạnh của các cô gái nông trường, người ta đã nói mãi rồi. Không mèo mả thì cũng gà đồng. Gái đã gần ba mươi, không chứng nọ cũng tật kia là cái chắc. Huống hồ cô ta lại ở mãi tít nơi khỉ ho cò gáy, lương ba cọc ba đồng, một mình làm đút miệng không xong, nói gì đến chuyện nuôi chồng con. Thứ hai, thằng Phú có hộ khẩu gốc ở Hà Nội, có nghề, có nơi tiếp nhận đàng hoàng. Hà cớ gì tự dưng rúc đầu vào bụi rậm, vớ lấy một cái gông vào cổ. Thứ ba, nhìn xa hơn, tức là phải nghĩ đến tương lai lâu dài. Nó định lấy vợ và sống ở trên đó suốt đời sao? Sẽ có bao nhiêu vấn đề đặt ra: nhà cửa, con cái, đời sống vật chất và tinh thần. Sẽ là nheo nhóc, bê tha, suốt đời vục mặt xuống đất không ngóc đầu lên được. Lúc ấy liệu bố con anh em có rũ bỏ trách nhiệm với nó được không? Đành rằng anh em kiến giả nhất phận, ai biết người ấy. Nhưng bố chắc là không nhắm mắt xuôi tay nổi khi thấy con cái sống cực khổ. Cái Lộc thì khỏi phải nói. Nữ nhi ngoại tộc. Vợ chồng con đẻ như thế là hết tiêu chuẩn rồi. Ba con vịt trời, rồi nó cũng bay tuốt...
Ông Tài bỗng giật mình, ngước nhìn Phát như nhìn một nhà tiên tri. Mọi việc trong gia đình, quả là Phát có đầu óc nhìn xa trông rộng. Cho tới bây giờ, tuổi ngoài sáu mươi rồi mà ông vẫn chưa có một thằng cháu đích tôn. Dòng họ Nguyễn Đình ở cái đất làng Hạ này phải nói là rất bề thế, như một cây cổ thụ, càng sống càng sâu rễ bền gốc, lắm nhánh nhiều cành. Nhưng đến cái nhánh của ông bây giờ thì đang có nguy cơ teo tóp lại. Thằng Phát coi như không còn hi vọng. Đẻ nữa cơ quan người ta sẽ buộc thôi việc. Chỉ còn tin cậy ở thằng Phú. Cái nhà này, ông muốn giành cho nó. Nó sẽ là người thay ông giữ gìn hương khói tộc đường...
Xoay chiếc điếu bát, ông Tài thông nõ nhưng lại cầm nhầm đầu xe điếu, đành phải nhổ nước bọt ra phì phì.
- Thì rồi anh em cố mà bàn luận với nhau. Hôm qua, bố cũng đã bàn sơ với nó. Nhưng nó có vẻ quyết tâm lắm. Sáng sớm hôm nay hai đứa đưa nhau về Thái Bình. Nó bảo khi nào nó lên nói chuyện lại tình hình gia đình dưới ấy, bố và chú Hạng sẽ xuống đặt vấn đề.
Phát vỗ đánh bốp vào đùi, thở hắt ra như chiếc lốp ô tô bị xì van.
- Thế mà bố bảo vẫn còn là bạn gái. Thằng này nó điên rồi. Phải mở mắt cho nó ngay. Bao giờ nó về?
- Tao cũng không biết. Chắc cùng lắm cũng hai ba ngày...
- Chuyến này bố để con thu xếp. Tối nay cái Lộc về, con sẽ bàn thêm với nó. Thằng Phú đang lú lẫn vì bùa mê. Vấn đề trước tiên là phải cắt phăng cái dây dợ lằng nhằng ở cái xó đồng rừng ấy đi. Tiếp đến là phải bàn gấp chuyện công tác của nó. Ông trưởng phòng tổ chức hứa sẽ nhận nó về phòng điều động. Nhưng để chắc ăn thì phải chi đậm. Tuần trước đã phải cõng đến mấy tấm lát chun để ông ta đóng chiếc tủ ba buồng và chiếc giường môđéc cho con gái sắp lấy chồng. Cô Lộc sẽ tạm phải ứng ra năm chỉ để buộc lão ta phải kí giấy tiếp nhận. Thiếu gì chỗ làm ở cái đất Hà Nội này, miễn là biết cách chi tiền. Có mấy cái nghề này: bưng bê ở các hàng ăn, bán gạo thịt ở các cửa hàng mậu dịch, phục vụ trên tàu, lái xe, cung ứng vật tư, thủ kho các loại, làm ở các công ty MEX... bọn lắm của nó chỉ nhằm vào các nghề này. Bỏ ra một vốn, thu được bốn lời ngay lập tức. Vì vậy cái chỗ của thằng Phú mà bỏ đi thì đúng là dại ngu. Con nói để bố biết, thằng Phú về đó, vài ba năm sau mấy tay trưởng phó phòng về hưu thì đến lượt nó chứ ai. Nó là đảng viên, lại đã tham gia bộ đội... riêng cái mác ấy đã ăn đứt đi rồi. Bố tính, cả đời làm tài, làm ét của bố trước đây, rút cục khi giải nghệ bố cũng chỉ tay không. Nhưng bây giờ chỉ cần nắm vô lăng một năm, nếu biết cách làm ăn, bố sẽ có chục cây vàng...
Ông Tài không thể cãi lại cái kiểu lập luận vừa sắc bén vừa đầy tính thuyết phục của Phát. Trong khi nói hình như Phát đã cố tình dùng tay chém từng nhát vào không khí. Cái bàn tay to, nần nẫn năm ngón, ngón giữa và ngón áp út vàng choé hai chiếc nhẫn vàng, một chiếc tới năm chỉ. Và chiếc đồng hồ Sitizen dây i nốc sáng bóng lúc lắc trên cổ tay nổi gân chằng, dường như không phải là công cụ để xem giờ mà nó chính là ý đồ rõ rệt của chủ nhân trong việc phô trương cái uy lực của đồng tiền. Nếu kể cả chiếc Cup DD70 ở ngoài gốc hồng xiêm kia, riêng số tài sản mà Phát mang trên người cũng đáng giá bằng cả một gia tài của một gia đình cán bộ công nhân viên chức bình thường.
*
Năm 1975, từ chiến trường trở về, ngoài chiếc ba lô cóc trong đựng hai mảnh vải dù, mấy chiếc lược bằng vỏ xác máy bay, vài mảnh vải sơ vi ốt làm quà tặng cho vợ con, Phát chẳng có gì hết. Vợ Phát, một cô gái làng, xã viên hợp tác xã trồng rau, sau lần đẻ đứa con gái đầu lòng, người cứ xanh rớt như bị chứng hậu sản. Đó là một thời kỳ người ta sống bằng ảo tưởng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ như một thứ men làm người ta say sưa ngây ngất. Những ai không có thói quen quan tâm đến thời cuộc, đến tình hình chính trị xã hội thì thanh thản yên tâm lo việc làm ăn. Học cày cuốc, trồng cấy chí thú dành dụm lo sửa sang lại căn nhà, mảnh vườn. Những kẻ mẫn thời, tinh nhạy trong cách làm kinh tế thì hối hả và lặng lẽ bòn tiền vào Sài Gòn mua sắm tivi, tủ lạnh, ghế sa lông, xe máy, cátxet... Những người có chút "máu chính trị", hoặc quá ngây ngất trước viễn cảnh tương lai thì luôn sống hi vọng, chờ đợi. Phát là một người trong số đó. Tám năm ở chiến trường dường như đã quá sức chịu đựng của anh. Đã mấy lần anh bị bom vùi. Mấy lần xe cháy hoặc lao xuống vực để đổi lấy cái danh hiệu "Chiến sĩ quyết thắng", "Dũng sĩ đường 559"... Nhưng rút cục lại, những người lính như anh, không có một ham muốn nào khác là sau chiến tranh được trở về với vợ con, sống một cuộc đời bình dị. Thắng lợi rồi, ta sẽ có tất cả. Câu nói cửa miệng của mọi người ngày ấy thực sự trở thành niềm tin và hi vọng của Phát. Anh xin xuất ngũ trở về tình nguyện làm anh xã viên làng.
Nhưng cuộc sống không cho phép Phát có quyền mơ mộng quá lâu... Cảnh chị dâu em chồng từ lâu vốn đã âm ỉ sẵn nỗi bất hoà giờ lại thêm cảnh kinh tế túng quẫn, khiến không khí gia đình anh lúc nào cũng sẵn sàng bùng nổ. Sẵn có sào ruộng phần trăm ở đầu làng, ông Tài đành hạ xoan tre quanh vườn, dựng tạm ba gian nhà toócxi cho vợ chồng anh trai cả ra ở riêng.
Đang lúc Phát thấm thía bài học vì quá nhẹ dạ xin xuất ngũ khi mình đang có bằng lái xe, thì có một cơ hội may đến với anh. Một người bạn vốn cùng nghề lái xe với ông Tài trước đây, đang trực tiếp phụ trách đội xe xây dựng cầu Thăng Long, thông cảm với hoàn cảnh của Phát đã nhận anh về lái ở đội xe của ông. Thế là bắt đầu một bước ngoặt trong đời Phát. Giống như một người đi tàu đường dài, suốt hàng chục ga liền anh ta đã chịu nhường nhịn cho người khác ngồi, rút cục đôi chân anh ta đã tê dại, mà số người cần nhường nhịn thì có vẻ ngày càng đông, nếu cứ sống cao đạo như thế có thể anh ta không còn đủ sức mà đi hết chặng đường. Vì thế đã đến lúc anh ta phải giành giật lấy một chỗ ngồi. Phát bắt đầu thức tỉnh. Và sự thức tỉnh thì bao giờ cũng thật quyết liệt. Những thiếu thốn, thua thiệt về đời sống vật chất lâu nay khiến Phát có một ham muốn mãnh liệt là bằng mọi cách phải vươn tới sự giàu có, dư dật. Cùng với hàng trăm ngôi nhà do "tận dụng" xi măng sắt thép của công trình thế kỉ - tức là cầu Thăng Long - vợ chồng Phát cũng dựng được một ngôi nhà năm gian bề thế trên mảnh vườn vợ chồng anh đang ở. Cũng năm ấy, do tài xoay xoả, ngoại giao, nói đúng hơn là do công lao của chiếc GAT 69 anh lái. Phát xin cho vợ vào làm ở Công ty rau quả, Lộc làm nhân viên phục vụ trên tàu Thống Nhất.
Hai vợ chồng cùng làm chủ ở hai ngành vật tư quan trọng - lái xe và rau quả - chỉ mấy năm sau họ đã tích góp được một số vốn khá lớn. Có thể coi đó như một thời kì biến đổi ghê gớm trong cuộc đời Phát. Từ một anh chàng nửa nông dân nửa lính, lúc nào cũng hút điếu cày sòng sọc. Phát trở thành một anh lái xe bảnh bao, đôi lúc dính tí dầu mỡ nhưng nhìn chung ít ai thấy cái dấu vết nghề nghiệp ở anh. Còn chị - c ái cô Năm xã viên hợp tác xã trồng rau làng Hạ hay ốm quặt quẹo và xanh rớt, từ ngày đẻ đứa thứ hai cứ béo phây phây, da dẻ căng hồng trông đến là thích mắt. Vào làm ở Công ty rau quả ba năm, nhờ bạn bè và chỗ thân quen giới thiệu, Năm chuyển hẳn sang làm ở một khách sạn chuyên doanh các món đặc sản. Và ngay sau thời gian chuyển công tác đó, chị bàn với Phát bán ngôi nhà ở làng, tậu một căn hộ hai tầng ở nội thành, cắt đứt hẳn cái gốc rễ nông thôn, nơi anh chị đã sinh ra.
Sự đổi đời về cuộc sống vật chất, làm biến đổi hẳn cách sống, tâm lí, cách nhìn nhận và đánh giá cuộc đời của vợ chồng Phát. Bây giờ, mỗi khi nhớ lại những năm tháng chiến tranh, nhớ lại những ngày tháng cơ cực, Phát lại rùng mình tự hỏi không hiểu sao mình lại có thể vượt qua chặng đường khổ ải đó? Dường như giữa quá khứ và hiện tại là hai mảng của hai con người nào đó ghép lại chứ không thể nói rằng đó là sự phát triển nhất quán của một con người.
Bởi thế, thật là dễ hiểu khi Phát với tư cách và trách nhiệm của một người anh trai, đã từ nửa năm nay luôn sốt sắng quan tâm đến chuyện xuất ngũ và tìm kiếm nơi làm việc cho Phú. Bằng kinh nghiệm mười năm qua, Phát rút ra điều này: Với cơ chế và cung cách làm ăn hiện nay, không ai sống nổi bằng đồng lương cả. Cũng chẳng ai dại gì tự đày ải, chôn vùi cuộc đời mình, cuộc đời con cái mình. Dù thế nào đi nữa, con người vẫn phải tìm mọi cách để mà sống. Trần lưng cuốc đất, nuôi lợn, gà, thắt bụng lại để mà chịu đựng: vay vốn buôn bán xoay xoả để làm giàu; chạy vạy đi nước ngoài kết hợp với buôn bán... Có bao nhiêu cách làm ăn, chân chính và đểu giả, lương thiện và lừa đảo. Nhưng chắc chắn nhất là hãy nắm lấy một phương tiện tốt hơn cả vẫn là quyền chức, địa vị - và hãy tận dụng từng hoàn cảnh, từng cơ hội để biến thành của riêng mình. Như thế, chắc chắn anh không thể nghèo.
Rất ít khi Phát thổ lộ cái thứ triết lí sống này của mình với người khác. Nhưng càng chiêm nghiệm, anh càng thấy nó đúng. Và anh lặng lẽ, quyết liệt biến nó thành hành động.
- Con nghĩ, bố phải thật kiên quyết với thằng Phú mới được - Phát thổi phù mẩu thuốc xuống đất, lấy chân di một vệt dài, rồi liếc nhìn đồng hồ, đứng dậy. - Lúc nào nó về, bảo nó ra gặp con ngay.
- Nếu nó bảo xuống Thái Bình hỏi vợ cho nó thì anh tính sao?
- Dẹp ngay cái chuyện ấy lại bố ạ. Không có vợ con gì cái ngữ ấy. Quàng ách lên cổ để mà chết rục trên cái xó rừng ấy à? Thật là điên. Bố phải quyết định cái chuyện này. Bố còn sống, tôi không thể vượt mặt được. Còn nếu như bố giao toàn quyền cho tôi thì ngay hôm hai đứa lên đây, tôi sẽ cắt xong.
Phát chém mạnh tay đến nỗi sợi dây đồng hồ inốc va mạnh vào chiếc cột ximăng phát ra một tiếng đanh chói.
*
Ông Tài rơi vào một tình thế thật khó xử. Là người làm cha, ông có tán thành cuộc hôn nhân tự nguyện giữa Phú và Xoan không? Rõ ràng là bằng thái độ và tình cảm thực sự của mình, ông thấy Xoan là một cô gái dịu dàng, nết na, ứng xử rất có văn hoá. Ông hiểu tính nết của Phú và tin rằng khi anh đã quyết định một điều gì thì anh thường đúng và khó bề thay đổi.
Nhưng Phát cũng có cái lí của anh. Bằng chứng là gần chục năm nay, chỉ bằng hai bàn tay trắng, vợ chồng Phát đã có một cơ ngơi mà ít có một người nào ở làng Hạ sánh kịp.
Ngay cuộc đời của ông, suốt bao nhiêu năm đi kiếm cơm thiên hạ, tưởng cũng đủ rút ra một bài học sâu sắc. Thời trẻ, ông đã từng làm ét rồi làm tài chính, lái xe khách. Ngày ấy, tuyến đường Hà Đông - Vân Đình do hãng xe của ông Kí Miện kinh doanh. Do một người làng giới thiệu, anh Ban, người làng Hạ được làm phụ ét rồi ông Tài Tiến. Chiếc xe khách do hãng Rơnôn của Pháp sản xuất từ trước đại chiến mỗi ngày ì ạch bò từ Hà Đông vào Vân Đình đổ khách rồi lại ì ạch bò ra. Cùng ông Tài Tiến và anh ét Ban, chuyến nào cũng có một người nhà của ông chủ đi kèm, làm nhiệm vụ bán vé, thu tiền. Suốt ba năm trời, anh ét Ban vẫn chưa một lần ngồi vào cabin cầm tay lái. Cho tới một lần, một chiếc cam nhông do thằng Tây say lái bỗng từ bên kia đường đâm sầm vào chiếc xe Rơnôn tàng. Ông Tài Tiến bị gẫy hai dẻ xương sườn, bị phạt tù. Anh ét Ban trở thành lái chính. Và cái tên Tài Ban được người ta gọi từ đấy.
Làm tài cho hãng Kí Miện cũng chẳng hơn gì làm ét. Tiền chạy xe hàng ngày vẫn do con gái ông chủ thu. Muốn uống một chén nước chè, ăn một đốt mía cũng phải bỏ tiền túi. Cái nghèo của anh làm thuê nhiều khi đến cơ cực, nhưng chính nó lại làm cho anh Tài ý thức được mình, không để mình bị sa vào cái hèn của phẩm giá. Anh không thèm tơ hào một giọt xăng, kì kèo một đồng xu, và rất nhiều khi tỏ ra hào phóng khi gặp những người nghèo không có tiền muốn đi xe nhờ.
Cô con gái ông chủ, từ lúc nào đã mến phục cái đức tính của anh Tài, thầm yêu anh. Quan hệ giữa bà chủ và người làm thuê tự nhiên thay đổi. Cô thường tìm mọi cách để dúi cho anh tiền, hoặc đãi đằng, ăn uống dọc đường. Nhưng cái chất người thợ ở anh vốn cố hữu lâu rồi, dễ gì đánh mất được mình. Anh vẫn nghèo. Nhưng anh càng được yêu say đắm. Tình yêu đơn phương thôi. Anh cảm nhận được mối tình của cô con gái ông chủ bằng tất cả trực giác của mình, lặng lẽ nén lại và coi đó như một ân sủng mà phẩm chất nghề nghiệp đã mang lại cho mình.
Năm 1954, ông Kí Miện cùng gia đình và cô con gái bỏ vào Nam. Ông Tài tiếp tục lái xe khách cho Công ty xe khách Hà Nội. Cho mãi tới năm chiến tranh phá hoại vì lí do sức khoẻ, ông xin nghỉ mất sức.
Vậy là, nếu không kể thời gian lái xe thuê cho chủ, đã có một thời kì dài ông Tài đã từng có phương tiện của nhà nước trong tay theo quan niệm của Phát. Nhưng sao ông vẫn không giàu? Ông và mọi người ngày ấy sống trong sáng hơn chăng? Do cách quản lí, tổ chức ngày ấy chặt chẽ, có hiệu quả hơn chăng? Có lẽ bởi cả hai nguyên nhân ấy. Nhưng theo ông, điều chủ yếu vẫn là phẩm chất mỗi con người. Ngày ở đội sà lan, Phú cũng có cơ hội làm giàu kém gì Phát? Cũng phương tiện, vật tư của nhà nước trong tay. Vài tấn than, chục bao xi măng, vài bao gạo với Phú không có gì khó khăn. Vậy mà vì sao nó lại gây sự với tay thuyền trưởng và xung phong đi bộ đội?
Càng suy ngẫm, ông Tài càng nhận ra Phú có rất nhiều nét giống mình.
Phú luôn suy nghĩ và hành động đúng với lương tâm. Nhưng rồi nó sẽ nghèo, sẽ khổ - Điều nhận xét này khiến ông tài bỗng hoang mang, day dứt. Biết trước được như thế mà sao mình không giúp nó tìm một hướng khác, sống đỡ vất vả hơn?
Ông Tài thở dài, cầm chiếc lông gà ngoáy mãi vào nõ điếu mà chính ông vừa tra đầy thuốc.