CHƯƠNG IV
Chuyến xe khách Thái Bình - Hà Nội đổ khách xuống bến vào lúc mười giờ sáng. Nhốn nháo và hối hả, mấy bà lái buôn chen lấn xuống trước tiên. Những tải gạo, khoai tây, bu gà ùn ùn đè lên cả lưng, vai hành khách, chen ra cửa.
Phú như bị cái đám người hỗn loạn ấy đẩy từ giữa lòng xe xuống sân bến lúc nào không biết. Anh lắc đầu ngán ngẩm, đưa tay quệt mồ hôi rồi xách chiếc túi vải lững thững ra đường xe điện.
- Này, anh bộ đội - Phú cảm thấy có người gọi giật giọng phía sau. Quay lại, anh nhận ra bác tài xế già.
- Có chuyện gì thế bác? Cháu đã mua vé rồi mà.
- Không. Chuyện khác kia. Hình như anh bỏ quên một cái túi ở trên xe.
Phú ngẩn người, nhìn xuống chiếc túi vải nơi tay cầm.
- Tôi nghĩ rằng túi của anh. Cánh lái xe chúng tôi không nhầm lẫn cái gì đâu. Lúc ở bến xe Thái Bình, cô gái đưa tiễn anh đã cố tình đẩy chiếc túi lên phía sau anh.
Trời ơi, mình đã bảo Xoan để lại, thế mà Xoan vẫn cố tình đưa lên bằng được - Phú thầm nghĩ và mặt anh bỗng đỏ bừng.
- Túi gạo nếp phải không hả bác? Vậy thì bác cho cháu xin.
- Bây giờ mới nhớ ra phải không? - Bác tài bỗng bật cười vỗ tay lên vai Phú - Quà của người yêu mà chú mày cũng quên được thì tao lạ thật. Lúc nãy một bà buôn định vơ ngay cả cái túi, tao quát cho vội thôi ngay. May mà nhìn thấy chú mày chứ không tao lại phải mang nộp cho ban quản lí bến thì rách việc.
Chiếc túi nhỏ đựng vừa vặn năm cân gạo nếp mà Phú thấy trĩu nặng bao ân tình. Xoan buồn cười thật. Đã bảo có một mình bố, quà cáp làm gì cho phiền phức, thế mà cứ nhất định ôm bằng được ra tận bến xe. Giá như nhà Xoan giàu có gì cho cam chứ. Mùa gặt vừa xong mà cả nhà đã phải ăn độn sắn lát rồi. Những ý nghĩ chợt tới khiến Phú không nén được tiếng thở dài. Anh nhìn bác tài định nói lời cám ơn, nhưng thay vào đó anh rút từ túi ngực ra bao thuốc Sông Cầu.
- Bác hút với cháu điếu thuốc.
- Cám ơn. Mình không hút thuốc lá - Bác tài chợt nhíu mày, chăm chú nhìn Phú hồi lâu - Này, tao hỏi khí không phải, cậu có phải là con ông Tài Ban?
- Dạ, bác cũng biết bố cháu?
- Biết quá chứ. Cùng cánh xế với nhau mà lại. Thảo nào, ngay từ lúc gặp cậu ở bến, tao đã thấy ngờ ngợ. Cậu giống bố lắm, nhưng có vẻ như bướng bỉnh hơn… - Bác tài bật cười hà hà, ánh mắt tinh nghịch nhìn xoáy vào vừng trán dô của Phú - Trước đây bố cậu cùng một tổ xe với tao. Ông cụ từng là một lái xe cự phách của công ty xe khách. Tay nghề thì vững mà sống chừng mực, đạo đức lắm…
- Cháu cũng nghe nhiều người nói thế.
- Nghề lái xe của bọn tao, giữ được cái tiếng như vậy, khó lắm cháu ạ. Tao cũng chỉ mong đến lúc nghỉ hưu không phải xấu hổ vì nghề nghiệp.
- Cháu tin, bác sẽ làm được điều đó. - Phú nói có vẻ khách sáo nhưng thực lòng anh đang nhớ lại cử chỉ tốt bụng vừa nãy của bác tài. - Bác có thể cho cháu biết tên để cháu về thưa chuyện với bố cháu.
- Cứ nói ông Tài Đen là bố mày nhớ đấy - Người tài xế già giơ bàn tay lên ra hiệu tạm biệt - Mà này, khi nào cưới, nhớ cho tao biết. Thế nào tao cũng đến uống với bố mày một bữa rượu thật say.
Chiếc túi gạo nếp nặng trĩu tay kéo lệch cả một bên vai Phú.
Phú như thấy đâu đây thơm lừng mùi nếp cái hoa vàng, ngào ngạt mùi canh cua đồng nấu với khế. Lâu lắm rồi anh thiếu vắng bàn tay chăm chút của mẹ. Mẹ Phú mất từ năm anh mới tám tuổi. Hơn hai mươi năm qua, bóng dáng của người mẹ tưởng đã chìm trong quên lãng, nào ngờ những ngày qua bỗng tái hiện lại trong từng ánh mắt, cử chỉ ở mẹ Xoan. “Đừng khách khí nhé. Cứ coi như ở nhà ấy”. Người mẹ thật ít lời nhưng trong cái vẻ thô mộc và quê mùa là một tấm lòng đôn hậu và chân thành. Thúng nếp cái hoa vàng giành dụm cho ngày tết hoặc để giống cho mùa sau cũng mang đi xay để đãi khách. Con gà mái duy nhất trong chuồng vừa nhảy từ trên ổ xuống chưa kịp cục tác, đã nghe tiếng kêu quang quác và tiếng vỗ cánh đành đạch dưới bếp. Ngồi trước bữa cơm khách đầy ngộn. Phú thấy đắng miệng và xót xa khi nhìn thấy đôi bàn chân nứt nẻ với những móng vàng xậm màu gạch cua của mẹ. Nhà Xoan nghèo quá. Mẹ Xoan vất vả quá. Phú sẽ làm gì để cho những con người mà với anh đã vô cùng thân thiết kia đỡ khổ?
Chiếc túi gạo nếp mỗi lúc một nặng trĩu tay.
Phú đi rẽ vào con đường ngõ gạch qua một ao rau muống và dừng lại trước ngôi nhà cũ kĩ, lớp tường loang lổ màu đen xỉn lâu lắm rồi không được quét vôi lại.
Người phụ nữ đang ngồi thái chuối lợn quá đột ngột khi chợt nhận ra Phú, vội reo như người bắt được của:
- Chú Phú. Trời ơi, về phép hay đi đâu mà lếch thếch thế kia?
- Em về phép. Ghé thăm chị với các cháu. Anh Tựu vẫn làm ở xí nghiệp thương binh chứ hả chị?
- Ông ấy bỏ về rồi. - Vợ Tựu đang tươi cười bỗng xịu mặt xuống, giọng vừa nhấm nhẳn, vừa buồn rượi - Đang không thì cãi nhau ầm ĩ với tay giám đốc. Trời ơi, mấy tháng vừa rồi mẹ con tôi cứ nẫu cả ruột. Số tôi là cái số ăn mày. Từ ngày bên mắt kia của anh ấy bị hỏng nốt, trăm bề cơ cực chú ạ. Vụ đấu đá vừa rồi, Bộ thương binh xã hội phải xuống can thiệp đấy. Họ xử cho anh ấy thắng. Nhưng mà tính gàn đến mức cứ nhất định đùng đùng bỏ xí nghiệp về.
- Nhưng vì chuyện gì hả chị? - Phú sốt ruột.
- Thì cũng chuyện xã hội cả ấy mà, tính ông Tựu thì chú còn lạ gì. Những kẻ có chức có quyền làm điều ngang tai trái mắt là một, hà hiếp người ngay là hai, ăn của đút lót là ba, xà xẻo tham ô móc ngoặc là bốn, lấy của chung làm của riêng là năm… Tất tật những việc như thế là ông ấy không chịu được. Chung quy mọi chuyện đều do cái thằng cha giám đốc xí nghiệp ấy cả chú ạ. Ai đời Xí nghiệp thương binh, nhà nước đã quy định phải có tối thiểu bẩy mươi phần trăm cán bộ công nhân là thương binh. Thế mà tay giám đốc chỉ treo biển dê, mổ thịt chó. Lão ta toàn tuyển con em với người thân cận vào làm, nhiều đứa khoẻ như vâm, trốn tránh nghĩa vụ quân sự mấy lần… Vì ở xí nghiệp thương binh thì không phải nộp thuế cho nhà nước, lại được ưu tiên cung cấp vật tư, nguyên liệu mà. Thế đã hết đâu. Tay giám đốc ấy còn gian ngoan xảo quyệt lắm. Sản phẩm do thương binh làm ra nó đánh sụt loại để ăn chặn. Nó móc ngoặc với mấy tay cung ứng vật tư tuồn nguyên liệu ra ngoài. Anh em thương binh thắc mắc thì nó trù dập, cúp tiền thưởng, vu cáo tội công thần, phá rối… Sao ông Tựu nhà tôi với chú giống nhau đến thế. Hồi chú bỏ đi bộ đội nghe đâu cũng vì ức cái tay tàu trưởng phải không?
Phú mỉm cười chua chát:
- Đời thế mới vất vả chị ạ. Em nghiệm ra rồi. Những thằng giám đốc xí nghiệp thương binh ấy trên đời này còn nhan nhản. Tiếc rằng những người như anh Tựu còn ít quá.
- Trời ơi, còn ít à? Chỉ một mình tôi khổ vì ông Tựu còn được. Chứ thêm hàng nghìn người đàn bà nữa thì phụ nữ chúng tôi chịu sao nổi?
Tự nhiên Phú nghĩ đến Xoan, Xoan rồi cũng sẽ là một chị Tựu.
- Tôi cầu mong cho nhà nước bắt hết những thằng cha giám đốc như ở cơ quan anh Tựu đi tù cả đi, cho xã hội trong sạch. Nghe anh Tựu nói, có một nhà báo sắp viết bài phanh phui cái vụ này ra rồi. Anh Tựu bảo, thằng ấy nó phải vào Hoả Lò thì anh ấy mới chịu trở lại xí nghiệp thương binh. - Đang nói thao thao, chị Tựu bỗng thần người một lúc rồi bất chợt reo lên - Úi dào, hôm vừa rồi tôi lên phố, có người chỉ cho tôi nhà vợ chồng anh Phát, sống như thế mới đáng kiếp người chứ. Ông Tựu, ông Phát cùng đi bộ đội với nhau một ngày đấy. Dào ôi, có dễ gần chục năm nay rồi không thấy vợ chồng anh Phát đến chơi…
Phú quay mặt đi. Anh cảm thấy đôi mắt sắc của người đàn bà như vừa cứa một nhát ngang mặt mình. Có những câu nói đủ cho người ta đau suốt đời. Phú thấy xấu hổ và nhục nhã thay cho Phát. Ngày trước Tựu và Phát chơi với nhau thế nào, cả làng Hạ và làng Cầu đều biết. Họ cùng học phổ thông, cùng xung phong đi bộ đội, cùng vào chiến trường Quảng Trị. Một mắt Tựu bị hỏng trong trận đánh vào Thành Cổ khi một loạt pháo kích rơi trúng đoạn hào của họ. Tựu đẩy Phát ngã dúi xuống hầm, nằm che cho bạn. Nhưng một mảnh đạn pháo đã xuyên trúng mắt anh.
- Trách anh Phát em làm gì hả chị - Phú muốn lảng câu chuyện - Anh ấy đi suốt ngày. Làm giàu cũng mệt lắm chị ạ. Chỉ cần anh chị coi em như em của anh chị là được rồi…
Ba đứa trẻ suýt soát từ năm đến mười tuổi từ ngõ kéo nhau về, chúng reo lên, chạy ùa đến với Phú.
- Chú Phú. A, chú Phú…
Phú vòng tay ôm mấy mái đầu khét nắng và chua hoắc mùi mồ hôi và dúi cho chúng nó một gói kẹo.
- Bố Tựu đâu rồi?
- Bố cháu đi… - Ba cái miệng đang há ra chợt im bặt khi nhìn thấy ánh mắt quắc lên đầy hăm doạ của mẹ. Phú nhìn chị. Anh chợt nhận ra gương mặt chị bỗng tái nhợt rồi đỏ dậy lên. Có chuyện gì vậy? Đầu Phú vẩn lên một mối ngờ vực.
- Chúng mày đi chơi cả đi. Khổ lắm. Thằng Tá, lùi ra không có dây cả mũi dãi ra chú kia kìa - Chị Tựu xua lũ con như xua gà.
- Thôi, em về đây chị ạ - Phú cảm thấy thấm buồn - Có ít gạo nếp đơn vị tăng gia, anh chị để nấu cho các cháu.
- Kìa chú Phú. Đừng làm thế. Mua về biếu ông chứ. Các cháu nhà này nó không quen ăn của nếp đâu…
- Chị đừng làm em giận. - Giọng Phú như nghẹn lại khi nhìn thấy mấy đôi mắt trẻ vừa nãy bừng lên một niềm vui, giờ bỗng tối xầm lại. - Chị cứ để nấu cho các cháu. Em đã có quà biếu ông rồi…
Phú xoa đầu bọn trẻ rồi xách chiếc túi vải bước đi. Không còn phải mang nặng nữa mà sao cả người anh như vẫn muốn trĩu xuống.
*
Lộc đón Phú ở nhà bằng một vẻ chẳng có chút thiện cảm gì.
- Anh Phú. Em nói cho anh biết nhé, cái phòng của em không phải là cái nhà thổ.
Hai tay, từ khuỷ đến bàn trắng lốp bọt xà phòng, quần sắn quá đầu gối, Lộc đứng xoãi chân, ném về phía Phú những tiếng đanh chói, gắt gỏng. Một chậu lớn chăn màn cũng trắng lốp bọt xà phòng cao có ngọn. Cạnh đó, dựa bên thành giếng là chiếc chiếu hoa.
Lộc về nhà từ tối qua. Theo lịch chạy tàu, mỗi chuyến theo tàu từ Hà Nội vào Thành phố Hồ Chí Minh, trở ra, cô lại được nghỉ ba ngày. Suốt đêm qua, khi biết Xoan đã ngủ ở giường cô, mặc dù mệt bã người mà cô vẫn không sao ngủ được. Cô tưởng tượng ra cái mùi mồ hô chua khét, mùi hôi nách, bộ quần áo bụi bặm nhàu nát của người đi tàu xe. Cô cảm thấy dưới tấm vải gối, cả trong các khe chiếu nữa, những con chấy kềnh càng, và biết đâu cả những loại bọ đồng rừng. Thế là suốt đêm cô gãi, cô trở mình. Cả căn phòng ô nhiễm tới mức, ngay từ sáng sớm ngủ dậy cô đã phải đun một soong nước sôi, rồi vơ tất cả màn, chăn gối, dội hết một lượt, như người làm lông vịt.
Phú ném chiếc túi vải xuống giường, đứng lặng nhìn ra ngoài giếng. Cơn giận làm cổ anh nghẹn tức, không nói được. Câu đầu tiên sau mấy tháng trời anh em không gặp nhau chẳng lẽ lại là câu nói anh vừa nghe được? Mấy năm nay Lộc thay đổi nhiều quá. Cái gì đã làm cho nó trở nên ngoa ngoắt chỏng lỏn đến thế? Nó hợm hĩnh, nhìn người bằng nửa con mắt. Nó bất chấp cả tình anh em, coi khinh cả những quan hệ ứng xử thông thường.
Cái cây hồng xiêm nơi nó đang đứng kia, ngày bố chiết từ cây hồng lớn ngoài đình về, còn thấp ngang mặt giếng. Khi ấy bé Lộc mới hai tuổi, suốt ngày bắt mình cõng trên lưng. Một lần mình mải chơi đáo để nó tha thẩn bên cây hồng xiêm, tí toáy vặt trụi hết những quả đang bói vụ đầu. Sợ bố đánh nó, mình đã tự nhận hết những lỗi về mình. Và lần ấy, mình bị bố đánh một trận đến một tuần sau còn sờ thấy con trạch lằn khắp mông. Cây hồng xiêm bây giờ đã có dáng cổ thụ, cành lá xùm xoà khắp giếng. Còn Lộc thì đã hai nhăm tuổi. Có lẽ nó không bao giờ còn nhớ cái trận đòn mình bị oan hôm ấy. Nó đi tàu từ Nam ra Bắc, mải mê kiếm tiền, mua sắm ăn diện, tích góp làm vốn riêng. Nó sẵn sàng xúc phạm và coi rẻ cả người anh của nó… Kỉ niệm xưa làm Phú tê tái. Bất giác anh đưa tay sờ ngang lưng và cảm giác như vừa đụng phải những lằn trạch bố đánh năm nào.
- Kìa, anh vẫn không nghe thấy em nói gì ư? - Lộc ngồi xuống giặt tiếp, nhưng vẫn ngoái đầu vào trong nhà, giọng kéo dài ra chua loét như mẻ. - Cả đêm qua em thấy mùi hôi nách. Khiếp. Anh tha cái của nợ ấy về nhà mà không xấu hổ. Bạn em chúng nó kháo ầm làng. Hình như cô ấy đã có một đời chồng rồi phải không? Tưởng ông anh kén chọn thế nào, chứ gái nông trường, giường bệnh viện thì đêm qua em mới được biết là một. Không tin thì anh ra mà xem này. Cái gối sát đến hết bánh xà phòng mà vẫn nhầy nhẫy đến tởm…
Bốp. Phú từ trong nhà lao ra, giơ thẳng tay nhằm vào bộ mặt cong cớn của cô em gái.
- Mày câm ngay cái mồm. Tao không cho phép mày có quyền xúc phạm đến cô ấy.
Lộc lu loa:
- Giời đất ơi. Anh là cái giống dã man. Tôi nói thế đã có gì xúc phạm đến ai cơ chứ?
Chưa bao giờ Phú thấy cô em gái mình ngoa ngoắt nanh nọc đến thế. Cái chất chợ búa, hàng tôm hàng cá xưa nay anh chưa bao giờ thấy ở Lộc. Ngày ở tuổi thiếu nữ, Lộc đâu có nói năng như thế. Tiếng là một vùng ngoại thành, không xa trung tâm thành phố, nhưng người làng Hạ vẫn còn đậm chất thôn quê dân dã. Tính Lộc lém lỉnh, chanh chua hơn những cô gái làng cùng lứa tuổi, nhưng bao giờ cô cũng được sự chừng mực, biết điều. Bốn năm làm nhân viên phục vụ trên tàu, quả tình Lộc đã biến đổi tới mức Phú không còn nhận ra cái chất nông thôn ở cô nữa. Lộc tập kẻ lông mày, đánh phấn, thoa môi son, ăn diện các loại quần áo đắt tiền, hợp thời trang. Và bây giờ, ngôn ngữ, điệu bộ ở cô lại càng xa lạ.
- Tôi nói cho anh biết, anh chưa là cái đinh gì đâu nhá. Làm anh thì cũng phải để cho người ta kính trọng. Giở cái trò găng-tơ với tôi là không xong đâu. Tôi sẽ nói với bố, với anh Phát cấm cửa cái gái nông trường ấy, không cho bén mảng đến cái nhà này. Riêng về phần anh, anh chẳng biết điều gì hết. Mấy tháng vừa qua tôi với anh Phát đã làm gì cho anh, chắc anh không thèm biết đâu. Đã kiết xác còn vô ơn thì đây cũng cho nghỉ khoẻ. Hôm qua anh Phát bảo tôi chi ra năm chỉ để lo việc cho anh. Nhưng cái cách đối xử của anh thì hơi đâu mà tôi ném tiền qua cửa sổ. Để mà ăn chơi bồ bịch cho nó sướng. Mặc xác anh ở trên cái xó rừng ấy…
- Mày hãy nhìn thẳng vào mắt tao và nghe tao nói đây - Phú trừng mắt, cố dằn giọng lại - Mọi việc của tao mày đừng có dính vào. Cái đồng tiền mày kiếm được bằng cách buôn bán trên tàu, hãy cứ giữ lấy để ăn diện và làm vốn để lấy chồng. Tao với mày, cách sống đã khác nhau quá rồi. Mày đừng hợm của và quen nhìn con người qua cái lỗ của đồng tiền. Tao cũng xin nhắc mày một lần nữa là chớ có bao giờ xúc phạm đến cô ấy. Tao sẽ cưới cô ấy và tao cũng cóc cần cái ngữ mày phải lo cho tao...
- Cưới xin là chuyện của anh. Tôi hơi sức đâu mà dây với hủi.
Lộc giơ cánh tay quệt ngang mắt rồi ngồi thụp xuống, trút hết cả nỗi giận dữ vào mớ chăn màn ngầu bọt xà phòng.