← Quay lại trang sách

Chương 8 Bổ sung lực lượng

Chúng tôi chào đón năm mới, năm 1943 xong thì lên xe lửa đi về nơi bay chuyển loại. Suốt ngày chúng tôi vui đùa, hát hò bên bếp lò đỏ lửa hết cỡ. Quá nửa đêm, giấc ngủ mới đến với những người ham vui.

Chúng tôi bừng tỉnh bởi cái lạnh. Không lấy được củi trên các ga. Cần phải quan tâm đến sự ấm áp, và cả sự ăn nữa chứ! Đoàn tàu dừng ở giữa rừng, nó cõng trên lưng nào xe tăng, súng ống và hành khách. Không ai biết được thời gian xuất hành của nó. Các đoàn quân ra mặt trận được ưu tiên trước tiên.

Chúng tôi thận trọng mở những cuộc đột kích lấy củi. Lần lượt, chúng tôi đến gặp Ban chỉ huy quân sự, gặp đồng chí phó Ban để trình bày, nhưng không có kết quả. Viễn cảnh phải đi trên toa xe với cái lạnh là cầm chắc rồi. Bỗng một ai đó có ý kiến đề xuất là tại sao lại không lấy ngay củi của Ban chỉ huy quân sự. Thế là chúng tôi thực hiện. 15 phút sau, củi khô đã được nhóm bếp, khi Ban chỉ huy quân sự phát hiện ra được thì chỉ còn cách quát tháo, chửi rủa om sòm.

Bửa ăn trưa đã được chuẩn bị. Người ta đem đến đồ hộp, pho-mát.

- Thật là tuyệt, - giọng của Vaxiliep to ra lúng túng. Mình cứ nghĩ đây là thịt hộp, ai dè đấy lại là nước lã. Nhìn xem này, đúng là nước lã với một chút cà rốt.

- Chiến lợi phẩm mà lỵ, kêu ca gì, - Orlôpxki cười. - Bọn này cũng có món ngon đây, nhưng chớ có mà nhìn.

Những người được sở hữu những hộp thực phẩm nhanh chóng kiểm tra nội dung bên trong sau khi đưa lên tai lắc lắc để nghe. Hình như rất nhiều hộp trong đó chỉ có toàn rau thì phải.

- Hộp của tôi có cái gì thế này nhỉ! Mình thì chỉ quen ăn thịt thôi, - Zakirôp làu bàu.

Đoàn tàu vẫn gõ nhịp đều đều trên đường ray. Chúng tôi đi rất lâu, tưởng chừng như trung đoàn rồi sẽ cư trú vĩnh viễn trên các toa tàu. Dọc đường đi, để rút ngắn thời gian, chúng tôi tổ chức những buổi văn nghệ tự biên tự diễn.

Guđim nổi bật nhất hội với những tiết mục đa dạng và tài năng biểu diễn. Cậu ta độc tấu và ca hát với tâm trạng nhiệt thành. Tài năng của người kỹ sư ấy là một sự bất ngờ hoàn toàn đối với tôi.

Ban ngày, trong thời gian tàu dừng bánh, chúng tôi tổ chức những buổi tọa đàm. Chính trị viên của phi đội - Gavrilôp là người điều hành tuyệt vời. Chỉ cần qua một vài phản ứng là đồng chí có thể hiểu được tâm tư, nguyện vọng của những người đang dự.

Đồng chí có thể biến cuộc nói chuyện thành cuộc hội thảo. Đấy là những cuộc trao đổi rất bổ ích vì nó có nội dung cụ thể, có thực tiễn chứng minh, có những ví dụ mà mọi người đều quan tâm và qua đó tích lũy được kinh nghiệm.

Sang đến ngày thứ 12 thì xe lửa dừng ở ga cần phải đến. Chúng tôi nhìn thấy một nhà ga nhỏ phủ đầy tuyết đứng bên cạnh ngôi nhà 3 tầng. Cách nửa cây số, trên cánh đồng bằng phẳng, tuyết trắng thấy hiện lờ mờ hình bóng những chiếc máy bay.

- Người anh em ơi! Sân bay kìa! - Orlôpxki kêu lên mừng rỡ.

- Thế là đâu vào đấy rồi, - Cuzơmin vui vẻ đáp lại. Được bắt tay vào việc rồi.

Chúng tôi chia nhau về ở trong hai hầm lớn, được trang bị giường hai tầng làm bằng gỗ sồi và sang ngày hôm sau, chúng tôi bắt tay vào nghiên cứu môn máy bay và động cơ. Thời gian nghiên cứu hai môn này kéo dài đến một tháng, nhưng cũng vì vậy mà chúng tôi nắm rất vững cấu tạo của loại máy bay mới như động cơ máy bay, trang thiết bị, vũ khí trên máy bay.

- Bây giờ chỉ còn lại một vấn đề là chui vào trong ống hút và làm sao chui ra cho nguyên vẹn mà thôi, - các phi công nói đùa khi chờ những ngày đi thực tập.

Cuối cùng thì đồng chí chủ nhiệm kỹ thuật của trung đoàn dự bị cũng đến để tổ chức kiểm tra kiến thức của chúng tôi. Những đợt sát hạch bao giờ cũng là điều dự báo cho các chuyến bay sắp tới. Và đúng như vậy, hai ngày sau, chúng tôi được chuyển đến một nơi mới.

Về nơi ở mới, chúng tôi được bố trí ở trong các căn nhà của nhà trường. Việc trước tiên là phải tổng vệ sinh cẩn thận, rồi "giảm quân bị" - chúng tôi đến kho để trả lại lựu đạn và những khẩu súng ngắn chiến lợi phẩm.

Bắt đầu biên chế các đơn vị. Tôi được đề bạt chức phi đội trưởng phi đội 1. Cuzơmin được đề bạt chức trung đội trưởng. It lâu sau, chúng tôi tiếp nhận thượng úy Xômưkin về giữ chức phi đội phó bay. Đồng chí là người nghiêm khắc, chững chạc. Tuy chưa tham gia chiến đấu ngoài mặt trận, nhưng đồng chí tích lũy được nhiều kinh nghiệm đào tạo cán bộ khi còn là giáo viên bay.

Ngày đầu tiên tổ chức những chuyến bay trên loại máy bay mới. Orlôpxki, Cuzơmin, Êgôrôp - người nọ nối tiếp người kia cất cánh một cách tự tin và hạ cánh rất chuẩn.

- Thêm một phi công nữa ra đời, - chính trị viên Gavrilôp nhắc lại câu ấy khi có phi công hạ cánh.

Đồng chí đã nói đúng! Mỗi chuyến cất cánh đều sản sinh ra một phi công chiến đấu, dù rằng chưa đạt đến trình độ điêu luyện - điều ấy sẽ đến qua thời gian, - nhưng phi công phải là người có nguyện vọng cháy bỏng là tiêu diệt kẻ thù.

Ngày tháng trôi nhanh. Qua một thời gian ngắn thôi, chúng tôi đã được huấn luyện những gì mà các cựu chiến binh từng chiến đấu, được bồi dưỡng những chiến thuật trong trận đánh, tạo được một tập thể chiến binh không quân gắn bó, đoàn kết. Ngoài ra, chúng tôi còn lựa chọn được những biên đội trưởng, những người có năng lực từ đội ngũ của các phi công trẻ.

Chúng tôi chú trọng đến việc học chiến thuật, cách đánh. Chúng tôi tập luyện rất nhiều trong đội hình. Chúng tôi bay với tốc độ lớn, áp dụng những chiến thuật khác nhau, bay những bài bay sát với thực tế chiến đấu.

Vào thời gian ấy, ở vùng Cuban, mùa Xuân đã đến. Những trận không chiến lớn cũng đã xảy ra. Những chiến thuật mới cũng đã xuất hiện khi sử dụng các loại vũ khí mới. Thời gian đó, trong không quân có câu "Thư viện Pôkrưskin" với công thức tuyệt vời của đồng chí ấy: "Độ cao, Tốc độ, Cơ động, Hoả lực". Chỉ có 4 từ thôi, nhưng phân tích nội dung của nó, áp dụng nó trong chiến trận - thì đấy là cả một vấn đề. Một trung đoàn không quân tiêm kích từ Cuban đã cơ động đến chỗ chúng tôi, và chúng tôi có dịp học hỏi các kinh nghiệm của các đồng chí ấy.

Sang tháng Tư, thời tiết đã ấm dần lên, mặt đất bắt đầu khô ráo. Suốt ngày chúng tôi ở ngoài sân bay, cố gắng tận dụng thời gian để bù đắp lại những ngày bỏ lỡ vì thời tiết xấu. Các phi công trẻ hăng hái học tập một cách tự nguyện và thực hiện nghiêm túc các yêu cầu.

Chúng tôi kết thúc bài bay đội hình là bắt tay ngay vào việc học bắn các mục tiêu trên không và mặt đất, tiến hành thực tập những chuyến không chiến lẻ và không chiến với đội hình lớn. Tôi với Cuzơmin hầu như ngồi lì trong buồng lái. Cần phải bay để kiểm tra từng người một xem họ thực hành "không chiến" như thế nào, bay trong điều kiện phức tạp ra làm sao.

Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào hai phi công Varsapxki và Axkircô. Hai người đều có tầm vóc trung bình, nhanh nhẹn, mắt xanh, trông họ như hai anh em sinh đôi. Họ thực sự có năng khiếu bay. Tôi có ý định bổ nhiệm họ làm biên đội trưởng, nhưng họ khiếu nại, không nhận. Họ muốn cùng nhau bay trong một biên đội, để được sát cánh bên nhau không chỉ ở dưới đất, mà còn cả ở trên trời.

Vào cuối tháng Tư, Bộ tư lệnh không quân yêu cầu phải kiểm tra trình độ các phi công. Điều ấy cũng là điều mà chúng tôi chờ đợi.

Tất cả chúng tôi đều tin rằng phi đội chúng tôi sẽ được đánh giá cao về kết quả học tập. Phi đội đã là một tập thể bền vững, gắn bó những người chiến binh với nhau, như anh em trong một nhà rồi. Ngay cả Lucavin, người khi gia nhập đội ngũ có rất nhiều khiếm khuyết nay cũng đã thay đổi. Đấy là người con trai độc nhất của gia đình. "Cục cưng" - cái tên thường được gọi như vậy. Cậu ta vào không quân vì nghĩ rằng phục vụ ở đó cũng như trò tiêu khiển thôi. Tập thể đã mất khá nhiều công sức trong việc tác động đến cá tính của Lucavin, tạo cho cậu ta có được bản lĩnh cần thiết của người phi công. Nói thực ra, chúng tôi cũng chưa thể hình dung được rồi cậu ta sẽ thể hiện mình như thế nào khi đứng trước hiểm nguy, đứng trước kẻ địch có vũ trang, trước những trận không chiến ác liệt.

- Lòng dũng cảm chỉ trong vòng hai tháng thì khó đào tạo được lắm. Đấy là phẩm chất được hình thành qua bao nhiêu năm dài mới có. Đầu tiên, cứ nhận vào phi đội, vào trường đã, - chính trị viên Gavrilôp nói, khi câu chuyện của chúng tôi bàn về Lucavin.

- Đúng, thời gian huấn luyện của chúng tôi còn ít quá, - tôi nói luyến tiếc.

- Gì thế, đồng chí chỉ huy! Tôi lại cho rằng thế là đủ rồi. Khi nào sẽ ra mặt trận? - Cuzơmin phản đối- một năm có khi cũng vẫn là ít. Đấy là cả một vấn đề. Và đâu phải chỉ cần bọn Đức nã đạn vào mình 1-2 lần là mình tỉnh ngộ ngay được.

- Đấy là khi cấp bách thôi, đồng chí thân mến ạ, - Gavrilôp khẳng định. - Cần phải làm cho mọi người tin tưởng trước khi tham chiến, để rồi không phải băn khoăn gì nữa. Phải huấn luyện các phi công.

... Đoàn kiểm tra yêu cầu kiểm tra các phi đội trưởng trước tiên. Tôi cùng với Rưbacôp được chỉ định kiểm tra với bài bay tổng hợp. Chúng tôi cần phải bay theo hành trình hình tam giác ở độ cao 300m, rồi vào trường bắn, bắn mục tiêu. Mặc dù cần phải thực hiện chính xác thời gian đến từng phút một, chúng tôi cũng không nghi ngờ gì về kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mình.

Vòng theo đúng thời gian quy định, tôi thông trường qua sân bay. Gió về chiều thổi dạt máy bay sang trái. Tôi lấy hướng chống gió cho bay đúng đường bay. Điểm cuối của hành trình đây rồi, - máy bay đã ở trên trường bắn. Tôi định kéo lên lấy độ cao cần thiết, nhưng máy bay không nghe theo. Cần điều khiển bỗng nghiêng về phía tôi, lỏng ngoẹt. "Các bánh lái độ cao có vấn đề rồi" - thoáng ý nghĩ trong đầu. Tôi báo cáo qua đối không: "Máy bay tôi bị hỏng hệ thống điều khiển" - và tay trái tôi gần như máy móc đẩy cửa dầu lên vị trí lớn nhất. Trong giây lát, tôi tháo cần điều chỉnh bánh lái độ cao, mở nắp buồng lái, tháo dây chằng vai và chuẩn bị nhảy dù. Còn máy bay thì đã lao xuống đến độ cao 200m. Mặt đất xáp gần lại. Rồi sau đó, vì có lực đẩy lớn nhất, máy bay lại từ từ giảm góc lao và chuyển sang lấy độ cao. Kim đồng hồ chỉ độ cao trườn lên phía trên. Nỗi nguy hiểm trực tiếp đã qua, nhưng cũng không thể đưa máy bay về hạ cánh được nữa. Sớm hay muộn đều phải nhảy dù. Tôi quyết định bay cho đến khi hết dầu. Khi ấy, máy bay có đâm xuống đất cũng không thể bốc cháy được. Cuối cùng thì dầu trong các thùng cũng đã cạn. Tôi đưa máy bay ra hướng xa sân bay và trèo qua thành buồng lái.

Dòng không khí thổi ngược chiều như bàn tay vô hình tóm lấy tôi và ném về phía đuôi máy bay. Tôi thấy rõ cảm giác rơi tự do và lần tìm vòng giật dù, nhưng không sao với tới. Mặt đất ở đâu đó xa xa phía dưới, hoàn toàn không giống như khi quan sát trong buồng lái. Tôi liếc nhìn sang phía ngực trái - và với tay giật được vòng mở dù. Phựt! Tiếng sột soạt của vải dù, rồi sau đó là một cú giật khi dù đã căng đầy không khí.

Sân bay ở ngay phía bên. Tôi xoay mặt theo hướng gió, kéo dây dù để trượt theo sự tính toán sẽ tiếp đất ở khu ruộng đã cày xong. Trước khi tiếp đất, tôi căng các bắp thịt, hơi giơ chân về phía trước để tiếp đất và ngã sang bên phải như đã được huấn luyện. Vòm dù căng gió đã kéo tôi không chút thương xót trên những hòn đất nhỏ lạnh cứng của thửa ruộng đã cày. Tôi kéo dây dù phía dưới để làm xẹp vòm dù và nó đã xẹp xuống trên nền đất đen.

Máy bay vỡ tan, nhưng không bốc cháy. Thì ra, đã có những thiếu sót từ nhà máy. Bàn tay tội ác nào đó đã láp lỏng bu-lông. Trong chuyến bay, nó văng ra và lực kéo không tác động được đến các bánh lái nữa. Điều ấy được xác định sau khi bắt quả tang kẻ phá hoại trà trộn vào đội ngũ công nhân trong dây chuyền lắp ráp các máy bay tiêm kích.

Chúng tôi phải nhắc nhở các thành phần của trung đoàn cần đề cao cảnh giác. Các đồng chí thợ máy chuẩn bị máy bay kỹ lưỡng hơn, các phi công chấp hành nghiêm ngặt hơn những quy định, những nội quy đề ra.

... Ngày mồng 5 tháng 5 - đoàn đại biểu các nông trường viên của vùng Tambôpxki đã đến dự buổi lễ trao tặng máy bay chiến đấu cho các phi công. Họ đã dành tiền tiết kiệm để mua những chiếc tiêm kích "Iak-7". Một cuộc mít tinh được tổ chức. Những nông trường viên trong buổi lễ đã nói những lời thán phục về những hành động anh hùng ngoài chiến trận, giao nhiệm vụ cho chúng tôi từ nay trở đi hãy tiêu diệt kẻ thù thẳng tay, không thương tiếc. Chúng tôi hứa trước các vị khách quý, nguyện sẽ xứng đáng với sự mong muốn và tin tưởng của nhân dân.

Sau buổi mít tinh, toàn trung đoàn bay thẳng ra mặt trận. Phi đội của tôi cất cánh đầu tiên. Sau khi tập hợp đội hình chiến đấu xong, chúng tôi vòng một vòng chào tiễn biệt và lấy hướng bay về phía Tây. Trên sườn máy bay của chúng tôi sáng lấp lánh hàng chữ còn thơm mùi sơn "Nông trường viên Tambôpxki tặng".

Chúng tôi nhanh chóng vượt qua chặng đường dài 400km, đến hạ cánh đúng vào sân bay mà mùa Thu năm 1942 trung đoàn chúng tôi từng đóng quân ở đấy. Những người thợ máy thuộc đoàn tiền trạm đến trước đón tiếp chúng tôi nồng hậu. Sư trưởng Nhemsêvich chúc mừng chuyến bay đã đến đích và thông báo rằng chúng tôi sẽ tiếp tục tập luyện cho đến khi có một trung đoàn nữa cơ động đến.

Một lần nữa, cuộc sống của những ngày bay huấn luyện lại sôi động. Chúng tôi tiến hành những chuyến bay đường dài với nhiệm vụ bay yểm hộ, thực hiện những trận không chiến với những "kẻ địch" trong những tình huống giả định khi bình thường, lúc bất ngờ và sau những trận không chiến là những chuyến bay tập công kích mục tiêu mặt đất ở trong trường bắn.

Một lần, sau khi phi đội vừa hạ cánh xong thì xuất hiện máy bay trinh sát của địch. Thằng "Junker" bay ở độ cao 5000m. Chúng tôi phát hiện quá muộn nên không thể cất cánh kịp được. Ngày hôm sau, nó lại xuất hiện trên sân bay, nhưng sớm hơn một giờ. Nó vẫn bay ở độ cao như vậy và hướng bay cũng vẫn vậy. Cự ly đến phòng tuyến mặt trận không nhỏ hơn 350km. Có lẽ, thằng này là thằng trinh sát chiến lược. Ngày hôm sau nữa, thằng phát xít lại có mặt ở trên trời. Cũng vẫn hướng cũ, độ cao như cũ, chỉ có thời gian là sớm hơn một tiếng mà thôi. Ai chà, đã có quy luật rồi đây. Trong tôi hình thành kế hoạch tiêu diệt thằng trinh sát địch. Tôi quyết định cất cánh sớm hơn giờ dự định đến của thằng trinh sát và không để cho nó chạy trốn. Quyết định cho chuyến bay ấy đã được phê chuẩn.

Ngày mồng 8 tháng 5, vào lúc 8h50, tôi tiến hành mai phục trên trời, sau khi ra lệnh cho các phi công phải quan sát trận đấu. Tôi cất cánh một mình, không cần số 2 - tôi muốn giao chiến như trong trận đấu sống mái để cho các phi công tin tưởng vào tính năng ưu việt của máy bay tiêm kích Xô viết trước máy bay trinh sát Đức.

Sau khi lấy độ cao, tôi quan sát kỹ lưỡng về hướng phán đoán kẻ địch sẽ xuất hiện. Khi đồng hồ độ cao chỉ 5000m, tôi lấy hướng bay có lợi cho việc phát hiện - là từ hướng mặt trời lại. Chẳng mấy chốc, từ phía Tây xuất hiện một chấm nhỏ. Đó là máy bay trinh sát địch. Nó phát hiện được tôi ở cự ly chưa đầy 2km. Thằng "Junker" giật mình bởi bất ngờ. Dưới nó có một tầng mây. Thằng Hítle nhanh chóng đưa máy bay vào vòng xoắn sâu. Tôi hiểu động tác nhào lộn của nó rồi, nhưng tính toán rằng nếu tôi lao qua lớp mây để đón đầu cũng không kịp. Có nghĩa là phải tìm nó ở dưới mây.

Thằng "Junker" ngụp vào mây với độ nghiêng trái. Để thoát khỏi cuộc rượt đuổi, nó cần phải vòng ngược lại phía tôi khi ở trong mây hoặc khi xuống dưới mây. Tôi vòng phải, lao qua lớp mây mỏng, đối mặt ngay với thằng phát xít. Không còn khả năng tẩu thoát, nó đành phải giao chiến với tôi.

Cuộc đấu sống mái này chỉ kết thúc khi một bên bị tiêu diệt. Không ngạc nhiên gì khi thấy thằng "Junker" bắn ngay những loạt đạn dài. Từ trên thành máy bay của nó, những vệt lửa đỏ kéo dài về phía tôi. Rõ ràng, đây là thằng trinh sát dày dạn kinh nghiệm.

Tôi quyết định tiếp cận, tấn công ở cự ly ngắn, từ phía nọ sang phía kia để loại trừ khả năng ngắm bắn của địch trong quá trình tôi tiếp cận.

Còn thằng "Junker" được chế tạo đặc biệt để đi trinh sát nên nó vòng xoáy tít mù, thậm chí lộn xuống lật qua cánh.

Chúng tôi giao chiến đến 25 phút. Thằng phát xít điên cuồng phản công. Nó làm sao thế nhỉ? Bị bỏ bùa rồi chăng? Và nếu như tôi bị hết đạn thì làm thế nào? - Tôi sẽ dùng máy bay tôi để đâm nó, quyết không cho nó chạy thoát.

Trong khi đó, thằng địch cũng biết cách cơ động cố tìm cách giành ưu thế. Nó cố đưa máy bay của tôi vào trong vòng bắn. Trên đôi cánh của chiếc "Iak" đã thấy những lỗ thủng - dấu vết của đạn địch găm vào. Cuối cùng, tôi nện một tràng đạn dài - và từ thân bên phải chiếc máy bay trinh sát tuôn ra một dải khói xanh.

- Cháy rồi! Cháy rồi! - Tôi hét qua đối không.

Thằng "Junker" có lẽ đã quyết định thu càng để hạ cánh bắt buộc. Độ cao của nó khi bắt đầu lao xuống chỉ khoảng 400m. Chiếc máy bay to lớn với hai động cơ cháy bỏng, không làm việc, lướt xuống. Và nó đã hạ cánh ở trên bãi cỏ xanh ở gần làng Chigla, trượt "bụng" một đoạn ngắn rồi khựng lại và bùng cháy.

Tôi lao xuống bay ở độ cao cực thấp, thấy các nông trường viên đã bỏ hết công việc đồng áng, chạy bổ đến chiếc "Junker". Yên tâm quay về sân bay được rồi vì bọn giặc lái sẽ không chạy đi đâu được cả.

Sau khi hạ cánh xong, tôi không thể lăn máy bay vào sân đỗ được nữa - phần tang trống của lốp máy bay đã bị bắn vỡ.

Thợ máy nhanh chóng chạy đến xem xét, tính toán thời gian cần sửa chữa, rồi tuyên bố chắc nịch:

- Thưa đồng chí chỉ huy, chỉ đến chiều là chúng tôi khắc phục xong. Sẽ lại như mới cho mà xem.

- Cậu đã nói dối tôi một lần rồi đấy nhé, - tôi nhắc để thợ máy nhớ đến trận bị bong tróc các miếng vá.

- A, đấy là trường hợp của máy bay "Kharicây", hồi ấy tôi còn có ít kinh nghiệm, bây giờ thì đã học hỏi được nhiều rồi, - cậu ta hồ hởi trả lời. Nào, đồng chí ơi, giúp cho một tay nào! - Cậu ta gọi người thợ nguội đang đứng cạnh máy bay và giơ ngực đè xuống cánh. Chiếc máy bay như người bị vấp, lăn khập khiễng trên chiếc tang trống bị vỡ.

Chiếc máy bay "Pô-2" nổ máy phành phạch gần Sở chỉ huy.

- Báo cáo đồng chí chỉ huy, chính ủy Sư đoàn cho gọi đồng chí, trợ lý tác chiến của phi đội nói. - Ông đang chuẩn bị đến chỗ chiếc "Junker".

Tôi rất muốn gặp tên giặc lái bị tôi bắn hạ. Khoảng 10 phút sau, chúng tôi đã đến chỗ chiếc máy bay bị cháy. Cạnh máy bay là xác một tên Đức. Số còn lại đã được chuyển vào bệnh xá gần đó. Tôi lên chiếc ô tô vào ngay bệnh xá để dự cuộc hỏi cung.

- Xin kính chào ngài, - viên đại tá Đức chào tôi bằng tiếng Nga khi nghe nói tôi là người vừa bắn hạ hắn.

- Ông là người phi công tài ba. Ôi, ông công kích tuyệt diệu lắm. Ngay xạ thủ dày dạn kinh nghiệm của tôi cũng không có cách gì để bắn ông được.

- Tay các ngài còn ngắn lắm, làm sao với được tới tôi!

Đến lượt tên xạ thủ của máy bay Đức nói chêm vào:

- Tiếc là máy móc của chúng tôi bị trục trặc, chứ không thì chúng tôi đã bay tít xa rồi, còn ngài - thì ở dưới kia kìa, - nó chỉ ngón tay xuống đất.

- Câm mồm, giờ thần hồn! - Tôi không kìm được, quát, sau khi biết chúng nói được tiếng Nga.

Thằng phát xít sợ hãi thụt đầu vào giữa hai vai.

- Ngài bắn chiếc của chúng tôi là chiếc thứ mấy rồi? - Viên đại tá Đức hỏi giọng nịnh bợ.

- Chiếc thứ 5, và chưa phải là chiếc cuối cùng. Các ngài có thể tin được điều ấy.

Viên đại tá im lặng một lúc, sau đó đề nghị tôi chuyển hộ cho vợ ông ta đang sống ở Hăm-buôc lá thư.

- Ngài viết đi, - tôi đồng ý. Tôi sẽ đến Hăm-buôc và sẽ chuyển đến tận tay vợ ngài.

- Thưa ông, ông tin là các ông đánh được Hăm-buôc ư? - Đại tá có vẻ bực bội. - Điều ấy còn xa vời lắm.

- Xa gần không biết, nhưng tôi sẽ. Ngài không phải lo lắng đâu. Chúng tôi sẽ đánh...

Rồi chủ nhiệm trinh sát cùng với phiên dịch vào bệnh xá.

Đồng chí lập tức tiến hành cuộc hỏi cung. Đại tá phi công lái chiếc "Junker" thuộc lực lượng trinh sát chiến lược của Bộ Tổng tham mưu. Để đổi lại tính mạng mình hắn đã cung cấp những tin đặc biệt quan trọng.

Quay trở lại sân bay, tôi mang theo hai chiếc dù chiến lợi phẩm. Chúng tôi chia cho các phi công làm thành những chiếc khăn quàng và nó nhanh chóng trở thành mốt sang trọng ngoài chiến trường. Những chiếc khăn quàng làm từ những chiếc dù chiến lợi phẩm còn nói lên một điều đấy là những người thuộc phi đội đã từng bắn rơi máy bay địch.

Từ trận không chiến của tôi với "Junker", các phi công trẻ đã rút ra được bài học rằng họ phải tin tưởng vào tính năng của máy bay mình và phải tham chiến nhiều hơn nữa.

- Các phi công của chúng ta đã trưởng thành không phải qua từng tháng, mà là từng giờ, - một lần chính trị viên phi đội Gavrilôp nói với tôi như vậy. Tất cả đều là những chàng trai tuyệt vời. Tôi chỉ không ưa có mỗi Lucavin thôi. Tôi không thấy có hình bóng phi công tiêm kích ở cậu ta.

Tư cách của Lucavin quả là không chấp nhận được. Càng gần chiến trường bao nhiêu thì cậu ta càng thắc mắc về đủ thứ bấy nhiêu: nào là không thích những trang bị trong nhà tắm, nào là chăn đắp cứng quèo, nào là sao phải nấu ăn bằng bếp dã chiến... Nhưng điều dở nhất là Lucavin bắt đầu tách dần ra khỏi tập thể. Những lỗ thủng trên máy bay tôi đã tác động đến cậu ta hoàn toàn khác so với những người khác. Nó đem đến cho cậu ta sự sợ hãi.

Với mối nguy hiểm cận kề, con người có nhiều phản ứng khác nhau. Người này thì sống trong nỗi sợ hãi trong thời gian quá dài, người khác thì lúc hiểm nguy nhất lại lấy được bình tĩnh, không để mất đi lòng can đảm. Tôi đã từng gặp những phi công của ta bị địch bắn rơi, nhảy dù và ngay sau đó lại ngồi vào máy bay khác, tiếp tục đi chiến đấu. Nhưng cũng có một số, sau khi máy bay bị thương, mãi không khôi phục lại được ý chí để có thể tham chiến một cách ổn định và vững tin như xưa.

Lucavin tạm thời chưa thuộc vào loại người nào- bởi vì cậu ta chưa hề tham chiến, nhưng chúng tôi có nhận xét rằng: cứ khi nào chúng tôi nói về những trận không chiến ác liệt là y như mặt cậu ta biến sắc.

- Nào chúng ta xem rồi sẽ đạt được gì ở cậu ta, - Cuzơmin nói. - Bản thân tôi thì: cứ nghĩ đến chiến đấu, đến những trận không chiến là tim tôi như bị đóng băng. Sẽ có người hỏi tại sao lại như vậy? Tôi cũng không biết nữa. Cũng có thể là tôi khó mường tượng những trận không chiến sẽ xảy ra như thế nào. Nhưng khi bắt đầu vào trận thì tôi lại như được thả xuống nước để được vùng vẫy. Theo tôi, - Lucavin là một kẻ hèn nhát, - Cuzia kết luận.

Có lẽ, điều khó chịu nhất ở Lucavin là cá tính của cậu ta. Cậu ta quý trọng bản thân cậu ta hơn cả tập thể, cậu ta không vì đồng đội.

Buổi chiều, tôi nghe được chuyện Cuzơmin khuyên nhủ Lucavin, rằng hạnh phúc của cuộc sống không ở chỗ sống lâu, mà là ở chỗ cống hiến được nhiều hay ít. Đã ngồi trên máy bay của chúng ta rồi thì trận chiến không có gì đáng sợ cả, - Nhicôlai nói. - Nếu như cậu phải giao chiến bằng loại máy bay "Kharicây" như tớ và phi đội trưởng từng giao chiến, thì bấy giờ cậu mới hiểu thế nào là không chiến.

Tôi không nhìn thấy mặt của Lucavin, nhưng tôi có cảm giác rằng "cục cưng" không muốn nghe lời cậu phi công trẻ theo năm tháng nhưng già dặn kinh nghiệm chiến trận kia, chỉ mỉm cười.

Liệu chúng tôi có quá khắt khe với cậu ta không? Cần phải để cậu ta thấy tất cả những quy luật khắt khe của hoạt động chiến đấu. Và tôi đã quyết định, ngay từ những trận không chiến đầu tiên tôi sẽ tạo cơ hội cho cậu ta giáp mặt kẻ thù.