← Quay lại trang sách

Chương 9 Phi đội dũng cảm

Sau khi tập kết ở sân bay một tuần, sư đoàn chúng tôi lại cơ động đến sân gần tiền duyên hơn, thuộc vùng Xcôrôtnôie. Bây giờ thì không còn là những chuyến bay tập nữa rồi, mà là những chuyến xuất kích chiến đấu. Các chuyến xuất kích của chúng tôi khi thì phải giao chiến với tiêm kích địch, lúc thì truy đuổi trinh sát địch, hoặc phải bẻ gãy những đợt oanh kích của địch. Toàn phi đội phải nằm trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Misuchin hy sinh vào ngày thứ hai sau khi chúng tôi cơ động đến Xcôrôtnôie. Tai nạn quá bất ngờ và nỗi mất mát đột ngột đã đè nặng lên tất cả chúng tôi. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chúng tôi bay về sân bay của mình ở độ cao 3000m, để đề phòng trường hợp tiêm kích địch phong toả sân bay. Có ưu thế về độ cao, chúng tôi còn có cả dầu dự trữ để có thể phá sự phong toả nếu có.

Khi tôi lệnh giải tán biên đội về hạ cánh thì máy bay của Misuchin - số 1 của biên đội thứ hai bỗng lật ngửa và quay rất nhanh theo trục dọc, lao xuống, rơi vào xoắn ốc. Liền đó là các mảnh của cánh máy bay văng lung tung.

- Nhảy dù đi! Nhảy dù đi! - Tôi hét qua đối không.

Nhưng Misuchin không nhảy ra được. Hình như, cậu ấy không thắng nổi lực ly tâm.

Máy bay bốc cháy. Phi công hy sinh.

Khi trời sẩm tối, chỉ trừ có trực ban phi đội phải ở lại, còn tất cả chúng tôi đều đi mai táng Misuchin. Tôi với cậu ta đã có tình bạn chiến đấu thực sự. Biết bao ngày chúng tôi đã từng sống với nhau trong một căn hầm! Tôi buồn bã nhớ lại những câu chuyện tâm tình về cuộc sống, về tình cảm đối với Natasa Cherennôva mà cậu ta đã thổ lộ cho tôi với sự tin cậy. Bây giờ thì em đang ở đâu, Natasa ơi?

Chúng tôi vĩnh biệt người đồng đội. Đúng lúc ấy, ở phía Tây, trong ánh mờ ảo của hoàng hôn thấy xuất hiện 5 chiếc "Hâyken". Biên đội của phi đội 2 xuất kích theo lệnh báo động. Các phi công quyết tâm trả thù. Sau khi đuổi kịp địch, họ đồng loạt nổ súng. Một chiếc ném bom của địch lập tức bốc cháy và nổ tung trên trời. Chiếc khác thì tan xác bằng chính số lượng bom nó mang theo đã phát nổ khi nó lao xuống đất. Đấy là loạt pháo chào tiễn biệt người phi công Misuchin của chúng ta.

Trong không vực của chúng tôi, thường xuyên xuất hiện bọn "săn lùng" của phát xít. Chúng lợi dụng mặt trời hoặc lẩn sau những đám mây, dùng tốc độ lớn lướt đến gần sân bay với hy vọng đón lõng được chiếc máy bay nào đó của ta ví dụ như máy bay liên lạc hay loại vận tải "Li-2" chẳng hạn. Bọn "thiện chiến" ấy của phát xít không hề dám tham chiến với chúng tôi.

Vào một ngày, khi mà trên cánh máy bay còn ướt đẫm sương đêm và những tia nắng mặt trời đầu tiên mới vừa chạm vào mặt đất thì tôi cùng với Xêmưkin đã cất cánh lên trời để đánh chặn máy bay trinh sát địch. Người cầm ống nói chỉ huy là Vaxia Xôcôlôp. Đồng chí có trách nhiệm dẫn chúng tôi đến gặp địch. Chúng tôi tuần tiễu trong khu chờ có lẽ đã đến 10 - 15 phút rồi mà không nhận được một khẩu lệnh nào. Bất ngờ, trong đối không vang lên giọng nói quen thuộc của Xôcôlôp với ngữ điệu của người vùng sông Von-ga.

- "Chim kền kền"! "Chim kền kền"! - Tôi Xôcôlôp đây. Bọn địch đang bay cùng độ cao với các anh và ở phía Bắc các anh đấy.

Tôi đưa mắt quan sát về phía Bắc và lại nghe thấy trong đối không: "Chim kền kền! Chim kền kền! - Tôi Xôcôlôp đây. Địch ở hướng 90 độ

Mấy giây sau, tôi phát hiện được loại máy bay giống như "Me-110".

- Tôi phát hiện được rồi, - tôi thông báo.

Nhưng Vaxia vẫn cứ tiếp tục thông báo, lặp đi lặp lại mỗi một khẩu lệnh đến phát chán, hệt như cái đĩa hát bị hỏng vậy.

Máy bay trinh sát địch phát hiện ra chúng tôi liền giảm độ cao và chạy về phía Đông. Tôi đuổi theo. Xêmưkin bám sau tôi. Khi khoảng cách giữa tôi và thằng trinh sát vừa đến cự ly phát hoả thì thằng dẫn đường của máy bay trinh sát nã một loạt đạn dài. Luồng đạn bay cao hơn nắp buồng lái của tôi. Xêmưkin nện ngay một loạt vào động cơ bên phải của nó để trả lời. Đạn đã găm vào hệ thống sưởi điện và từ cánh chiếc máy bay chạy trốn kia phụt ra luồng hơi nước dài. Sau đó một giây, chiếc máy bay 2 đuôi đứng kia cũng đã nằm gọn trong kính ngắm của tôi. Tôi chợt nhận ra rằng, chúng tôi đang truy đuổi chính máy bay của ta - loại máy bay ném bom của tổng công trình sư Petliacôp.

- Đình chỉ công kích, thoát ly theo tôi, - tôi ra lệnh, vừa ngoặt gấp vừa lấy độ cao.

Chúng tôi lo lắng quan sát chiếc máy bay bị thương kia cho đến tận lúc nó về hạ cánh ở sân bay gần nhất với một động cơ không làm việc. Thật không có trường hợp nào vô lý hơn, bực bội hơn, giận hờn hơn trường hợp này. Còn Vaxia Xôcôlôp thì vẫn cứ tiếp tục dẫn cứng nhắc:

- Các anh đang ở đâu? Sao lại không trả lời? - Đồng chí cứ hỏi, hỏi mãi cho đến khi chúng tôi về hạ cánh mới thôi.

Khi chúng tôi tháo dù, rời khỏi buồng lái, thì trên trời xuất hiện thằng trinh sát "Me-110" đích thực...

- Đau thật! - Xêmưkin bực bội thốt lên. Đúng là không gặp may. Máy bay mình thì suýt bị bắn hạ, còn thằng phát xít thì bay nghênh ngang.

- Cậu hơi vội đấy, Valentin Xêmenôvich ạ, sẽ đến lúc thôi. May mà cậu mới làm bị thương máy bay ta, còn không thì còn tồi tệ hơn nữa cơ, - tôi nhận xét.

- Nhưng tại máy bay kia bắn mình trước chứ, - Xêmưkin phản ứng.

- Thấy chưa, thấy kết quả thế nào chưa, - đâu chỉ đơn thuần là chuyện xuất kích, đấy là cả một lô-gich khoa học đấy.

- Tại sao các anh lại không đuổi kịp nó nhỉ? - Xôcôlôp đi tới hỏi chúng tôi.

- Chúng tôi đã đuổi kịp và còn hộ tống nó đến tận sân bay hạ cánh cơ, - Xêmưkin bực bội trả lời.

- Thật thế sao? - Vaxia mừng rỡ.

Khi chúng tôi kể lại mọi chuyện đã xảy ra như thế nào, Xôcôlôp hiểu mình cũng có lỗi nên thanh minh rằng máy bay "Pe" của ta giống "Metxersmit-110" của địch quá, hơn nữa lại quan sát ngược mặt trời nên rất khó xác định...

Sau đó một thời gian, trung đoàn chúng tôi lại cơ động đến sân bay mới.

Có lần, khi toàn phi đội chúng tôi phải trực chiến, chúng tôi ngồi trong buồng lái, chuẩn bị cho cất cánh. Từ sở chỉ huy, pháo hiệu bay vọt lên. Hai tay tôi hoạt động như cái máy, theo phản xạ lần lượt bật các công tắc trong buồng lái và phút sau, 12 chiếc tiêm kích thổi tung những đám mây bụi, cất cánh lên trời.

Trong đối không vang lên giọng bình thản của tham mưu trưởng:

- Hướng đến sân bay... Độ cao 2000m - bọn máy bay ném bom...

Chúng tôi chưa bay đến điểm vòng của hành trình thì đã thấy những đám cháy. Tám cột khói đen bốc thẳng lên trời cao - đấy là khói của những chiếc máy bay ném bom địch bị các tiêm kích trung đoàn bạn bắn rơi. Họ đã cất cánh trước chúng tôi và nện cho kẻ thù đòn chí mạng.

Chúng tôi lượn một vòng trên sân bay của trung đoàn bạn theo thứ tự từng biên đội một, rồi cả phi đội lấy hướng quay trở về sân bay mình. Toàn phi đội vừa đối chuẩn hướng xong thì đài quan sát mặt đất thông báo: "Một tốp máy bay ném bom của địch đang ở ô vuông số 2541". Tôi ra lệnh:

- Tất cả vòng lại 180 độ, theo tôi!

Ngay phía trước mặt, ở hướng đối đầu, có một tốp "Junker" bay dưới sự yểm hộ của rất nhiều tiêm kích địch. Bọn "Metxersmit" bay ở hai tầng: tầng trên làm nhiệm vụ chế áp, tầng dưới làm nhiệm vụ yểm hộ trực tiếp.

Một ai đó báo cáo:

- Thẳng phía trước chúng ta có một tốp lớn máy bay địch!

- Tôi thấy rồi, - tôi trả lời qua đối không, chúng ta tiến hành tiếp cận.

Tôi quyết định toàn phi đội sẽ tấn công đối đầu. Các phi công nhanh chóng tập hợp để chuẩn bị giao chiến.

- Hãy nện cho lũ đểu cáng này một trận! - Tôi hét lên trước lúc phát hoả và ấn cò súng. Tôi giữ "trán" thằng ném bom vào giữa kính ngắm. Trong tích tắc, toàn phi đội nã những loạt đạn dài và dùng tốc độ lớn trượt qua đội hình địch.

Bọn "Metxersmit" chưa kịp hoàn hồn thì hai chiếc máy bay ném bom của bọn chúng đã biến thành hai bó đuốc cháy rực trời. Số còn lại liền vứt bom và tháo chạy tán loạn về phía đất mình.

- Thế là xong, - tôi thầm nghĩ.

Tôi quyết định không truy đuổi nữa vì đại đa số các phi công của phi đội đều mới tham gia trận đầu, không nên liều lĩnh giao chiến tiếp. Dầu sao, chúng tôi cũng đã hoàn thành nhiệm vụ được giao là không cho địch ném bom vào mục tiêu.

Về đến sân bay, chúc mừng các phi công trẻ lần đầu tiên tham chiến xong, tôi hỏi:

- Ai phát hiện được bọn ném bom trước tiên?

- Tôi, - Lucavin trả lời.

Có thể lắm, mà điều ấy đúng vậy thật, nhưng cậu ta lại không tham gia tấn công. Khi toàn phi đội tiến hành công kích đối đầu thì Lucavin dùng tốc độ lớn bay dưới đội hình của bọn ném bom và chỉ tập hợp đội hình chiến đấu sau khi phi đội ngừng giao chiến. Nhưng tôi không đề cập đến điều ấy vào lúc này.

- Vậy còn những ai bắn bọn phát xít?

Tất cả im lặng.

- Thế các cậu có thấy máy bay địch rơi như thế nào không?

Hoá ra cũng không ai thấy cả.

- Khả năng đấy là anh bắn rơi đấy ạ, - Varsapxki phát biểu.

- Không, tôi không thể nào cùng một lúc bắn rơi hai chiếc được, tôi chỉ ngắm bắn có một chiếc thôi, - tôi phản đối và bắt đầu giải thích: thường là trong những trận công kích đối đầu, phi công không thể thấy được máy bay bị mình bắn rơi như thế nào. Máy bay bị bắn vẫn tiếp tục bay thêm vài giây nữa theo quán tính, còn phi công thời điểm ấy thì đã bay lướt qua nó rồi.

Những chiếc máy bay địch rơi được ghi vào thành tích cho các phi công trẻ để củng cố niềm tin cho họ trong trận chiến, vì trong trận ấy không có ai chứng minh được bản thân mình bắn hạ. Tất cả đều ngắm bắn nên rất khó xác định cụ thể ai là người bắn trúng.

Chiều đến, các trung đội trưởng đều phải chuẩn bị báo cáo phương án chiến đấu của trung đội mình trong hội nghị giảng bình. Giảng bình trận đánh là việc làm hàng ngày của chúng tôi.

Sau hội nghị giảng bình, tôi quyết định gặp Lucavin, tôi mời thêm cả chính trị viên Gavrilôp.

Khi ba chúng tôi đi đến một nơi vắng vẻ, Gavrilôp hỏi thẳng cậu ta:

- Này, Lucavin, cậu nói thật đi, cậu có sợ không? - Thôi, có thể không dùng từ sợ hãi - vì như vậy thì nặng nề quá, nhưng cậu có thấy lo lắng cho cuộc sống của mình không?

Lucavin nổi khùng:

- Tại sao tôi lại phải sợ mới được chứ? Các anh có ngồi cùng trong buồng lái với tôi đâu mà biết!

Khởi đầu của cuộc trao đổi đã không lấy gì làm hay ho rồi. Lucavin tỏ ra xấc xược, làm bộ làm tịch.

Bên cạnh cặp bay của Lucavin tôi thấy có chiếc phong bì thư. "Khả năng, đây là thư của nhà gửi", - tôi nghĩ vậy và quan tâm hỏi:

- Nếu không có gì bí mật thì cậu có thể cho biết cậu nhận được thư của ai không?

- Của Mẹ.

- Có thể cho đọc được không? Còn cậu đọc thư của Mẹ mình gửi cho mình đây.

Chúng tôi trao đổi thư cho nhau. Tôi đề nghị Lucavin đọc to thư của tôi:

- "Con trai ạ, hãy nện bọn phát xít không đội trời chung ấy đi, - cậu ta bắt đầu đọc một cách miễn cưỡng kèm theo cái cười miệt thị, - hãy giải phóng đất nước chúng ta khỏi bọn vô đạo, đừng lo gì cho bố mẹ ở nhà vì ở đây, ở hậu phương này, mọi chuyện sẽ khắc phục được cả thôi... Chúa sẽ phù hộ cho các con để tiêu diệt hết kẻ thù khát máu. Các thiên thần sẽ che chở cho các con và cả thánh Georghi cũng sẽ giúp các con nữa" - Mẹ tôi viết.

- Còn bây giờ ta cùng nghe xem Mẹ cậu viết gì nhé, - tôi nói. Có được không?

Cậu ta không trả lời, chỉ gật đầu và quay mặt đi.

- "Con Vađich yêu quý của Mẹ, tại sao con lại không viết thư cho Mẹ? - Mẹ của Lucavin hỏi, - Mẹ lo lắng ghê gớm về con, bởi con vẫn còn là đứa trẻ mà làm sao con lại phải ra mặt trận? Trời ơi, mẹ xót xa đến nhường nào khi mẹ không làm cách nào để giữ con, không cho con vào trường quân sự. Con có thể tốt nghiệp đại học rồi cùng vào làm việc ở nhà máy với bố con kia mà. Bây giờ thì Mẹ không thể biết được con đang ở đâu. Có chăng chỉ là mỗi cái dấu bưu điện mặt trận mà thôi. Hãy viết cho Mẹ biết họ tên người chỉ huy của con để mẹ viết cho ông ta, xin ông ta đừng đưa con vào chốn hiểm nguy nữa, và nhìn chung, con cũng đừng lao vào cái chốn ấy theo như ý nghĩ của con trẻ nữa. Các con ơi, các con đừng nghĩ rằng bom đạn sẽ chừa các con, biết bao người đã bỏ mạng rồi! Mẹ đọc báo - thấy một hành động anh hùng, khi đó lại suy nghĩ rằng anh hùng thế để làm gì và trở nên sợ hãi, việc đầu tiên là lo cho con, một người trội vượt lên thì cả trăm người chết...".

Tôi không còn tâm trạng nào để đọc tiếp bức thư nữa, vì toàn thấy những lời than vãn về cuộc sống của "thằng bé" đã ở tuổi 23.

- Đồng chí Lucavin ạ, đồng chí có biết Cuzơmin bao nhiêu tuổi không? - Gavrilôp hỏi cậu ta. - Không biết à? - Thế đấy, - đồng chí ấy 19 tuổi và đã là trung đội trưởng trung đội bay. Tại sao đồng chí lại có thể đứng ngoài cuộc được khi toàn phi đội tấn công?

Gavrilôp im lặng, chờ đợi trả lời, nhưng không nghe thấy gì hết, lại tiếp tục:

- Thế này nhé, đồng chí Lucavin. Chúng ta thoả thuận với nhau thế này nhé: hãy quên nội dung bức thư của Mẹ đi và bước vững chắc trên đôi chân của mình cùng với mọi người. Làm khác đi, - chẳng chóng thì chầy rồi sẽ gặp hạn thôi.

Tôi rời khỏi cuộc nói chuyện với tâm trạng chán ngán. Tôi hiểu rằng mọi lời khuyên nhủ, mọi lời tâm sự, dặn dò của chúng tôi không lọt được vào tai Lucavin.

- Tôi sẽ viết thư cho mẹ cậu ta, để cho bà ấy đừng bắt con mình phải tuân theo ý chí của bà ấy nữa, - Gavrilôp bực bội nói. - Và sẽ viết cho cả ông bố, để ông ta hiểu rằng một người đảng viên cộng sản kỳ cựu, giám đốc nhà máy phải có cách giáo dục con trai mình thế nào. Cần phải làm cho ông ấy thấy được trách nhiệm của người cha mới được.

Ngày hôm sau Lucavin có xuất kích, nhưng không gặp địch. Chúng tôi chưa hề thấy tư cách cậu ta thay đổi tý nào.

Những ngày căng thẳng vẫn tiếp diễn. Chúng tôi ngập trong việc trực ban chiến đấu, trong những chuyến báo động xuất kích, trong những trận không chiến.

Có một lần, tôi bay thử máy bay sau khi sửa chữa. Tôi kiểm tra độ ổn định và tính bền vững của máy bay bằng cách làm các động tác nhào lộn phức tạp hết động tác này đến động tác khác một cách liên tục. Muốn "lăn lộn" cho thật thoả thích, tôi quyết định làm động tác khoan ngang ở độ cao 600m. Ngay lúc ấy, động cơ bỗng giật mạnh, hệt như người bị mũi kim tiêm đâm bất ngờ. Tôi nghe thấy tiếng va đập, sau đó vài ba phút thì cánh quạt động cơ dừng quay, đứng chết cứng.

Sau khi lấy hướng vòng về phía sân bay, tôi hạ cánh thu càng. Máy bay như trượt trên bàn trượt tuyết, nhẹ nhàng trườn trên thảm cỏ cao rậm và dừng hẳn, nằm sóng sượt trên cánh.

Chủ nhiệm kỹ thuật sư đoàn Bôrixôp chạy đến:

- Sao thế? - Đồng chí hỏi.

- Ai mà biết được. Tôi nghĩ rằng tay biên của động cơ đã bị gãy.

- Thế sao lại hạ cánh thu càng?

- Động cơ không làm việc mà.

Ý kiến của tôi đã được khẳng định - đúng là tay biên của động cơ bị gãy thật. Chẳng bao lâu sau, phi công Aborian hy sinh đúng trong trường hợp tương tự như vậy. Những người đảng viên đã phải cảnh giác về những hiện tượng này. Vấn đề các tai nạn được đưa ra thảo luận tại cuộc họp thường vụ. Phân tích tất cả những chuyện đã xảy ra, chúng tôi đi đến kết luận: trong trung đoàn có kẻ phá hoại.

Sự nghi ngờ càng tăng thêm sau khi xảy ra trường hợp này nữa: vào cuối buổi chiều, khi tôi lăn máy bay vào sân đỗ qua đêm, thợ máy kiểm tra xong xuôi đâu vào đấy, lấy bạt trùm động cơ. Sáng hôm sau, sau khi thử động cơ xong, tôi vào buồng lái để chuẩn bị lăn, nhưng máy bay không nhúc nhích được tý nào vì càng bên phải bị gãy gập lại. Thế này là thế nào nhỉ? Càng máy bay thì không thể tự thu được rồi.

- Ai đã đến gần máy bay sau khi thử động cơ? - Tôi hỏi Vaxiliep.

- Không ai cả ngoài tôi và thợ vô tuyến Gamilitxki, - đồng chí thợ máy trả lời. - Gamilitxki kiểm tra độ chuẩn xác của các đài mà.

Vaxiliep nhớ ra rằng người thợ vô tuyến có đứng dưới cánh máy bay khoảng mấy phút với túi đồ nghề được mở sẵn ở ngay cạnh đó. vì sao khoá càng lại bị ngắt? Để làm điều đó chỉ mất mấy giây thôi. Bọn này tính toán ghê thật. Khi máy bay còn đứng ở vị trí trên sân đỗ thì nghe chừng đâu vào đấy cả, nhưng khi bắt đầu chuyển động là càng sập xuống ngay.

Đồng chí thợ máy trao đổi với tôi về những nghi ngờ của mình. Tôi cũng lo lắng không kém. Đã có cơ sở của mối ngờ vực rồi.

"Gamilitxki là ai nhỉ? - Tôi nghĩ, - người ấy vào trung đoàn này bằng cách nào nhỉ?".

Tôi hình dung lại một người lính dáng vẻ gầy gò, liên tục lấy tay kéo mũi mình khi giải thích cho Ađamôvich:

- Tôi đã từng ở bộ binh, bị thương vào cổ trong trận tấn công ở bờ bên phải của sông Đông. Bây giờ tôi được biên chế về chỗ các anh...

Trên cổ người ấy đúng là đang quấn miếng giẻ bẩn thỉu, còn người thì khoác chiếc áo va-rơi nhàu nát, rách rưới, cẩu thả trong chiếc thắt lưng rộng, giống hệt như người cả đời chưa bao giờ biết mặc quân phục là gì.

Và hắn đã vào được trung đoàn không quân!

Hầu như hắn không nói chuyện với ai, không quan tâm gì, cố lẩn trong bóng tối. Duy có một lần tôi nghe thấy Gamilitxki than thở với người kỹ sư đặc thiết Teplitxki là công việc ấy hắn không được giao phó. Qua đó, người thợ vô tuyến như muốn nói là không có được khả năng sử dụng hết sức lực và năng lực của mình.

Trong cuộc họp Đảng ủy, khi kiểm tra lại tất cả quá trình phục vụ của Gamilitxki, chúng tôi đã đi đến kết luận là chúng tôi không biết rõ thực chất người ấy là ai. Từ đó, chúng tôi phải để mắt đến người thợ vô tuyến ấy. Một thời gian ngắn sau, chúng tôi được biết người ấy còn là một thợ máy giàu kinh nghiệm, nắm rất chắc mọi cấu tạo, ngóc ngách của máy bay.

Lại báo động xuất kích. Phi đội chúng tôi tiến hành không chiến ngay trên vùng trời Tamarôpca. cả hai phía đều gửi những viện binh mới đến. Bầu trời trở nên chật chội bởi những tiêm kích quần nhau đến mệt lả. Những chiếc "Metxersmit", "Iak", "La" bay vùn vụt, những làn đạn nhằng nhịt trên không. Chúng tôi đẩy lui sự tấn công của địch hết đợt này đến đợt khác.

Bất ngờ, động cơ của máy bay tôi bị "tắc tỵ". Tay trái tôi nắm lấy tay vặn cửa dầu theo phản xạ thường ngày. Bình thường thì vặn rất dễ, nhưng sao lần này lại không thể xoay được. Làm gì bây giờ nhỉ? - Dầu thì cạn mất rồi. Tôi dùng hết sức, đến nỗi các ngón tay bị rách tướp, tứa máu ra mà vẫn chịu, không sao vặn nổi. Tôi đành thoát ly khỏi không chiến với động cơ không làm việc và cố lao về đất mình, nhưng không kịp, - máy bay tiếp đất ngay khu vực giáp tuyến trước, và lập tức có hàng chục phát đạn pháo nã vào quanh nó. Tôi vội vã nhảy ra khỏi buồng lái và chạy. Những phát đạn pháo bắn thẳng của bọn Hítle đã thiêu cháy máy bay của tôi.

Đến lúc trời tối sẫm tôi mới vác dù trên vai, dò dẫm về đến sân bay. Tôi không về hầm của mình mà đến thẳng Sở chỉ huy.

- Cuối cùng thì cậu cũng đã về, - tham mưu trưởng Vêđênhep nói khi gặp tôi. - Bị bắn rơi à?

- Việc xảy ra lại không phải thế, đồng chí thiếu tá ạ. Vấn đề là van mở thùng dầu đã bị khoá chặt cứng.

- Thế nào - bị khoá chặt à? - Vêđênhep không tin.

- Bị vặn chặt cứng lại thật. Đồng chí có tưởng được là có một thằng chó đểu nào đó trong chúng ta lại làm cái chuyện đó không, - tôi nói trong tức giận.

Làm sao mà lại không tức giận được cơ chứ? - Đây là lần thứ hai tôi gặp hạn về chuyện đểu cáng rồi.

- Rồi, thế còn máy bay ở đâu?

- Bị pháo bắn tan rồi. Chúng thấy nó rõ như trong lòng bàn tay mà.

Tham mưu trưởng suy tính. Sau một phút, đồng chí đề nghị:

- Nào, chúng ta cùng ra sân đỗ máy bay đi! Chúng ta kiểm tra xem việc khoá mở các van dầu trên máy bay khác thế nào. Có thể, khâu chế tạo còn chưa được hoàn hảo cũng nên. Các van dầu chúng ta đều phải vặn bằng tay mà.

Chúng tôi cùng ra sân đỗ với chủ nhiệm kỹ thuật. Cả ba cùng đến phía các máy bay. Chúng tôi gặp Gamilitxki ở đó. Hắn ngồi trong buồng lái của một máy bay, nghe chừng như đang tập trung dò tìm sóng đài.

- Cậu làm gì đấy? - Chủ nhiệm kỹ thuật hỏi.

- Dạ thưa, tranh thủ lúc thợ máy đang đi ăn tối, tôi kiểm tra độ nhạy của máy thu đối không ạ, - thợ vô tuyến bình tĩnh trả lời.

Sau khi trèo lên cánh máy bay, chủ nhiệm kỹ thuật thò tay vào trong thành buồng lái, sờ vào tay dầu, thử vặn. - Van dầu đã bị khoá chặt cứng.

Đúng là một sự phá hoại mới!

Vêđênhep định hỏi Gamilitxki điều gì đấy, nhưng bất ngờ, hán nhảy ra khỏi buồng lái và chạy về phía rừng.

- Đứng lại, thằng đểu cáng! Giơ tay lên! - Tôi quát và chạy bổ theo hắn.

Trong bóng tối vang lên tiếng súng. Liền sau đó là tiếng quát:

- Nói láo, mày không chạy được đâu!

Trung sĩ Xebêep tình cờ đi qua và đã nhào vào tên thợ vô tuyến, bẻ quặt tay hắn ra đằng sau, giữ chặt.

Trong cuộc hỏi cung, Gamilitxki thú nhận rằng hắn là dân Đức chính nòi. Một thời gian dài hắn sống cùng với bố hắn ở nước Nga để học lớp đào tạo gián điệp và phá hoại.

Sau vụ bắt "thợ vô tuyến", mọi hỏng hóc các chi tiết trên máy bay cũng không thấy xuất hiện nữa.