← Quay lại trang sách

PHẦN III

Tôi mua ở chợ một khẩu súng lục của người đánh trống đã nạp sẵn bốn viên đạn. Tôi tự bắn vào ngực, định bắn trúng tim, nhưng viên đạn chỉ xuyên qua phổi. Một tháng sau, tôi rất ngượng, thấy mình ngu xuẩn đến cực độ, tôi lại đến làm việc ở hiệu bánh mì.

Nhưng làm ở đấy không được bao lâu, tới cuối tháng Ba, vào một buổi chiều, khi từ lò bánh mì đi tới cửa hiệu, tôi trông thấy Khokhol trong phòng của cô bán hàng. Anh ta ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ, hút điếu thuốc lá to với vẻ đăm chiêu, mắt chăm chú nhìn đám khói.

– Anh có rỗi không? ‒ Anh ta không chào mà hỏi thẳng tôi.

– Rỗi độ hai mươi phút thôi.

– Mời anh ngồi xuống đây, chúng ta nói chuyện với nhau một lát.

Như mọi khi, anh mặc chiếc áo bằng loại vải “bao tải” bó chặt lấy người, bộ râu vàng óng buông thõng xuống bộ ngực nở, trên vầng trán bướng bỉnh nhô ra một mớ tóc cứng cắt ngắn, chân đi đôi ủng nặng nề kiểu bần nông, từ đôi ủng tỏa ra mùi si nồng nặc.

– Này! ‒ Anh ta nói khe khẽ, vẻ bình thản.‒ Anh có muốn đến chỗ tôi ở không? Tôi ở làng Krasnovidovo cách đây bốn mươi nhăm versta xuôi theo dòng sông Volga. Tôi có một cửa hiệu nhỏ ở đó, anh sẽ giúp tôi trong việc buôn bán, việc này làm anh mất một chút ít thì giờ thôi. Tôi có nhiều sách hay, tôi sẽ giúp anh học tập. Anh đồng ý chứ?

– Vâng.

– Tới thứ sáu này, vào lúc sáu giờ sáng mời anh đến bến tàu Kurbatov, hỏi thăm chiếc thuyền từ Krasnovidovo tới, chủ thuyền là Vassili Pankov. Tuy vậy, tôi sẽ có mặt ở đó và đón anh. Thôi, tạm biệt!

Anh ta đứng dậy, chìa bàn tay to lớn ra bắt tay tôi, còn tay kia rút từ túi áo ngực ra chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc nặng trình trịch và nói:

– Chúng ta đã kết thúc câu chuyện trong vòng sáu phút! À, tên tôi là Mikhailo Antonovich, họ là Romass. Như thế nhé.

Anh bước ra khỏi cửa, không hề ngoái lại, bước đi có vẻ rắn chắc, thân hình cường tráng nặng như đúc ấy di chuyển một cách nhẹ nhàng.

Hai ngày sau tôi đi thuyền tới Krasnovidovo.

Băng trên sông Volga vừa bắt đầu tan, trên mặt sông những tảng băng lớn lởm chởm màu xám bập bềnh trôi theo dòng nước đục. Chiếc thuyền vượt lên trước những tảng băng, băng cọ sát vào mạn thuyền kêu ken két và bị phá tan ra thành những tinh thể nhọn hoắt. Một làn gió từ thượng nguồn thổi về như nô đùa, xua lớp sóng vào bờ. Ánh mặt trời lấp lánh làm lóa mắt, những chùm tia sáng nhỏ sáng loáng phản chiếu từ phía sườn những tảng băng màu xanh nhạt như thủy tinh. Chiếc thuyền chất đầy thùng gỗ lớn, bao tải, hòm gỗ đang căng buồm chạy. Trên bánh lái là chàng bần nông trẻ tuổi Pankov, mặc chiếc áo sang trọng bằng da cừu thuộc trên ngực có thêu một dải nhỏ nhiều màu.

Khuôn mặt anh trầm tĩnh, cặp mắt trông có vẻ lạnh lùng, tính anh lặng lẽ và ít giống một bần nông. Kukushkin, một cố nông của Pankov, cầm chiếc sào có móc ở đầu, đứng dạng chân phía mũi thuyền. Đó là một cố nông xấu xí, đầu tóc rối bù, mặc chiếc áo rách rưới, thắt dây thừng ngang lưng, đầu đội chiếc mũ nhàu nát kiểu cố đạo, khuôn mặt đầy vết tím bầm và sây sát. Anh lấy chiếc sào dài đẩy những tảng băng, miệng chửi rủa với giọng khinh miệt:

– Tránh ra… Bò đi đâu đấy…

Tôi cùng Romass ngồi dưới cánh buồm, trên những chiếc hòm, anh nói khẽ với tôi:

– Những bần nông không thích tôi, nhất là bọn phú nông! Cả anh nữa, rồi cũng sẽ bị họ ghét như vậy.

Kukushkin đặt chiếc sào dưới chân, ngang mạn thuyền, rồi quay khuôn mặt tàn tật về phía chúng tôi và nói với vẻ thích thú:

– Nhất là ông cố đạo, Antonich ạ, ông ta không thích anh đâu…

– Đúng thế. ‒ Pankov xác nhận.

– Đối với hắn, con chó đốm ấy, anh dường như một miếng xương mắc trong cuống họng!

– Nhưng tôi cũng có bè bạn, và họ cũng sẽ là bạn của anh. ‒ Khokhol nói tiếp.

Trời lạnh. Nắng tháng Ba còn rất dịu. Trên bờ sông những cành cây trụi lá đen sẫm đu đưa, ở một đôi nơi trong các khe và dưới những bụi cây trên bờ sông dốc còn sót lại những đám tuyết mịn như nhung. Khắp mặt sông là những tảng băng giống như một đàn cừu trắng đang ăn cỏ. Tôi cảm thấy mình như đang sống trong một giấc mơ.

Kukushkin vừa nhồi thuốc vào tẩu vừa triết lí:

– Anh không phải là vự lão cha cố ấy, điều đó thì khá rõ rồi. Nhưng việc của hắn là phải yêu mến chúng sinh, điều ấy đã ghi rõ trong sách, có phải thế không?

– Thế ai đã đánh anh? ‒ Romass mỉm cười hỏi.

– Lũ đốn mạt nào đó, chắc là bọn kẻ cắp. ‒ Kukushkin nói với vẻ khinh bỉ. Sau đó anh nói tiếp với giọng kiêu hãnh. ‒ Không, không phải thế, có một hồi bọn pháo thủ đã đánh tôi, chuyện đó có thật! Tôi cũng không hiểu rõ tại sao tôi còn sống sót đến ngày nay nữa.

– Vì sao họ đánh anh?‒ Pankov hỏi.

– Anh định hỏi chuyện hôm qua hay là chuyện bọn pháo thủ?

– Phải, hôm qua ấy?

– Hừm, làm sao có thể hiểu được người ta đánh vì tội gì? Dân địa phương chúng tôi giống như những con dê, hơi một tí là húc luôn! Họ coi chuyện đánh nhau như cơm bữa ấy.

– Tôi nghĩ rằng… ‒ Romass nói.”… Họ đánh anh vì tội lắm mồm, anh ăn nói thiếu thận trọng.

– Có lẽ thế! Tính tôi hay tò mò, có thói quen cái gì cũng hỏi. Hễ nghe được chuyện gì mới là tôi vui mừng không thể tả được.

Mũi thuyền đụng mạnh vào một tảng băng, hai bên mạn thuyền nghe ào ào rất dữ tợn. Kukushkin lảo đảo nắm vội chiếc sào. Pankov nói vẻ trách móc:

– Anh hãy để ý tới công việc một chút, Stepan ạ!

– Anh cũng đừng nói chuyện với tôi nữa! ‒ Kukushkin vừa đẩy những tảng băng ra vừa lẩm bẩm. ‒ Tôi không thể cùng một lúc vừa làm công việc của mình vừa nói chuyện với anh…

Họ tranh cãi không có vẻ gì giận dữ. Romass nói với tôi:

– Ruộng đất ở đây xấu hơn so với ở Ukraina của chúng tôi, nhưng con người thì tốt hơn. Toàn là những người tài giỏi!

Tôi chú ý nghe anh và rất tin anh. Tôi thích tính điềm tĩnh và lời nói đều đều, giản dị, xác đáng của anh. Tôi có cảm giác con người này hiểu biết nhiều và anh rất trân trọng bạn bè. Tôi thích nhất là anh không hỏi tại sao tôi tự sát! Nếu là người khác ở địa vị anh thì họ đã hỏi từ lâu rồi. Mà tôi đã chán ngấy cái câu hỏi ấy. Và cũng khó mà trả lời. Có quỷ mới biết được tại sao tôi quyết định tự sát. Giá Khokhol có hỏi thì có lẽ tôi sẽ trả lời rất dài dòng và ngớ ngẩn. Tôi không bao giờ muốn nhớ lại chuyện ấy nữa, nhất là khi ở trên dòng sông Volga vừa đẹp, vừa phóng khoáng và lấp lánh này.

Chiếc thuyền bơi sát bên bờ lở; con sông phình rộng về bên trái, nước tràn vào bờ cát của cánh đồng cỏ. Có thể nhìn thấy rõ nước sông dâng lên, vỗ oàm oạp và làm rung rinh những bụi cây ven bờ, dòng nước lũ mùa xuân trong sáng chảy ầm ầm, gặp nước sông ở những chỗ đất trũng và khe đất. Mặt trời như mỉm cười, và trong ánh nắng lấp lánh, những đàn quạ mỏ vàng với bộ lông đen nhánh như thép vừa làm tổ vừa kêu quang quác vẻ bận rộn. Ở chỗ có ánh nắng, đám cỏ xanh mơn mởn mọc lên tươi tốt. Thân thể thì lạnh nhưng trong lòng như có một niềm vui lặng lẽ và cũng nảy sinh những mầm hi vọng tươi sáng, dịu dàng, mùa xuân trên trái đất thật là đẹp.

Đến trưa, thuyền của chúng tôi tới Krasnovidovo. Trên một quả núi cao bị cắt dựng đứng có một ngôi nhà thờ nóc sơn màu xanh da trời. Phía sau nhà thờ là những ngôi nhà gỗ đẹp và chắc chắn nối đuôi nhau chạy dài theo sườn núi. Những mái nhà lợp ván vàng và những lớp rạ như gấm thêu bóng loáng. Thật là giản dị và đẹp mắt.

Đã bao nhiêu lần tôi ngắm nghía ngôi làng này mỗi khi đi tàu thủy ngang qua.

Khi tôi cùng Kukushkin bắt đầu dỡ hàng ở thuyền xuống, Romass vừa chuyển cho tôi các bao tải từ trên thuyền vừa nói:

– Anh thì chắc là phải khỏe!

Và không nhìn tôi, anh hỏi tiếp:

– Không đau ngực chứ?

– Không đau chút nào.

Tôi rất cảm động với câu hỏi tế nhị của anh. Vì tôi rất không muốn để những bần nông biết chuyện tôi định tự sát.

– Sức của anh có thể nói là khỏe quá mức. ‒ Kukushkin ba hoa. ‒ Anh người tỉnh nào? Nizhny ‒ Novgorod à? Thiên hạ thường chê các anh là sống bằng đường sông nước. Và còn có một câu nữa: “Chà, hãy xem chim hải âu từ đâu bay tới.” Câu đó cũng nói về các anh đấy!

Một bần nông cao, gầy, đi chân đất, mặc áo cánh, quần dài, có bộ râu cằm loăn xoăn, đội chiếc mũ lông rậm, mái tóc hơi hung hung, rảo bước từ trên đồi xuống. Anh ta đi theo bờ dốc, trên đám đất sét nhão nhoẹt, giữa những dòng suối lấp lánh như bạc. Thỉnh thoảng anh ta lại bị trượt chân và bước loạng choạng.

Khi tới gần bờ, anh nói bằng giọng vang vang và dịu dàng:

– Chào các bạn đã về.

Anh nhìn quanh, nhấc một chiếc sào to lên, rồi lại nhấc một chiếc khác, sau đó gác đầu hai chiếc sào lên mạn thuyền rồi nhẹ nhàng nhảy lên thuyền và ra lệnh cho chúng tôi:

– Giẫm chân vào đầu sào kẻo trượt từ mạn thuyền xuống, rồi đón lấy thùng nhé. Anh bạn trẻ, lại đây đỡ một tay.

Anh đẹp như trong tranh và nom rất khỏe. Cặp mắt xanh biếc sáng một cách nghiêm nghị trên khuôn mặt hồng hào với chiếc mũi to, hơi cao của anh.

– Izot, khéo không bị cảm lạnh đấy. ‒ Romass nói.

– Ai, tôi ấy à? Đừng lo.

Sau khi lăn thùng dầu hỏa lên bờ, Izot chăm chú nhìn tôi và hỏi:

– Anh đến làm người quản lí à?

– Thử đấu với hắn một trận xem. ‒ Kukushkin gợi ý.

– Người ta lại đánh vỡ cái mặt mẹt của anh rồi à?

– Biết làm thế nào với quân ấy được?

– Quân nào?

– Bọn đánh mình ấy…

– Chà! ‒ Izot thở dài và quay về phía Romass. ‒ Xe ngựa sắp xuống đấy. Tôi đã trông thấy các anh bơi thuyền từ đằng xa. Bơi khá lắm. Antonich, anh đi về đi! Để tôi ở lại đây trông hàng cho.

Rõ ràng là anh ta đối xử với Romass rất thân mật và ân cần, thậm chí có vẻ như che chở, mặc dù Romass hơn anh đến chục tuổi.

Nửa giờ sau tôi đã ngồi trong gian phòng sạch sẽ và rất tiện nghi của một căn nhà gỗ mới xây, vách còn sặc mùi nhựa cây và xơ đay. Một người đàn bà linh lợi, có cặp mắt sắc sảo dọn bàn để sửa soạn bữa ăn trưa. Khokhol lấy sách từ trong va li ra, đặt lên giá sách ở cạnh lò sưởi.

– Phòng của anh ở trên gác xép. ‒ Anh nói.

Qua cửa sổ trần có thể nhìn thấy một vùng trong làng, đối diện với căn nhà gỗ của chúng tôi là một cái khe, ở đó có những mái nhà tắm nhô lên giữa các bụi cây. Bên kia khe là các khu vườn và cánh đồng đen sẫm lượn theo những sườn dốc đất mềm và kéo dài về phía khu rừng xanh xa xa phía chân trời. Một bần nông mặc quần áo xanh ngồi trên nóc nhà tắm, tay cầm rìu, tay giơ lên che mắt nhìn xuống phía sông Volga. Bánh xe ngựa kêu ken két. Một con bò rống lên có vẻ mệt nhọc. Tiếng suối réo ầm ầm. Một bà lão mặc toàn đồ đen từ cổng một căn nhà gỗ bước ra, vừa ngoái đầu lại phía cổng vừa nói với giọng dọa nạt:

– Chúng mày muốn chết đấy phỏng!

Nghe thấy tiếng bà, hai đứa trẻ đang lấy đá và bùn chặn dòng suối liền ba chân bốn cẳng chạy mất. Bà lão nhặt chiếc dăm gỗ vụn ở dưới đất lên, nhổ toẹt vào đó rồi ném xuống suối. Sau đó bà đưa bàn chân đi đôi ủng của nam giới giẫm nát “công trình xây dựng” của bọn trẻ và đi xuống phía sông Volga.

Ở đây tôi sẽ sống ra sao?

Người ta gọi tôi đi ăn trưa. Dưới nhà, Izot ngồi bên bàn, duỗi hai chân dài ngoằng ngoẵng với đôi bàn chân đỏ tía ra và đang nói gì đó, nhưng trông thấy tôi anh chợt im bặt.

– Anh làm sao thế? ‒ Romass cau mày hỏi. ‒ Nói đi chứ!

– Tôi đã nói hết rồi, không có gì để nói nữa. Có nghĩa là chúng ta đã quyết định như thế; chúng ta sẽ tự khắc phục. Đi đâu là anh phải mang theo súng lục hoặc một chiếc gậy to. Trước mặt Barinov ăn nói phải thận trọng, lưỡi hắn và Kukushkin như lưỡi đàn bà ấy. Còn anh bạn trẻ, anh có thích đi đánh cá không?

– Không.

Romass bắt đầu nói về sự cần thiết phải tập hợp các bần nông, những người chủ vườn nhỏ lại, lôi họ ra khỏi bàn tay bọn lái buôn. Izot chăm chú nghe rồi nói:

– Thế nào rồi bọn cường hào cũng chẳng để anh sống yên đâu.

– Chúng ta thử xem sao.

– Đấy rồi xem!

Tôi nhìn Izot và nghĩ bụng:

“Chắc hẳn Karonin[54] và Zlatovratsky [55] đã lấy những bần nông như thế này viết thành truyện đấy.”

Phải chăng tôi đã được tham gia vào một việc quan trọng và bây giờ tôi sẽ hoạt động cùng với những người có sự nghiệp chân chính?

Ăn xong, Izot nói:

– Mikhailo Antonovich, anh không nên vội vàng, việc tốt thường không thể hấp tấp được, cần phải từ từ!

Khi anh đi khỏi, Romass nói vẻ trầm ngâm:

– Anh ấy là một người thông minh, chân thật. Tiếc rằng học vấn thấp, mới biết đọc võ vẽ thôi. Nhưng anh ấy kiên quyết học. Anh hãy giúp đỡ anh ấy nhé!

Romass vừa giới thiệu cho tôi giá các mặt hàng ở cửa hiệu vừa kể chuyện đến tận tối mịt:

– Tôi bán rẻ hơn so với hai chủ hiệu khác trong làng. Tất nhiên điều đó làm họ không thích. Họ làm những chuyện đê mạt đối với tôi, định đánh tôi. Tôi sống ở đây không phải vì tôi thích hay vì buôn bán có lời, mà là vì những lí do khác. Ý định ấy cũng giống như hiệu bánh mì của các anh…

Tôi bảo rằng tôi cũng đoán được điều đó.

– Đúng… Cần phải dạy cho mọi người trí sáng suốt, phải không?

Cửa hiệu đã đóng, chúng tôi cầm đèn đi đi lại lại bên trong. Ngoài đường cũng có ai đó đi đi lại lại, rón rén trên bùn, thỉnh thoảng trèo lên bậc cửa một cách nặng nhọc.

– Đấy, anh có nghe thấy không? Có tiếng người đi lại! Đó là Migun, một bần nông sống độc thân, một con vật độc ác. Hắn thích làm điều ác giống như một cô gái đẹp thích làm đỏm. Anh nói chuyện với hắn phải thận trọng và không chỉ riêng với hắn, mà nói chung…

Sau đó, Romass trở về phòng, ngồi hút thuốc, tựa cái lưng to lớn vào thành lò sưởi và nheo mắt lại, nhả những làn khói qua bộ râu. Chậm rãi ghép những tiếng rời rạc thành những câu nói giản dị và trongsáng, anh kể rằng đã từ lâu anh nhận thấy tôi tiêu phí tuổi thanh xuân một cách vô ích.

– Anh là một người có tài năng, bản chất ngoan cường và chắc là có những mong muốn tốt đẹp. Anh cần phải học tập, nhưng làm sao đừng để sách vở che khuất mất những người xung quanh. Có một ông già thuộc giáo phái nào đó nói một câu rất đúng: “Bất cứ điều giáo huấn nào cũng đều ở con người mà ra.” Điều mà thực tế cuộc sống dạy cho anh thì đau khổ hơn những điều học được trong sách. Cách dạy của thiên hạ thường thô bạo, nhưng điều anh học được bằng cách ấy sẽ mãi mãi in sâu trong tâm khảm.

Anh nói những điều đã quen thuộc với tôi, rằng trước hết cần phải thức tỉnh trí tuệ của nông dân. Nhưng trong những lời quen thuộc ấy tôi nắm được ý nghĩa sâu sắc hơn, và dường như là mới mẻ đối với tôi.

– Sinh viên ở chỗ anh hay ba hoa về tình thương yêu nhân dân, tôi có nói với họ về việc này như sau: Không thể yêu nhân dân được đâu. “Yêu nhân dân” chỉ là lời nói suông…

Nụ cười của anh thấp thoáng sau bộ râu, anh nhìn tôi với vẻ tò mò rồi bắt đầu đi bước một trong phòng và nói tiếp, giọng chắc nịch, oai nghiêm:

– Yêu có nghĩa là tán thành, khoan dung, không dám nhận xét, dễ tha thứ. Cái đó chỉ cần thiết với đàn bà thôi. Còn đối với nhân dân, có thể nào không nhận thấy sự dốt nát của họ, tán thành những ý nghĩ sai lầm của họ, khoan dung đối với bất cứ sự đê tiện nào của họ, tha thứ tính tàn bạo của họ? Có thể như thế không?

– Không.

– Đấy! Ở chỗ anh tất cả mọi người đều đọc và hát “những bài phổ thơ của Nekrassov[56]”. Này, anh biết không, chỉ dựa vào Nekrassov thì không thể làm nên trò trống gì đâu. cần phải khuyên bảo những bần nông: “Người anh em ạ, tuy bản chất anh là người tốt nhưng anh sống tồi tàn và không biết làm gì để cho cuộc sống của anh trở nên dễ chịu hơn, tốt đẹp hơn. Con thú rừng có lẽ còn biết chăm sóc mình một cách khôn ngoan hơn anh, con thú rừng còn biết bảo vệ mình giỏi hơn anh. Thế mà các anh, những bần nông, đã sản sinh ra tất cả. Phái quý tộc, giới tu hành, các nhà bác học, vua chúa, tất cả đều là những bần nông ưước đây. Anh có thấy không? Đã hiểu chưa? Vậy thì anh hãy học cách sống để người ta khỏi làm nhục anh…”

Anh đi xuống bếp, bảo bà đầu bếp đặt ấm samovar.

Sau đó anh đưa cho tôi xem những cuốn sách của anh ‒ hầu hết là sách khoa học, trong đó có những tác giả sau: Buckle[57], Lyell[58], Lecky[59], Lubbock[60], Taylor[61], Mill, spencer[62], Darwin, trong số các tác giả Nga có Pisarev, Dobrolyubov[63], Chernyshevsky, Puskin, Chiến hạm Pallada của Goncharov[64], tác phẩm của Nekrassov.

Anh đưa bàn tay to lớn vuốt ve những cuốn sách với vẻ âu yếm hệt như vuốt ve những con mèo con, rồi anh nói với giọng vô cùng xúc động:

– Toàn là những sách hay cả đấy! Đây là một cuốn sách rất hiếm đã bị sở kiểm duyệt ra lệnh đốt. Anh muốn biết thực chất nhà nước là gì thì hãy đọc cuốn sách này!

Anh đưa cho tôi cuốn sách Leviathan của Hobbes[65].

– Cuốn sách này cũng nói về nhà nước nhưng dễ hiểu hơn, vui hơn!

Thì ra cuốn sách vui ấy là cuốn Quốc vương của Mackiaveli [66].

Trong lúc uống trà, anh kể vắn tắt về bản thân: Anh là con một người thợ rèn ở tỉnh Chernigov, đã từng làm công nhân tra dầu máy cho xe lửa ở ga Kiev, ở đó anh đã làm quen với các nhà cách mạng, đã tổ chức một nhóm công nhân tự học, vì vậy anh bị bắt và phải ngồi tù khoảng hai năm, sau đó anh bị đày tới vùng Yakutsk mười năm trời.

” Lúc đầu tôi sống cùng với dân Yakutsk, trong một ulus[67]. Tôi tưởng tôi chết mất. Anh có biết không, mùa đông ở đấy lạnh đến nỗi óc người cũng phải đông lại. Ở đấy có trí tuệ cũng bằng thừa. Sau đó, tôi nhận thấy: Đây đó rải rác có người Nga sinh sống, tuy không nhiều, nhưng dù sao vẫn có! Hình như để người Nga khỏi quá buồn chán, người ta đã chu đáo bổ sung thêm những người mới đến. Họ toàn là người tốt. Trong số đó có cả chàng sinh viên Vladimir Korolenko[68] ‒ bây giờ anh ta cũng đã trở về rồi. Một thời gian tôi với anh ta sống với nhau rất thân, sau đó chúng tôi xa nhau. Chúng tôi có rất nhiều điểm hợp nhau, nhưng tình bạn không thể chỉ dựa trên sự hợp nhau. Anh ta là một người chín chắn, ngoan cường, có khả năng làm mọi việc. Thậm chí anh ta biết họa cả tượng thánh, cái đó thì tôi không thích. Bây giờ nghe nói anh ta viết cho các tạp chí khá lắm.

Anh nói chuyện rất lâu, đến tận nửa đêm. Có lẽ anh muốn ngay tức khắc đặt tôi bên cạnh anh một cách vững chắc. Lần đầu tiên tôi cảm thấy không gì vui sướng bằng có bầu có bạn. Sau lần định tự tử, con mắt tôi nhìn bản thân mình khác hẳn. Tôi thấy mình rất nhỏ bé, hình như có tội với ai đó, và tôi sống một cách hổ thẹn. Có lẽ Romass hiểu điều đó, anh đã cởi mở lòng mình một cách nhân từ và tự nhiên. Anh đã uốn nắn tôi. Đó thật là một ngày không bao giờ quên.

Chúng tôi mở cửa hiệu để bán hàng vào ngày Chủ nhật, sau buổi lễ sáng. Ngay khi ấy những bần nông kéo đến hiên nhà chúng tôi. Người đầu tiên tới là Matvei Barinov, bẩn thỉu, đầu tóc rối bù, tay dài như tay khỉ, vẻ nhìn lơ đãng với cặp mắt đẹp như mắt phụ nữ.

– Có nghe thấy tin gì ở ngoài thành phố không? ‒ Anh ta hỏi sau khi chào.

Rồi không chờ trả lời, anh ta quay về phía Kukushkin và kêu lên:

– Stepan! Mấy con mèo của anh lại vừa xơi mất một con gà trống nữa!

Tiếp theo, anh ta kể rằng viên tổng đốc vừa mới từ Kazan đi St. Petersburg để yết kiến nhà vua và tâu xin vua ra lệnh đuổi tất cả dân Tatar đến Caucasus và Turkestan. Anh khen ngợi viên tổng đốc:

– Một con người thông minh! Am hiểu công việc của mình…

– Tất cả những chuyện ấy đều do anh bịa đặt ra cả. ‒ Romass điềm tĩnh nhận xét.

– Tôi ấy à? Bao giờ?

– Tôi không biết…

– Antonich, sao anh thiếu tin tưởng ở con người đến thế? ‒ Barinov nói vẻ trách móc và lắc đầu ra vẻ thương hại. ‒ Tôi thương những người Tatar lắm, sống ở Caucasus phải quen mới được.

Một người bé nhỏ, gầy gò, mặc chiếc áo rách rưới thừa hưởng từ người khác, rón rén lại gần. Chứng kinh giật khiến khuôn mặt xám của ông ta méo xệch đi, cặp môi thâm sì mấp máy thành một nụ cười đau đớn. Con mắt trái sắc sảo của ông ta chớp liên tục, phía trên là cặp lông mày bạc trắng rung rung, bị những vết sẹo cắt ngang.

– Chào anh Migun! ‒ Barinov nói giọng giễu cợt. ‒ Đêm hôm qua anh đã xoáy được những gì?

– Xoáy được tiền của anh. ‒ Migun đáp, giọng lanh lảnh, sau khi ngả mũ chào Romass.

Pankov ‒ chủ nhà, đồng thời là người láng giềng của chúng tôi ‒ từ trong sân bước ra. Anh ta mặc chiếc áo vest, cổ quàng khăn đỏ, đi đôi giày calosi[69] bằng cao su, ngực đeo sợi dây bạc giống như dây cương ngựa. Anh chăm chú nhìn Migun bằng cặp mắt giận dữ.

– Con quỷ già ạ, anh mà trèo vào vườn nhà tôi thì tôi sẽ lấy cọc nện què chân cho mà xem!

– Bắt đầu câu chuyện thường lệ… ‒ Migun điềm tĩnh nói, thở dài rồi tiếp. ‒ Nếu không đánh người khác thì sống làm sao được?

Pankov bắt đầu chửi mắng Migun, nhưng Migun vẫn nói:

– Tôi đã già là thế nào? Mới có bốn mươi sáu tuổi đầu…

– Hôm lễ Giáng sinh vừa rồi anh đã năm mươi ba tuổi. ‒ Barinov thét lên.‒ Chính anh cũng nói là năm mươi ba tuổi! Tại sao lại nói dối?

Ông lão Suslov[70], một người đã có tuổi có bộ râu dài, cùng chàng đánh cá Izot đi tới. Thế là có khoảng mươi người tụ tập với nhau. Khokhol ngồi trên bậc tam cấp, cạnh cửa ra vào, miệng ngậm tẩu, im lặng nghe câu chuyện của đám bần nông. Họ ngồi ở bậc tam cấp và trên những ghế dài nhỏ đặt ở hai bên.

Một ngày giá lạnh rực rỡ. Trên bầu trời xanh biếc vẫn ám hơi giá buốt của mùa đông có những đám mây trôi nhanh. Ánh nắng và bóng râm lung linh tắm mình trong các dòng suối và vũng nước, lúc chói lòa, lúc như vuốt ve cặp mắt bằng vẻ mềm mại như nhung. Những cô gái ăn mặc diêm dúa như những con công nhởn nhơ trên đường phố, xuôi về phía sông Volga. Khi bước qua vũng nước, họ xách gấu váy lên, để lộ những chiếc giày nặng trình trịch. Nhiều em nhỏ vác những chiếc cần câu dài trên vai chạy lăng xăng. Một toán bần nông bệ vệ vừa đi vừa liếc nhìn đám bần nông ngồi ở cửa hiệu chúng tôi và lặng lẽ nhấc chiếc mũ lưỡi trai hoặc mũ nỉ lên chào.

Migun cùng với Kukushkin thân mật bàn bạc một vấn đề không rõ ràng: Ai đánh đau hơn ‒ lái buôn hay địa chủ? Kukushkin chứng minh là lái buôn, còn Migun thì bảo vệ phương án địa chủ. Giọng nói lanh lảnh của Migun át giọng nói rời rạc của Kukushkin.

– Cụ thân sinh ra ông Fingerov từng xách râu Napoleon Bonaparte. Còn ông Rngerov có lần đã nắm lấy cổ áo lông cừu của hai người, dang tay ra và đập trán họ vào nhau đánh bốp một cái ‒ thế là xong! Cả hai đều nằm thẳng cẳng.

– Đánh thế thì ai mà chẳng ngãi ‒ Kukushkin tán thành nhưng nói thêm. ‒ Nhưng dù sao thì lái buôn vẫn ăn khỏe hơn địa chủ…

Ông lão Suslov đáng kính ngồi ở bậc tam cấp trên cùng cũng than phiền:

– Này Mikhailo Antonovich, bần nông trên trái đất này trở nên yếu đuối lắm rồi. Dưới thời địa chủ không ai được phép sống vô ích, mỗi người đều bị gắn chặt vào công việc…

– Thế thì bác hãy đệ đơn xin người ta lập lại quyền chiếm hữu nông nô đi. ‒ Izot trả lời ông lão.

Romass im lặng nhìn Izot và gõ tẩu thuốc lá vào tay vịn của tam cấp.

Tôi chờ xem khi nào Romass sẽ bắt đầu nói. Và trong khi lắng nghe câu chuyện rời rạc của đám bần nông, tôi cố tưởng tượng xem Khokhol sẽ nói những gì. Tôi có cảm tưởng rằng anh đã bỏ lỡ nhiều dịp tốt để xen vào câu chuyện của họ. Nhưng anh im lặng một cách thờ ơ và ngồi không nhúc nhích như một bức tượng gỗ, mắt theo dõi làn gió thổi trên các vũng nước làm thành những vết gợn lăn tăn và xua đuổi những đám mây, dồn chúng lại thành một đám đen kịt. Trên sông có tiếng còi tàu, ở phía dưới vẳng lên tiếng hát the thé của các cô gái và tiếng đàn phong cầm. Một gã say rượu đi xuôi xuống phố. Gã vừa đi vừa nấc và la hét, hai tay múa may, chân cong cong một cách không tự nhiên, rồi ngã vào vũng nước. Đám bần nông mỗi lúc nói một chậm rãi hơn, trong lời nói của họ lộ ra vẻ chán nản. Tôi cũng cảm thấy một nỗi buồn thầm lặng bởi bầu trời lạnh lẽo đang báo trước một cơn mưa! Tôi nhớ lại cảnh ồn ào không ngớt của thành phố, những âm thanh muôn màu muôn vẻ của nó, những bóng người thấp thoáng trên các đường phố, giọng nói rất nhanh của họ đầy những lời có sức kích động lòng người.

Trong lúc uống trà buổi tối, tôi hỏi Khokhol xem anh thường nói chuyện với những bần nông vào lúc nào.

– Nói về cái gì chứ?

– A. ‒ Khokhol nói sau khi chăm chú nghe tôi. ‒ Anh nên biết là nếu như tôi nói với họ về chuyện ấy, hơn nữa lại nói ở ngoài đường, thì tôi sẽ lại bị tống đến chỗ những người Yakutsk.

Anh nhồi thuốc vào tẩu và hút, khói thuốc lập tức bao quanh anh. Anh bắt đầu nói một cách bình tĩnh và đáng ghi nhớ rằng bần nông vốn dè dặt, hay hoài nghi. Họ sợ chính bản thân, sợ người láng giềng, sợ nhất là người ngoài. Họ được hưởng tự do chưa quá ba mươi năm[71], những người nông dân thuộc lứa tuổi bốn mươi sinh ra đã làm nô lệ và hẳn còn nhớ điều đó. Tự do là gì ‒ cái ấy thực khó hiểu. Nói nôm na thì tự do có nghĩa là ta sống theo ý ta. Nhưng ở đâu cũng có bọn quan trên, bọn này cản trở cuộc sống. Nga hoàng đã chiếm đoạt nông dân của bọn địa chủ, thế là bây giờ Nga hoàng thành chủ nhân duy nhất của tất cả nông dân. Một lần nữa câu hỏi trên lại được đặt ra: Thế thì tự do là gì? Đột nhiên một ngày kia Nga hoàng sẽ giải thích tự do nghĩa là gì. Bần nông rất tin tưởng vào Nga hoàng, chủ nhân duy nhất của tất cả đất đai và mọi của cải. Nga hoàng đã chiếm đoạt nông dân của bọn địa chủ thì cũng có thể chiếm đoạt tàu thủy và cửa hiệu của bọn lái buôn. Bần nông là người của Nga hoàng. Họ hiểu rằng nhiều chủ thì khổ, một chủ vẫn tốt hơn. Họ chờ đợi cái ngày Nga hoàng sẽ tuyên bố với họ ý nghĩa của tự do. Khi ấy thì ai muốn lấy gì thì lấy. Tất cả đều mong chờ ngày ấy đến; ai nấy đều sợ, đều sống bo bo giữ miếng, họ sợ lỡ mất cái ngày quyết định sẽ phân chia lại cho toàn thể ấy. Và họ sợ ngay chính bản thân: Họ muốn lấy thật nhiều, và có rất nhiều cái để lấy, nhưng lấy như thế nào? Tất cả đều cùng muốn lấy một thứ. Thêm vào đó khắp nơi có vô số bọn quan thù địch ra mặt đối với bần nông và cả với Nga hoàng nữa. Nhưng không có quan trên cũng không được, mọi người sẽ đánh nhau, giết nhau mất.

Một làn gió giận dữ hắt những hạt mưa xuân ào ào vào cửa kính. Bóng tối xám xịt tỏa ra trên đường phố. Trong tâm hồn tôi cũng có điều gì ảm đạm và buồn buồn.

Giọng nói bình tĩnh, khe khẽ của Khokhol lại vang lên với vẻ trầm tư:

– Cần khêu gợi những bần nông để họ dần học cách giành lấy chính quyền của Nga hoàng về tay mình, cần nói với họ rằng nhân dân phải có quyền lựa chọn cấp trên trong tầng lớp của mình: Cả cục trưởng cảnh sát, cả tổng đốc lẫn Nga hoàng…

– Cái đó phải chờ một trăm năm nữa!

– Thế anh tưởng đến ngày lễ Ba Ngôi sẽ làm xong tất cả cái đó ư? ‒ Khokhol nghiêm nghị hỏi.

Buổi tối anh đi đâu không rõ. Khoảng mười một giờ khuya tôi nghe ngoài đường có tiếng súng nổ gần đâu đây. Tôi liền lao vào bóng tối, giữa trời mưa, và gặp Mikhailo Antonovich đang đi về phía cổng. Bóng đen to lớn ấy tránh những dòng nước một cách thong thả và cẩn thận.

– Anh ra làm gì? Tôi vừa bắn đấy mà…

– Bắn ai?

– Vừa có một bọn người nào đó cầm gậy gộc xông về pbía tôi. Tôi bảo: “Đứng lại, không tao bắn!”, nhưng bọ không nghe. Thế là tôi bắn luôn một phát chỉ thiên, cũng chẳng làm hại ai cả…

Anh đứng ở phòng ngoài, vừa cởi áo vừa lấy tay vuốt bộ râu ướt và thở phì phì như ngựa.

– Thì ra đôi ủng chết tiệt này của tôi đã rách! Cần phải thay đôi khác thôi. Anh có biết lau súng lục không? Anh lau giùm, kẻo gỉ mất. Lấy dầu hỏa mà lau…

Vẻ bình tĩnh không gì lay chuyển nổi, ánh nhìn ngoan cường và lặng lẽ của cặp mắt xám của anh làm tôi khâm phục. Anh bước vào phòng, vừa chải râu trước gương vừa khuyên ngăn tôi:

– Anh đi lại trong làng phải cẩn thận hơn nữa, nhất là những ngày lễ và buổi tối. Chắc là họ cũng muốn đánh cả anh nữa đấy. Nhưng khi đi ra khỏi nhà anh chớ mang theo gậy gộc, cái đó chỉ tổ chọc tức bọn côn đồ và có thể gây cho chúng ý nghĩ là anh sợ. Sợ quái gì! Chính bọn chúng mới là tụi nhát gan.

Tôi bắt đầu sống rất dễ chịu, mỗi ngày lại mang tới cho tôi một điều mới mẻ và quan trọng. Tôi bắt đầu say mê đọc sách khoa học tự nhiên. Romass chỉ bảo cho tôi:

– Maksimich ạ, trước hết và tốt hơn hết anh cần phải biết cái đó, trí tuệ ưu tú nhất của loài người đã được đúc kết thành khoa học.

Mỗi tuần Izot đến chỗ chúng tôi ba lần vào buổi tối, tôi dạy anh tập đọc và viết. Lúc đầu anh có vẻ thiếu tin tưởng tôi, hay cười tủm, nhưng sau một số buổi học anh đã nói với giọng chân thật:

– Anh giảng khá lắm! Giá anh đi làm nhà giáo thì…

Rồi bỗng nhiên anh đề nghị:

– Nom anh có vẻ khỏe lắm! Nào, chúng ta thử dùng gậy kéo co xem ai khỏe?

Chúng tôi lấy chiếc gậy dưới bếp lên rồi cả hai ngồi xuống sàn, bàn chân tì vào nhau, người nọ cố nhấc người kia lên khỏi sàn. Khokhol cười mỉm và thúc giục chúng tôi.

– Thế nào? Cố lên chứ!

Cuối cùng Izot đã nhấc được tôi lên. Điều đó có lẽ càng làm cho anh có thêm thiện cảm với tôi.

– Không sao cả, anh khỏe lắm! ‒ Izot an ủi tôi. ‒ Thật đáng tiếc là anh không thích nghề đánh cá, nếu không thì cùng đi với tôi ra sông Volga. Ban đêm trên sông Volga đẹp như cảnh thiên đường vậy!

Anh học rất chuyên cần, tiến bộ khá nhanh và chính anh cũng lấy làm lạ. Có lần, trong giờ học, đột nhiên anh đứng dậy, lấy quyển sách trên giá xuống, nhếch cao lông mày, đọc đôi ba dòng. Rồi anh đỏ mặt nhìn tôi và nói vẻ sửng sốt:

– Tôi có thể đọc được rồi, mẹ kiếp, thật là kì quái!

Rồi anh nhắm mắt nhắc lại:

Tiếng chim rền trên bình nguyên u buồn

Như tiếng người mẹ khóc trên mồ con…

– Thấy chưa?

Mấy lần anh khe khẽ hỏi tôi, vẻ thận trọng:

– Người anh em thử giảng cho tôi rõ như thế là thế nào nhỉ? Người ta nhìn vào những đường nét này, thế mà chúng hợp lại thành tiếng, và tôi biết được những tiếng đó ‒ những tiếng mà chúng ta thường dùng. Làm sao tôi biết được chúng? Không ai nói thầm với tôi những tiếng ấy cả. Giá là những bức tranh thì đã đành. Đằng này hình như chính ý nghĩ của người ta được in sẵn trên giấy. Thế là thế nào?

Tôi biết trả lời anh ra sao? Câu nói “Không biết” của tôi đã làm anh buồn phiền.

– Trò phù thủy! ‒ Anh vừa nói vừa thở dài và soi những trang sách lên ánh sáng.

Anh có cái vẻ ngây thơ đáng yêu, trong sáng và trẻ con. Anh thường gợi tôi nhớ đến hình ảnh bần nông đáng yêu được tả trong sách. Như hầu hết những người đánh cá, anh là một con người mơ mộng, yêu dòng sông Volga, thích những đêm tĩnh mịch, thích cảnh cô đơn, thích cuộc sống trầm tư.

Anh nhìn lên các vì sao và hỏi:

– Khokhol nói rằng ở trên ấy có thể có người giống như chúng ta, anh thấy có đúng không? Giá ra hiệu được cho họ để hỏi xem họ sống ra sao nhỉ? Có lẽ họ sống sướng hơn chúng ta và vui vẻ hơn…

Thực ra thì anh hài lòng với cuộc sống của mình. Anh nguyên là một đứa trẻ mồ côi, một bần nông sống độc thân hành nghề đánh cá âm thầm và mong muốn cuộc sống của mình không phụ thuộc vào ai cả. Nhưng hình như anh có ác cảm đối với các bần nông, anh thường khuyên ngăn tôi:

– Anh đừng tưởng họ hiền lành. Họ là bọn người láu cá, giả dối, chớ tin họ! Hôm nay họ đối với anh thế này, nhưng ngày mai lại thế khác. Người nào cũng chỉ biết có mình thôi, còn công việc chung họ coi là việc khổ sai.

Anh thường nói về bọn “cường hào” với vẻ căm phẫn, một sự căm phẫn rất xa lạ đối với con người có tâm hồn dịu hiền như anh:

– Tại sao bọn chúng nó giàu có hơn kẻ khác? Vì chúng nó khôn ngoan hơn. Chó má thật, nếu như anh là một người thông minh thì anh nên nhớ rằng: Nông dân phải sống thân ái, hợp lại thành một bầy thì mới có sức mạnh! Nhưng đằng này họ lại đem chia năm xẻ bảy làng xóm ra như thể chẻ củi ấy, thế cơ chứ! Chính họ lại là kẻ thù của họ. Đó là một đám người tàn ác. Khokhol đã phải khổ sở vì bọn họ…

Izot đẹp trai, khỏe mạnh, được phụ nữ rất thích, và thường họ không để cho anh yên.

– Tất nhiên về mặt này tôi rất được chiều chuộng. ‒ Anh nói với vẻ hối hận chân thật. ‒ Đối với các ông chồng thì chuyện đó thật đáng bực mình, nếu ở địa vị họ chính tôi cũng phải bực mình. Nhưng không thể nào không thương hại phụ nữ được, họ như linh hồn thứ hai của mình vậy. Họ sống không có ngày nghỉ, không có sự âu yếm; họ làm việc quần quật như một con ngựa, ngoài ra không có gì hơn. Các ông chồng không có thì giờ để yêu thương họ, còn tôi thì lại là một người rỗi rãi. Nhiều bà vợ, ngay trong năm đầu về nhà chồng, đã bị các ông chồng cho ăn đấm. Đứng về mặt này tôi có tội lỗi, bởi vì tôi đã trêu ghẹo họ. Lúc đó tôi chỉ yêu cầu họ có một điều: Xin các mụ chớ có tức giận nhau, tôi đủ sức cho tất cả các mụ! Các mụ đừng có ghen tị nhau, tôi coi tất cả các mụ đều như nhau tuốt, tôi thương hại tất cả…

Anh vừa mỉm cười ngượng nghịu qua bộ râu vừa kể:

– Có lần suýt nữa thì tôi đã gỡ gạc được một bà, bà ấy từ thành phố về biệt thự nghỉ mát. Bà ta rất đẹp, da trắng như sữa, tóc óng như tơ, đôi mắt nhỏ xanh biếc và hiền hậu. Tôi bán cá cho bà ấy và cứ nhìn mãi. “Anh muốn cái gì?” Bà ta hỏi. “Tự bà biết.” Tôi đáp. “Thôi được.” Bà ta nói. “Đến đêm tôi sẽ tới chỗ anh, anh chờ nhé!” Đến đêm, quả bà ấy đến thật. Chỉ phải cái bà ấy ngại muỗi thôi. Muỗi đã đốt bà ấy, kết quả chẳng ăn thua gì cả. Bà ấy nói: “Tôi không thể chịu nổi, muỗi đốt tợn quá.” Và suýt nữa bà ấy khóc. Hôm sau chồng bà ấy đến, hắn làm thẩm phán thẩm phiếc gì đó. Thì ra các bà là như thế. ‒ Anh kết thúc với vẻ buồn buồn và trách móc. ‒ Muỗi đã quấy rầy cuộc sống của họ…

Izot rất khen ngợi Kukushkin:

– Anh để ý mà xem, Kukushkin là một bần nông có lòng tốt! Người ta không ưa anh ấy, thế là sai! Đúng, anh ấy có tính ba hoa, nhưng ai mà hoàn hảo cả?

Kukushkin không có ruộng đất, anh ta lấy phải một mụ bần nông nghiện rượu, người tuy nhỏ, nhưng rất ranh mãnh, khỏe mạnh và độc ác. Anh ta bán nhà cho một người thợ rèn, còn chính anh thì sống ở nhà tắm và làm thuê cho Pankov. Kukushkin rất thích tin tức, khi nào không có tin tức gì mới là anh ta tự bịa ra những mẩu chuyện khác nhau, ghép chúng lại thành một câu chuyện.

– Mikhailo Antonovich, anh có nghe đồn gì không? Tên cảnh sát ở Tinkovo đã bỏ nghề đi tu rồi. Hắn bảo hắn không muốn đánh đập bần nông nữa, đánh thế là đủ rồi!

Khokhol nghiêm nghị nói:

– Tất cả bọn quan trên sẽ bỏ các anh mà đi hết.

Kukushkin vừa gỡ những cuộn rơm, cỏ khô và lông gà trong mớ tóc rối bù màu hạt dẻ, vừa trầm ngâm:

– Không phải tất cả bọn họ đâu, chỉ có những người có lương tâm thôi. Những người đó tất nhiên cảm thấy khổ sở với cái nghề của mình. Antonich, tôi thấy hình như anh không tin vào lương tâm thì phải. Nhưng nếu thiếu lương tâm thì dù người ta có bộ óc lớn cũng không thể sống nổi! Anh hãy nghe tôi kể một câu chuyện…

Kukushkin bắt đầu kể về một mụ địa chủ “rất thông minh” nào đó:

– Trước đây có một mụ đàn bà tàn ác đến nỗi ngay cả quan tổng đốc, mặc dù chức vị khá cao, cũng phải tới thăm mụ ta. Quan tổng đốc nói với mụ: “Thưa bà, để đề phòng bất trắc bà nên cẩn thận hơn, bởi vì tin đồn về sự độc ác của bà đã truyền tới cả St. Petersburg rồi đấy!” Tất nhiên là mụ ta mời rượu quan tổng đốc rồi mới nói: “Ông cứ yên tâm mà về, tôi không thể thay đổi được tính tình của tôi đâu!” Qua ba năm lẻ một tháng, bỗng nhiên mụ ta triệu tập các bần nông và nói: “Tất cả ruộng đất của tôi bây giờ thuộc về các người, xin từ biệt các người, mong các người tha lỗi cho tôi, tôi sẽ…”

– Đi tu. ‒ Khokhol nhắc.

Kukushkin chăm chú nhìn Romass và xác nhận:

– Đúng, để trở thành tu viện trưởng! Chắc anh đã nghe câu chuyện này rồi chứ gì?

– Tôi chưa hề nghe.

– Thế sao anh biết?

– Tôi biết anh rồi mà.

Con người hay mơ tưởng hão ấy vừa lắc đầu vừa lắp bắp:

– Anh không tin mọi người tí nào cả…

Những câu chuyện của Kukushkin thường là như thế này: Những người xấu và độc ác đều sẽ chán làm điều ác và “mất tích”, nhưng thường thì Kukushkin hay cho họ đi tu như ném rác vào hố rác vậy.

Anh ta thường có những ý nghĩ đột ngột và kì quái; bỗng nhiên anh cau mày và tuyên bố:

– Chúng ta chiến thắng người Tatar thì được ích gì, người Tatar giỏi hơn chúng ta!

Nhưng có ai nói gì đến người Tatar đâu, lúc ấy đang nói về việc tổ chức một nhóm các chủ vườn.

Romass kể chuyện Siberia và chuyện gã phú nông ở vùng đó, nhưng bỗng nhiên Kukushkin lẩm bẩm vẻ đăm chiêu:

– Cái giống cá mòi nếu độ hai, ba năm không ai bắt thì chúng có thể sinh sôi đến nỗi làm biển tràn ra khỏi bờ và sẽ gây ra nạn lụt lớn cho thiên hạ. Thật là một giống cá sinh sôi nảy nở khá nhanh!

Cả làng đều coi Kukushkin là một người hão huyền, những câu chuyện và những ý nghĩ kì quái của anh khiến những bần nông tức giận, họ chửi rủa và chế giễu anh, nhưng họ vẫn luôn luôn nghe anh với vẻ thú vị và chăm chú, dường như chờ đợi được thấy một chân lí nào đó trong những chuyện bịa của anh.

– Thằng cha ba hoa.

Những người đứng tuổi gọi anh như vậy, chỉ có anh chàng hay diện Pankov là nói có vẻ chín chắn:

– Stepan là một người bí ẩn…

Kukushkin là một người rất tài ba, anh biết đóng thùng gỗ, đắp lò sưởi, biết nuôi ong, dạy các bà nuôi gà vịt, làm thợ mộc rất khéo, việc gì anh cũng có thể làm được, mặc dù anh làm chậm và có vẻ miễn cưỡng. Anh rất thích mèo, trong nhà tắm của anh có tới hàng chục con to, nhỏ, béo mập. Anh cho chúng ăn quạ khoang, quạ đen, luyện cho mèo ăn gà vịt, do đó người làng càng ghét anh tợn: Mèo của anh cắn chết cả gà con lẫn gà mẹ. Các bà hàng xóm liền săn đuổi mèo của Stepan và đánh một cách không thương xót. Ở nhà tắm của Kukushkin thường nghe thấy tiếng kêu the thé giận dữ của các bà chủ, nhưng cái đó không hề làm anh bối rối.

– Các mụ ngốc lắm, mèo là giống vật đi săn khéo hơn cả chó. Tôi luyện cho chúng quen săn gà vịt, rồi chúng ta sẽ nuôi hàng trăm con đem bán, số tiền thu được sẽ đem biếu các người, các người thật là ngốc!

Kukushkin trước đây có biết đọc biết viết, nhưng đã quên hết cả, bây giờ anh không muốn ôn lại nữa. Vốn là một người thông minh, anh có thể nắm được ý chủ đạo trong các câu chuyện của Khokhol nhanh hơn những người khác.

– Đúng, đúng. ‒ Anh vừa nói vừa nhăn nhó như một đứa bé nuốt viên thuốc đắng. ‒ Có nghĩa là Ivan Grozny[72] không có hại gì đối với đám dân quèn.

Kukushkin, Izot và Pankov thường đến chỗ chúng tôi vào buổi tối và nhiều khi ngồi đến tận nửa đêm để nghe Khokhol kể chuyện về tình hình thế giới, về sinh hoạt của các nước khác, về phong trào cách mạng của các dân tộc. Pankov rất thích cuộc cách mạng Pháp.

– Đó mới thực là sự thay đổi cuộc sống.‒ Anh tán thành.

Cha của Pankov là một phú nông có cái bướu to ở cổ và có cặp mắt tròn xoe trông rất đáng sợ. Hai năm trước Pankov đã từ bỏ cha và “tự ý” lấy một cô gái mồ côi, cháu họ của Izot. Anh rất khắt khe với vợ, nhưng lại cho cô ta ăn mặc quần áo tỉnh thành. Cha anh nguyền rủa anh vì tính ngỗ nghịch ấy, và mỗi khi đi qua ngôi nhà gỗ mới làm của con, ông thường nhổ nước bọt với vẻ giận dữ. Pankov đã cho Romass thuê nhà và xây thêm một cửa hiệu trái với ý muốn của bọn phú nông ưong làng, vì vậy bọn họ rất thù ghét anh: Bề ngoài anh đối với họ có vẻ lãnh đạm, khi nói về họ anh thường tỏ thái độ khinh bỉ, và khi tiếp xúc với họ thì thô bạo, giễu cợt. Cuộc sống nông thôn đã làm anh cảm thấy nặng nề.

– Giá tôi biết nghề thủ công thì tôi sẽ ra quách thành phố ở…

Anh có thân hình cân xứng, thường ăn mặc rất sạch sẽ, luôn luôn giữ vẻ trang trọng và rất hay tự ái. Anh có đầu óc thận trọng và hay hoài nghi.

” Anh làm công việc này xuất phát từ lòng mình hay có tính toán? ‒ Anh thường hỏi Romass như vậy.

– Thế theo anh thì thế nào?

– Không, anh nói đi.

– Theo anh thì đằng nào tốt hơn?

– Tôi không biết! Còn theo anh thì sao?

Khokhol cứ gặng mãi, buộc bần nông ấy phải tự nói ra.

– Tất nhiên, tốt hơn cả là xuất phát từ lí trí: Lí trí khiến con người làm việc một cách tỉnh táo, có lí trí thì công việc sẽ được tiến hành chắc chắn. Còn tình cảm chỉ tổ dẫn chúng ta đi chệch đường mà thôi. Nếu chỉ dựa vào tình cảm thì có lẽ tôi sẽ gây nên nhiều tai họa! Tôi sẽ thiêu ngay lão cha cố để dạy cho lão biết: Chớ có nhúng tay bừa vào công việc của người khác!

Trong làng này có một lão cha cố độc ác, mặt như chuột chù, lão ta đã can thiệp vào mối mâu thuẫn giữa Pankov với cha anh, nên anh rất ghét.

Lúc đầu hình như Pankov có ác cảm và một thái độ gần như thù địch với tôi, thậm chí cách anh gọi tôi như là chủ gọi người ở vậy. Nhưng thái độ ấy chẳng bao lâu đã biến mất, mặc dầu tôi cảm nhận được vẻ hoài nghi ngấm ngầm của anh đối với tôi, còn tôi cũng chẳng ưa gì Pankov.

Tôi còn nhớ mãi những buổi tối trong căn phòng nhỏ và sạch sẽ có vách bằng gỗ cây ghép lại. Cửa sổ đóng kín mít, trên chiếc bàn kê ở góc phòng có một ngọn đèn, cạnh đó là một người có vầng trán cao, đầu trọc, râu dài, người đó nói:

– Thực chất của cuộc sống là ở chỗ làm sao cho con người ngày càng khác xa với súc vật…

Có ba bần nông chăm chú nghe, tất cả đều có cặp mắt trong sáng và khuôn mặt thông minh. Izot thường ngồi yên không nhúc nhích, tựa như đang lắng nghe điều gì ở phía xa mà chỉ một mình anh nghe thấy. Kukushkin liên tục trở mình như bị muỗi đốt, còn Pankov thì vừa lấy tay nhổ những chiếc râu màu vàng óng vừa lặng lẽ suy nghĩ:

– Nghĩa là dù sao thì vẫn cần phải phân chia người ta thành các đằng cấp.

Điều tôi rất thích ở Pankov là anh không bao giờ ăn nói một cách lỗ mãng với Kukushkin, cố nông của anh. Anh chú ý nghe những chuyện bịa đặt ngộ nghĩnh của con người mơ mộng ấy.

Sau khi kết thúc buổi nói chuyện, tôi trở về căn gác thượng của mình và ngồi cạnh ô cửa sổ để ngỏ, nhìn xuống dưới ngôi làng đã ngủ say và cánh đồng lặng như tờ. Ánh sao lấp lánh xuyên thủng màn đêm, những ngôi sao đó càng gần mặt đất thì trông lại càng xa xôi thêm. Sự yên lặng đã đè nặng lên tâm hồn tôi, ý nghĩ của tôi cứ tràn lan theo khoảng không gian vô tận, tôi nhìn thấy hàng ngàn thôn xóm cũng lặng lẽ bám chặt lấy mặt đất bằng phẳng như cái làng của chúng tôi vậy. Bốn bề đều tĩnh mịch, yên lặng.

Sự trống trải của đêm tối bủa vây tôi như hàng ngàn con đỉa vô hình bám chặt lấy tâm hồn tôi. Dần dần tôi rơi vào cơn mộng mị, thấy mình yếu đuối, bất lực, một nỗi lo âu mơ hồ len lỏi vào trái tim tôi. Tôi chỉ là một sinh linh bé nhỏ và không đáng kể trên trái đất này…

Cuộc sống làng quê trong con mắt tôi không có gì vui vẻ. Tôi thường nghe nói và đọc được trong sáchrằng ở nông thôn người ta sống lành mạnh và chân thành hơn ở thành thị. Nhưng ở đây tôi nhìn thấy những bần nông phải làm việc quần quật suốt ngày, nhiều người trong số họ không lấy gì làm khỏe mạnh, phải làm việc quá sức và hầu như không có người nào vui vẻ cả. Những người thợ thủ công và công nhân ở thành thị làm việc cũng vất vả không kém, nhưng họ sống vui vẻ hơn và không kêu ca phàn nàn về cuộc sống buồn tẻ chán ngán như những con người luôn cau có này. Tôi cảm thấy cuộc sống của người nông dân không hề đơn giản, luôn phải hết sức để ý đến ruộng đất và dùng nhiều mánh khóe tinh vi trong cư xử. Một cuộc sống ngu muội, ai cũng sống mò mẫm như những người mù, tất cả đều sợ hãi một cái gì đó, họ không tin cậy nhau, đối xử với nhau như lang sói.

Tôi không thể hiểu được vì sao họ lại giữ mãi ác cảm với Khokhol, Pankov và những người “của chúng tôi”, những người muốn xây dựng một cuộc sống dựa trên các nguyên tắc của lí trí.

Tôi thấy rõ ưu thế của dân thành thị, khát khao hạnh phúc của họ, óc tìm tòi mạnh bạo, những nhiệm vụ và mục đích khác nhau của họ. Thường thường, vào những đêm như vậy, tôi hay nhớ đến hai thị dân.

Tấm biển này treo trên lối ra vào nhỏ hẹp của một cửa hiệu nhỏ, giữa hai cửa sổ đầy bụi. F. Kalugin có một cái bướu trên cái đầu hói lơ thơ mấy sợi tóc vàng, mắt đeo kính lúp, ngồi bên cửa sổ. Bác ta mặt tròn, người chắc nịch, hầu như lúc nào cũng mỉm cười. Thỉnh thoảng bác cầm chiếc kìm nhỏ xíu nghi ngoáy trong bộ máy đồng hồ, hoặc hát nghêu ngao, miệng há tròn xoe dưới bộ ria mép bạc. Ở cửa sổ bên kia là Z.Nebel. Bác này có bộ tóc quăn đen sẫm, chiếc mũi to hơi khoằm, cặp mắt thô lố như hai quả mận và bộ râu cằm nhọn hoắt. Người bác khô héo, gầy còm như một con quỷ, Bác cũng tháo tháo lắp lắp những bộ phận nhỏ tí xíu và thỉnh thoảng đột nhiên kêu lên, giọng trầm trầm:

– Tra ta tam, tam, tam!

Sau lưng họ, ngổn ngang những hòm xiểng, máy móc, bánh xe, đàn hộp, quả địa cầu. Khắp nơi, trên các giá gỗ là những vật bằng kim loại đủ kiểu. Trên tường có treo nhiều đồng hồ quả lắc. Tôi sẵn sàng đứng suốt ngày xem hai người này làm việc, nhưng thân hình cao lớn của tôi thường che mất ánh sáng nên họ hằm hằm nhìn tôi và phẩy tay đuổi tôi đi. Khi bước ra khỏi cửa, tôi suy nghĩ với lòng ghen tị:

“Hạnh phúc biết bao, nếu biết làm mọi việc!”

Tôi kính trọng những con người này và tin rằng họ biết bí mật của tất cả máy móc, dụng cụ nên họ có thể chữa được mọi thứ trên đời. Đó mới thật là những con người sống cho ra sống!

Tôi không thích nông thôn, những bần nông thật khó hiểu. Các bà nhà quê đặc biệt hay than phiền về bệnh tật, nào là cái gì “đau nhói trong tim” “tưng tức trong ngực” và thường xuyên “đau quặn trong bụng”. Họ nói nhiều và thích nói đến những chuyện đó, nhất là vào ngày lễ, khi ngồi ở nhà hoặc trên bờ sông Volga. Họ dễ nổi nóng và chửi bới nhau vô cùng thậm tệ. Chỉ vì đánh vỡ một cái lọ bằng sành đáng giá mười hai kopek mà ba gia đình đã dùng gậy đánh nhau đến nỗi gãy tay một bà già và vỡ sọ một chàng trai. Những cuộc ẩu đả như vậy hầu như tuần nào cũng xảy ra.

Bọn con trai thường có thái độ trơ trẽn trắng trợn đối với các cô gái và hay trêu ghẹo họ. Bọn chúng thường đuổi bắt các cô gái ngoài đồng, tốc váy họ lên trùm kín đầu rồi lấy vỏ cây gai buộc túm chặt gấu váy lại. Trò này gọi là trò “con gái khai hoa”. Bọn con gái, phần thân dưới không có gì che chắn, kêu thét lên, chửi bới om sòm. Nhưng hình như các cô có vẻ thích thú trò chơi này và thường cố ý gỡ váy xuống một cách chậm chạp. Ở nhà thờ, trong giờ cầu kinh, bọn con trai thường véo vào mông đít con gái; có lẽ chỉ vì thế mà chúng đi nhà thờ cũng nên. Ngày Chủ nhật, cha cố từ trên tòa giảng nói xuống:

– Đồ súc sinh! Không có chỗ nào khác để tụi bay làm cái trò tầm bậy ấy hay sao?

– Ở Ukraina, người ta sống tử tế hơn và thái độ của họ đối với tôn giáo có vẻ thi vị hơn. ‒ Romass kể. ‒ Còn ở đây, tất cả những gì tôi nhìn thấy sau niềm tin vào Chúa là bản năng khiếp sợ và tính tham lam vô cùng thô bỉ. Anh biết đấy, dân ở đây không có được thứ tình yêu chân thành đối với Chúa, họ không khâm phục vẻ đẹp và sức mạnh của Chúa. Đó cũng có thể là một điều tốt, vì như thế họ càng dễ thoát khỏi tôn giáo. Tôn giáo là một thứ thành kiến vô cùng có hại, tôi có thể đoan chắc với anh như vậy!

Bọn con trai hay khoác lác, nhưng nhát gan. Đã ba lần bắt gặp tôi ở ngoài đường lúc ban đêm, bọn chúng định đánh tôi nhưng không đánh được; chỉ có một lần tôi bị bọn chúng dùng gậy nện vào chân. Tất nhiên tôi không nói với Romass những chuyện nhỏ nhặt ấy, nhưng nom thấy tôi đi khập khiễng, tự anh cũng đoán được chuyện gì đã xảy ra.

– Này, thế là anh cũng được nếm quà của chúng rồi phải không? Tôi đã bảo mà!

Mặc dầu anh khuyên tôi không nên đi chơi ban đêm, thỉnh thoảng tôi vẫn mò ra bờ sông Volga, men theo phía sau vườn rau. Tôi ngồi dưới rặng liễu, nhìn sang cánh đồng cỏ bên kia sông, qua màn đêm trong suốt. Dòng Volga lững lờ trôi trông thật trang nghiêm, mặt trăng tẻ ngắt phản chiếu xuống mặt nước ánh sáng của vầng mặt trời không nhìn thấy được. Tôi không thích trăng, ở trăng có cái gì dữ tợn. Như một chú chó, thấy ánh trăng là tôi buồn phiền, muốn sủa rống lên một cách ai oán. Tôi rất vui mừng khi biết rằng mặt trăng không phát ra ánh sáng, rằng nó là một vật thể chết và trên đó không có và cũng không thể có sự sống. Trước kia tôi tưởng tượng trên mặt trăng có những người bằng đồng ở. Thân hình họ hình tam giác, họ c