← Quay lại trang sách

ĐÀN QUAY

Trên phố Miodowa, hằng ngày, khoảng gần trưa có thể gặp một quý ông đứng tuổi, đi từ quảng trường Krasinski về phố Senatorska. Mùa hè, ông mặc chiếc áo bành tô thanh nhã màu tím than, quần màu tro do thợ may hạng nhất may, đi đôi giày bóng loáng như gương và đội chiếc mũ hình trụ màu hơi xám.

Quý ông có bộ mặt hồng hào, râu quai nón màu xám và đôi mắt bạc dịu dàng. Ông bước đi người hơi cúi, hai tay đút túi. Ngày đẹp trời, ông cắp chiếc ba toong dưới nách; ngày nhiều mây, ông cầm chiếc ô lụa Ănglê.

Lúc nào ông cũng có vẻ đăm chiêu suy nghĩ và bước đi khoan thai. Đến gần nhà thờ Các thánh Kapucyni, ông ngả mũ đội đầu với vẻ ngoan đạo và bước sang bên kia phố để nhìn ở chỗ “Quân bài Bích”xem phong vũ biểu và nhiệt kế chỉ bao nhiêu, sau đó quay trở về bên phải đường, rồi dừng lại trước tủ kính Mieczkowski xem các bức ảnh của Modrzejewski - và đi tiếp.

Trên đường, ông nhường bước cho bất kì ai, còn khi bị va đụng thì mỉm cười thân thiện.

Khi thấy phụ nữ đẹp, ông đeo kính cập mũi vào nhìn chăm chú. Nhưng vì làm việc đó với vẻ lạnh lùng, nên ông thường phải thất vọng.

Quý ông đó là ngài Tomasz.

Đã ba chục năm nay, ngài Tomasz đi trên phố Miodowa và không ít lần ông nghĩ rằng trên phố ấy, nhiều vật đã thay đổi. Con phố Miodowa cũng có thể nghĩ về ông giống hệt như vậy.

Khi còn là luật sư bào chữa, ông chạy nhanh đến mức bất cứ cô thợ may nào cũng không chạy trốn nổi ông trên đường từ cửa hàng về nhà. Ông vui vẻ, hay chuyện, thẳng thắn, có mái tóc dày và bộ ria mép xoắn vểnh thẳng lên trên. Lúc bấy giờ, nghệ thuật có gây ấn tượng đối với ông, nhưng ông không dành thời gian cho nó, vì ông say mê đàn bà. Đúng ra là ông có duyên với họ và không ngừng được mối lái. Nhưng cái đó thì mang lại điều gì, khi ngài Tomasz không bao giờ có thể tìm được giây phút nào để cầu hôn, nếu không bận vì công việc thì vì các cuộc hẹn hò. Từ chỗ cô Frania, ông đi đến tòa án, từ tòa án chạy về cô Zosia, và trước buổi tối phải rời xa cô ấy, để còn ăn tối với cô Józia và Filka.

Khi trở thành trạng sư, do làm việc trí óc căng thẳng, cái trán ông cao lên tới tận đỉnh đầu, còn trên ria mép xuất hiện vài sợi bạc. Lúc bấy giờ, ngài Tomasz đã từ bỏ tính nóng nảy của tuổi trẻ, ngài có gia tài và nổi tiếng là người thông thạo nghệ thuật. Vì vẫn yêu đàn bà, ngài bắt đầu nghĩ về hôn nhân. Thậm chí, ngài còn thuê căn hộ bao gồm sáu phòng, bỏ tiền ra mua tấm lát sàn, trải thảm, lắp đồ gỗ đẹp và tìm vợ.

Tuy nhiên người lớn tuổi khó chọn lựa. Cô này trẻ quá, còn với cô kia thì ông đã đeo đuổi quá lâu rồi. Cô thứ ba có nhan sắc và độ tuổi thích hợp, nhưng lại không có tính khí thích hợp, còn cô thứ tư có nhan sắc, độ tuổi và tính khí cần thiết, nhưng... không chờ đến lúc ông trạng sư cầu hôn, đã lấy ông bác sĩ...

Tuy nhiên, ngài Tomasz không lo lắng, thiếu gì các cô gái chưa chồng. Ngài từ tốn trang bị cho mình, càng lúc càng quan tâm nhiều hơn đến việc sao cho từng chi tiết trong căn hộ của mình đều mang giá trị nghệ thuật. Ngài thay thế đồ gỗ, chuyển dịch các tấm gương soi, mua thêm các bức tranh.

Cuối cùng, cách bài trí của ngài trở nên nổi tiếng. Bản thân ngài không biết từ lúc nào đã tạo ra ở chỗ mình một phòng trưng bày các tác phẩm nghệ thuật, nơi càng lúc càng nhiều người tò mò đến tham quan. Vốn là người hiếu khách, ngài tổ chức các cuộc tiếp đón rất hoàn hảo và giữ quan hệ với những người chơi nhạc. Vì vậy, thỉnh thoảng các buổi hòa nhạc tối được tổ chức ở chỗ ngài, những buổi ấy thường có sự hiện diện của các quý bà.

Ngài Tomasz luôn sẵn sàng đón tiếp mọi người. Khi nhìn trong gương thấy trán mình đã cao lên tới tận đỉnh đầu và vươn ra phía sau, tới tận cổ áo trắng như tuyết, càng lúc ngài càng nhớ nhiều hơn đến chuyện dù sao thì cũng phải lấy vợ. Hơn nữa, đối với đàn bà ngài vẫn cảm thấy nhiệt tình.

Một lần, khi ngài tiếp đón nhóm người đông hơn thường lệ, một trong số các bà trẻ tuổi, sau khi nhìn ngắm các phòng khách, liền lên tiếng:

- Ôi, những bức tranh tuyệt vời... Ôi, tấm lát sàn mới phẳng làm sao!... Vợ ngài trạng sư sẽ vô cùng hạnh phúc.

- Nếu như để đạt được hạnh phúc chỉ cần những tấm lát sàn phẳng. - Người bạn thân của trạng sư lên tiếng thầm thì.

Trong phòng khách, không khí thật vui vẻ. Ngài Tomasz cũng cười, nhưng kể từ lúc đó, khi ai nhắc đến hôn nhân, ngài chỉ phẩy tay với vẻ lười biếng và nói:

- Ê!...

Trong những ngày ấy, ngài cạo ria mép và để râu quai nón. Nói về đàn bà ngài luôn tỏ ra trọng thị, còn đối với những khiếm khuyết của họ thì ngài rất khoan dung.

Khi không còn mong đợi điều gì từ thế giới bên ngoài, ngay cả nghề nghiệp ngài cũng đã vứt bỏ, ngài trạng sư dành toàn bộ tình cảm lắng đọng của mình cho nghệ thuật. Bức tranh đẹp, buổi hòa nhạc hay, buổi trình diễn mới của nhà hát đã trở thành những cột mốc trong cuộc đời ngài. Ngài không bừng cháy, không bay bổng, mà ngài thưởng thức.

Tại các buổi hòa nhạc, ngài chọn chỗ ngồi cách xa sân khấu để nghe nhạc, đồng thời để không nghe thấy tiếng ồn ào và không nhìn thấy nghệ sĩ. Khi đi xem hát, ngài đọc trước kịch bản, để không cần quá tò mò vẫn theo dõi được diễn xuất của các diễn viên. Ngài ngắm nghía các bức tranh khi có ít người xem nhất và đắm đuối hàng tiếng đồng hồ trong các cuộc trưng bày.

Nếu như có cái gì đó làm ngài thích, ngài sẽ nói:

- Các ngài biết không, cái này thật là đẹp.

Ngài thuộc số ít người coi tài năng là trên hết. Tuy vậy, ngài không bao giờ lên án những tác phẩm kém cỏi.

- Hãy đợi đấy, có thể anh ta sẽ còn phát triển! - Ngài nói khi những người khác chê bai nghệ sĩ.

Và lúc nào ngài cũng có lòng khoan dung đối với những khiếm khuyết của con người, còn về những điều lầm lỗi thì ngài không nói đến.

Thật không may, không một người trần mắt thịt nào lại không có cái gì đó gọi là trái tính, ngài Tomasz cũng có điều khó hiểu của mình. Đó là ngài chúa ghét những người chơi đàn quay và chiếc đàn quay.

Khi nghe thấy tiếng đàn quay ngoài phố, ngài trạng sư vội rảo bước và vài tiếng đồng hồ sau, ngài vẫn cảm thấy mất vui. Ngài Tomasz, con người vốn điềm tĩnh là vậy - bỗng bùng nổ, vẫn thường lặng lẽ là vậy - bỗng hét to, vốn dịu dàng là vậy - bỗng tỏ ra tức giận khi nghe tiếng đàn quay ập đến.

Ngài không giữ bí mật trước bất cứ người nào về sự yếu đuối đó của mình, thậm chí còn thanh minh.

- Âm nhạc- ngài xúc động nói- là loại hình tinh tế nhất của tinh thần, còn trong đàn quay, tinh thần đó đã thoái hóa biến thành một cái máy và công cụ cướp bóc. Bọn người chơi đàn quay chẳng qua chỉ là kẻ cướp! Hơn nữa, - ngài nói tiếp - đàn quay làm tôi tức giận, tôi chỉ có một cuộc sống, cuộc sống đó không cho phép tôi phung phí để nghe loại nhạc ghê tởm.

Có kẻ ác ý biết về sự ghê tởm của vị trạng sư đối với “cái máy chơi nhạc” đã nghĩ ra trò đùa tếu và... xui hai gã chơi đàn quay đến dưới cửa sổ của ngài. Ngài Tomasz phát ốm vì tức giận, và sau khi tìm ra thủ phạm, ngài đã gọi hắn ra quyết đấu.

Người ta đã phải lập cả một phiên tòa danh dự để ngăn chặn đổ máu vì chuyện tưởng chừng nhỏ bé như vậy.

Căn nhà mà ngài trạng sư ở đã chuyển mấy lần từ tay người này sang người khác. Đương nhiên là mỗi chủ nhân mới đều cho mình có nghĩa vụ tăng tiền thuê đối với mọi người, và trước hết đối với ngài Tomasz. Trạng sư chấp nhận trả tiền tăng, song với điều kiện ghi rõ ràng trong hợp đồng là đàn quay sẽ không được chơi ở trong nhà.

Ngoài những điều kiện đặt trước đã ghi trong hợp đồng, ngài Tomasz còn gọi từng người gác mới đến nhà mình và có cuộc trò chuyện với anh ta đại loại như sau:

- Này anh bạn thân mến... À, mà tên anh là gì nhỉ?...

- Kazimierz, thưa ngài.

- Kazimierz ơi, nghe này! Cứ mỗi lần tôi về nhà muộn anh mở cổng thì sẽ nhận được hai mươi xu. Anh hiểu chứ?...

- Tôi hiểu, thưa ngài quyền quý.

- Ngoài ra, anh sẽ nhận được ở tôi mười zloty mỗi tháng, anh biết vì sao không?...

- Tôi không thể biết, thưa ngài quyền quý.- Người gác xúc động trả lời.

- Là để không bao giờ anh cho đàn quay vào trong sân chơi. Anh hiểu không?...

- Tôi hiểu, thưa ngài quyền quý.

Căn nhà của trạng sư bao gồm hai phần. Bốn phòng lớn có cửa sổ nhìn ra đường phố, hai phòng nhỏ - nhìn ra sân trong. Phần trang trọng của căn hộ dành cho khách khứa. Trong đó thường diễn ra các buổi tiệc lớn, tiếp đón các đương sự và những người ruột thịt hoặc người quen biết của ngài trạng sư từ quê lên. Bản thân ngài rất hiếm khi xuất hiện ở đó và chỉ đến để kiểm tra xem tấm lát sàn đã được đánh bóng, hoặc đã hút sạch bụi chưa hay đồ gỗ có bị hỏng chỗ nào không.

Còn suốt ngày dài, nếu như không có việc phải đi ra ngoài, ngài thường ngồi trong căn phòng nối với sân trong. Tại đó ngài đọc sách, viết thư hoặc nghiên cứu tài liệu của người quen nhờ cho ý kiến khuyên bảo. Còn khi không muốn đọc nhiều hại mắt, ngài ngồi trên ghế bành đối diện cửa sổ và vừa châm điếu xì gà vừa đắm mình trong suy ngẫm. Ngài biết rằng việc suy nghĩ là chức năng quan trọng của cuộc sống, điều mà con người không nên coi thường nếu quan tâm đến sức khỏe.

Ở phía bên kia sân trong, ngay đối diện với các ô cửa sổ của ngài Tomasz có một căn hộ được những người không giàu có lắm thuê. Một viên chức tòa án già sống ở đó trong một thời gian dài, sau khi bị giảm biên chế đã chuyển sang Praga. Sau ông ta, một thợ may thuê lại các căn phòng nhỏ đó, song vì thỉnh thoảng hắn ta lại thích say sưa và làm ồn, nên người ta không cho hắn thuê nữa. Tiếp theo, một bà già đã về hưu dọn đến đây, bà ta lúc nào cũng cãi nhau với người hầu của mình. Nhưng kể từ Lễ thánh Jan, những người ruột thịt đã đưa bà già về quê, bất chấp thói quen hay cãi nhau của bà, mặc dù bà đã rất yếu nhưng hoàn toàn sung túc. Sau đó, hai người phụ nữ với một bé gái, có lẽ khoảng tám tuổi lại dọn đến căn phòng đó.

Những người phụ nữ đó tự nuôi sống mình bằng công việc. Một người khâu vá, người thứ hai may bít tất dài và áo ngắn mặc ngoài. Cô bé gọi người phụ nữ trẻ và đẹp hơn là mẹ, còn người già hơn là bác.

Ở nhà trạng sư và ở nhà những người thuê mới, các cửa sổ suốt cả ngày đều để mở. Vì vậy, khi ngài Tomasz ngồi trên ghế bành của mình có thể nhìn thấy rất rõ cái gì xảy ra ở chỗ các bà láng giềng.

Tại đó, các đồ dùng đều nghèo nàn. Trên bàn và ghế, trên tràng kỉ và tủ thấp chất đầy các loại vải dùng để may và các cuộn vải bông làm bít tất dài.

Ngay từ sáng sớm, đám đàn bà đã tự quét dọn nhà, còn khoảng gần trưa, một người làm công mang đến cho họ bữa ăn trưa không lấy gì làm thịnh soạn. Hơn nữa, mỗi người trong số họ đều gần như không rời khỏi chiếc máy kêu lọc cọc của mình.

Cô bé thường ngồi bên cạnh cửa sổ. Đó là một đứa bé tóc đen và khuôn mặt xinh đẹp, song nhợt nhạt và bất động thế nào ấy. Đôi lúc, với hai que đan, cô bé đã làm ra một dải thắt lưng từ những sợi vải bông. Thỉnh thoảng, nó chơi với búp bê, chậm rãi mặc và cởi quần áo cho búp bê, hình như khá khó khăn. Đôi lúc, nó không làm gì cả, chi ngồi bên cửa sổ lắng tai nghe ngóng gì đó.

Ngài Tomasz chưa bao giờ nhìn thấy đứa bé hát hoặc chạy nhảy trong phòng, thậm chí không nhìn thấy nụ cười nào nở trên đôi môi nhợt nhạt và khuôn mặt bất động.

- Đứa bé kì lạ! - Trạng sư nói với mình và bắt đầu quan sát nó chăm chú hơn.

Một lần, vào Chủ nhật, ngài phát hiện thấy rằng người mẹ đưa cho đứa bé một bó hoa nhỏ. Cô bé tỏ ra sống động hơn một chút. Nó bỏ các đóa hoa ra xếp lại, rồi hôn những đóa hoa ấy. Cuối cùng, nó buộc bó hoa lại đặt vào cốc nước và sau khi ngồi xuống bên cửa sổ, nó liền nói:

- Đúng nhỉ, mẹ ơi, ở đây thật là buồn...

Ngài trạng sư ngạc nhiên. Sao lại có thể buồn trong căn nhà mà suốt chừng ấy năm ngài vẫn cảm thấy vui vẻ cơ chứ!

Một hôm, vào khoảng gần bốn giờ chiều, ngài trạng sư có mặt trong phòng làm việc của mình. Giờ đó mặt trời ở đối diện căn hộ những người láng giềng của ông và đang chiếu ánh nắng chói chang, nóng rực. Ngài Tomasz nhìn sang phía sân bên kia và rõ ràng là đã thấy một cái gì đó kì lạ, ngài vội vàng đeo chiếc kính cập mũi lên sống mũi.

Đây là điều ngài phát hiện thấy:

Cô bé tiều tụy dựa đầu lên tay, nằm gần như ngửa trên cửa sổ của mình và mở to cả hai mắt nhìn thẳng vào mặt trời. Trên mặt nó, thông thường không co giãn, bây giờ bỗng xuất hiện những cảm giác: như là vui mừng, như là tiếc nuối...

- Cô bé không nhìn thấy được! - Trạng sư thầm thì và bỏ kính cập mũi ra.

Trong giây phút này, ông cảm thấy như có cái gì đó đâm vào mắt với ý nghĩ rằng một người nào đó có thể nhìn thẳng vào mặt trời, thứ phun ra ngọn lửa thực sự.

Quả vậy, cô gái đã bị mù từ hai năm nay. Năm lên sáu tuổi, cô nhiễm chứng bệnh sốt nóng, mấy tuần liền không tỉnh dậy, và sau đó bị mất sức đến mức phải nằm như chết, không động đậy và nói năng gì.

Người ta cho cô bé uống rượu vang và các loại nước thịt bò, vì vậy dần dần cô đã tỉnh lại. Nhưng ngày đầu tiên, khi người ta đặt cô lên gối, cô thì thầm với mẹ:

- Mẹ ơi, đang là ban đêm phải không?...

- Không, con của mẹ... Tại sao con lại nói như vậy?

Cô bé không đáp lại: cô buồn ngủ. Chỉ có điều ngày hôm sau, vào buổi chiều bác sĩ đến khám, cô lại hỏi:

- Có phải vẫn là đêm không?...

Lúc bấy giờ, người ta hiểu rằng cô bé không nhìn thấy được. Bác sĩ khám mắt cho cô và đưa ra ý kiến rằng cần chờ đợi.

Nhưng người ốm càng khỏe hơn thì càng lo lắng hơn về sự tàn tật của mình...

- Mẹ ơi, tại sao con không nhìn thấy mẹ?...

- Mắt con bị màng che. Nhưng sẽ qua khỏi thôi.

- Bao giờ thì qua khỏi?...

- Không lâu đâu.

- Có thể là ngày mai, có phải không mẹ?

- Vài ngày nữa, con gái yêu của mẹ.

- Nếu nó qua đi thì mẹ nói ngay với con nhé. Bởi con rất buồn!...

Ngày trôi qua, rồi tuần trôi qua trong sự nóng lòng chờ đợi. Cô bé đã bắt đầu đứng dậy từ giường. Cô học đi mò mẫm trong phòng, tự mình mặc và cởi quần áo một cách chậm chạp và thận trọng.

Tuy nhiên, thị giác đã không trở lại với cô.

Một lần, cô nói:

- Mẹ ơi, con mặc chiếc váy màu xanh da trời có đúng không?...

- Không, con ơi, con mặc váy màu tro.

- Mẹ nhìn thấy nó ư?

- Mẹ nhìn thấy, con yêu của mẹ.

- Như thể ban ngày chứ?

- Đúng thế.

- Con cũng sẽ nhìn thấy mọi thứ sau vài ngày nữa đúng không?... Không, có thể sau một tháng nữa...

Người mẹ không đáp lại, vì vậy, cô hỏi tiếp:

- Mẹ ơi, ở ngoài sân luôn luôn là ban ngày có phải không?... Còn trong vườn là cây cối giống như ngày xưa?... Có phải con mèo trắng có những cẳng chân đen ngòm vẫn đi đến chỗ chúng ta hay không?... Mẹ ơi, con đã từng nhìn thấy mình trong gương có đúng không nhỉ?... Ở đây không có gương à?...

Người mẹ đưa gương cho cô bé.

- Phải nhìn ở chỗ này, ở đây, chỗ nhẵn ấy. - Cô bé vừa nói vừa áp gương vào mặt - Con không nhìn thấy gì cả! Thế cả mẹ nữa có nhìn thấy con ở trong gương không?

- Mẹ nhìn thấy con, con chim non của mẹ.

- Bằng cách nào?... - Cô gái buồn bã lên tiếng - Rõ ràng là nếu như con không nhìn thấy mình, thì trong gương ấy phải không có gì... Còn cái đứa ở trong gương ấy liệu có nhìn thấy con hay không?

Người mẹ bật khóc và chạy ra khỏi phòng.

Công việc yêu thích nhất của kẻ tàn tật là chạm tay vào những đồ vật nhỏ bé và nhận biết chúng.

Một hôm, người mẹ mang đến cho nó con búp bê làm bằng sứ, mặc quần áo đẹp, giá một rúp. Cô bé không rời tay khỏi con búp bê, sờ mũi, miệng, mắt và vuốt ve âu yếm nó.

Cô bé đi ngủ rất muộn, lúc nào cũng nghĩ về con búp bê của mình và cô đã đặt nó trong chiếc hộp có đệm bông.

Giữa đêm, người mẹ bị tiếng rì rầm nho nhỏ làm tỉnh giấc. Bà bật dậy khỏi giường, thắp nến lên và nhìn thấy ở góc phòng con gái mình đã ăn mặc đàng hoàng đang chơi với con búp bê.

- Con làm gì thế, con gái? - Bà lên tiếng - Tại sao con không ngủ?

- Bởi bây giờ đã là ban ngày, thưa mẹ. - Đứa bé tàn tật đáp.

Đối với nó, ngày và đêm pha trộn với nhau làm một và kéo dài vô tận...

Trí nhớ về cảm giác thị giác dần dần mất đi trong cô bé. Quả anh đào đỏ với cô bé trở thành quả anh đào nhẵn nhụi, tròn trịa và mềm mại; đồng tiền sáng lóng lánh trở thành cái vòng nhỏ cứng và phát ra tiếng kêu lẻng xẻng, trên đó khắc chạm nổi những dấu gì đó. Cô biết rằng căn phòng lớn hơn cô, ngôi nhà lớn hơn căn phòng, đường phố lớn hơn ngôi nhà. Nhưng mọi thứ đó cứ nhỏ lại trong trí tưởng tượng của cô.

Sự chú ý của cô hướng đến giác quan xúc giác, khứu giác và thính giác. Mặt và tay cô đã có được sự nhạy cảm đến mức khi đến cách tường vài tấc, cô đã cảm thấy một chút khí lạnh. Những hiện tượng ở xa tác động đến cô chỉ qua thính giác. Chính vì vậy, cô chú ý lắng nghe suốt ngày.

Cô nhận ra bước chân chầm chậm, đều đều của người gác cổng nói giọng lí nhí đang quét sân. Cô biết khi nào chiếc xe thang chở cây của người nông dân đi qua, khi nào - xe ngựa chở người, còn khi nào - xe ngựa chở rác.

Tiếng thì thầm nhỏ nhất, mùi vị, không khí lạnh hay nóng lên không qua khỏi sự chú ý của cô. Với sự nhanh nhạy đến khó hiểu, cô nắm bắt được những hiện tượng ấy và từ đó đưa ra kết luận.

Một lần, người mẹ gọi cô hầu.

- Không có cô Janowa đâu. - Cô bé tàn tật nói và vẫn ngồi ở góc phòng mình như thường lệ - Cô ấy đi lấy nước.

- Tại sao con biết điều đó?- Bà mẹ ngạc nhiên hỏi.

- Tại sao ư?... Rõ ràng là con biết cô ấy đã lấy thùng nước từ dưới bếp, sau đó đi sang bên kia sân và bơm nước. Còn bây giờ đang nói chuyện với người gác cổng.

Quả vậy, từ phía hàng rào vẳng lại tiếng thầm thì trò chuyện của hai người, nhỏ đến mức phải căng tai ra mới có thể nghe thấy.

Tuy vậy, ngay cả vùng nới rộng của các giác quan khác cũng không thể thay thế cho thị giác đứa bé tàn tật được. Cô bé thấy thiếu cảm giác và bắt đầu nhớ nhung.

Người ta cho phép nó đi lại trong cả ngôi nhà và điều đó làm cho nó thỏa mãn một phần. Nó giẫm lên từng hòn đá trong sân, chạm tay vào từng ống máng và thùng phi. Nhưng cái làm cho nó thích thú nhất là các cuộc hành trình đến hai thế giới hoàn toàn khác biệt nhau, đó là đi xuống hầm nhà và leo lên mái.

Ở dưới hầm nhà, không khí khá lạnh, tường ẩm ướt.

Tiếng động đường phố vẳng đến từ trên cao, những tiếng động khác không nghe thấy được. Đó là ban đêm đối với cô bé mù.

Còn trên mái, đặc biệt là ở chỗ cửa sổ nhỏ thì mọi sự đều khác. Ở đó có nhiều tiếng ồn ào hơn trong phòng. Cô bé tàn tật nghe thấy tiếng cót két của các cỗ xe từ mấy phố vẳng đến, ở đây tích tụ tiếng ồn của cả ngôi nhà. Cô cảm thấy có luồng gió ấm thổi qua mặt. Cô nghe tiếng hót líu lo của chim muông, tiếng sủa của lũ chó và tiếng xào xạc của cây cối ở vườn bên cạnh. Đây đối với cô là ban ngày...

Thế vẫn chưa đủ. Trên mái nhà, mặt trời chiếu sáng thường xuyên hơn ở trong phòng, còn khi hướng đôi mắt mở to về phía ấy, cô bé có cảm giác rằng đang nhìn thấy một cái gì đó. Trong trí tưởng tượng, những bóng hình của các hình khối và màu sắc được đánh thức, nhưng chúng không rõ ràng và dễ biến mất đến mức cô không thể nhớ lại được gì...

Chính trong thời điểm đó, bà mẹ gắn kết với người bạn gái của mình và chuyển chỗ ở đến ngôi nhà mà tại đó ngài Tomasz sinh sống. Hai người đàn bà vui thích vì căn nhà mới, song đối với đứa bé mù thì việc thay đổi đó là nỗi bất hạnh thực sự.

Cô bé phải ngồi trong phòng. Không được phép đi lên mái và xuống tầng hầm. Cô không nghe thấy cả tiếng chim lẫn tiếng cây, còn trên sân thì một sự câm lặng kinh hoàng ngự trị. Ở đây không bao giờ xuất hiện người buôn bán đồ cũ và cả thợ hàn nồi xoong, cả những người nhặt rác. Người ta không cho phép cả các bà già hát thánh ca, cả các ông già ăn xin chơi kèn clarinet, cả những người chơi đàn quay vào.

Thú vui duy nhất của cô bé là nhìn lên mặt trời, thứ không phải lúc nào cũng chiếu sáng như nhau và rất nhanh chóng lẩn trốn sau các ngôi nhà.

Cô bé lại bắt đầu nhung nhớ. Cô tiều tụy hẳn đi sau mấy ngày, trên mặt cô biểu lộ vẻ mất hứng thú và buồn rầu, điều làm ngài Tomasz ngạc nhiên.

Ngài không thể biết được rằng cô bé tàn tật ít nhất cũng muốn được nghe các loại tiếng động khác nhau vẳng đến. Còn trong ngôi nhà lại im lặng...

- Một đứa bé khốn khổ! - Nhiều lần ngài Tomasz vừa lầm bầm vừa chăm chú nhìn đứa bé buồn rầu.

“Giá như mình có thể làm được cái gì cho cô bé nhỉ?”. Ngài nghĩ và biết rằng đứa trẻ càng lúc càng tiều tụy và hao mòn từng ngày.

Trong thời gian ấy, một trong số những người bạn của trạng sư có vụ kiện và như thông thường đã đưa cho ngài đọc những giấy tờ liên quan, với đề nghị cho ý kiến. Đúng ra ngài Tomasz không ra tòa, nhưng với tư cách người từng trải có nhiều kinh nghiệm, ngài biết chỉ ra hướng đi đúng đắn nhất của vụ kiện và đưa ra cho luật sư bào chữa do mình chọn những giải thích cần thiết.

Vấn đề hiện tại trở nên phức tạp. Ngài Tomasz càng đọc nhiều giấy tờ càng hăng hái hơn. Trong người về hưu bừng tỉnh một luật sư bào chữa. Ngài không ra khỏi nhà, không kiểm tra xem liệu người ta đã hút sạch bụi trong các phòng khách chưa, chỉ giam mình trong phòng làm việc, đọc tài liệu và ghi chép.

Buổi tối, người hầu già của trạng sư đến báo cáo như thường lệ. Ông ta thông báo rằng bà vợ bác sĩ đã cùng con cái đi khỏi đây đến nơi ở mùa hè, rằng đường ống nước bị hỏng, rằng người gác cổng, Kazimierz, cãi lộn với cảnh binh và đã đi một tuần - vào nhà tù. Cuối cùng, ông ta hỏi: ngài trạng sư có muốn gặp người gác cổng mới được nhận vào làm hay không?...

Nhưng trạng sư, cúi mình trên đống giấy tờ, hút xì gà, nhả những vòng tròn khói, thậm chí không nhìn người hầu trung thành.

Ngày hôm sau, ngài Tomasz vẫn còn muốn ngồi với đống hồ sơ; khoảng hai giờ chiều, ngài ăn bữa trưa và lại ngồi tiếp. Khuôn mặt hồng hào của ngài và bộ râu quai nón trên nền xanh lam của tấm thảm trong phòng gợi hình ảnh “một kịch trường tự nhiên”. Mẹ của đứa bé mù và người bạn gái đang may bít tất dài trên máy tỏ ra ngưỡng mộ trạng sư và nói rằng ngài giống như một người đàn ông góa khỏe mạnh, kẻ có thói quen từ sáng sớm đến chiều tối cứ mơ màng trên bàn giấy.

Trong khi đó trạng sư, mặc dù lim dim mắt, hoàn toàn không mơ màng, chỉ suy nghĩ về vụ kiện.

Công dân X năm 1872 đã sang tên cho con của em gái mình một điền trang, còn năm 1875 - cho con của chú em mình một tòa nhà. Con của chú em khẳng định rằng công dân X bị điên năm 1872, còn con người em gái chứng minh rằng X mãi đến năm 1875 mới bị tâm thần. Ngược lại, chồng của em gái người quá cố đã đưa ra những chứng cứ không có gì nghi vấn, rằng X cả trong năm 1872, lẫn năm 1875 đều hành động như một kẻ điên dại, còn toàn bộ tài sản của mình thì ngay từ năm 1869, tức là từ thời kì còn hoàn toàn tỉnh táo, đã sang tên cho em gái.

Ngài Tomasz được đề nghị nghiên cứu xem khi nào X thực sự bị điên, và sau đó đứng ra hòa giải ba bên cãi cọ, trong đó không bên nào chịu nhường nhịn.

Khi trạng sư đang chìm ngập trong những vấn đề phức tạp như vậy, thì xảy ra trường hợp kì lạ, hết sức khó hiểu.

Trên sân trong, ngay dưới cửa sổ của ngài Tomasz bỗng vang lên - tiếng đàn quay!...

Giá như kẻ đã chết X bật dậy từ dưới mộ, tỉnh táo trở lại và đi đến văn phòng để giúp trạng sư giải quyết vấn đề khúc mắc, thì chắc chắn ngài Tomasz cũng không sửng sốt bằng lúc này, khi nghe thấy tiếng đàn quay!...

Và giá như ít nhất đó là đàn quay của Ý, với những tiếng sáo dịu dàng, hình thức nom được, chơi các khúc nhạc đẹp thì còn đỡ! Đằng này, giống như để quấy nhiễu nhiều hơn, chiếc đàn quay lại bị hỏng, chỉ chơi những bản valse và điệu nhảy dân ca một cách méo mó, chơi to đến mức các tấm kính rung cả lên. Tệ hơn nữa, thỉnh thoảng lại có tiếng kèn đồng rống lên như tiếng con thú bị điên.

Cảm giác thật vô cùng kinh hoàng. Trạng sư sửng sốt. Ngài không biết nghĩ gì và bắt đầu làm cái gì. Đôi lúc, ngài đã sẵn sàng đi đến giả thiết cho rằng, khi đọc những phán quyết sau khi chết của công dân X bị bệnh mất trí, chính thần kinh ngài đã bị rối loạn và mình đã chịu tác động của ảo ảnh.

Nhưng không phải vậy, đó không phải là ảo ảnh. Đó là cây đàn quay thực sự, cây đàn với những ống sáo hỏng và cái kèn kêu vô cùng lớn!

Trong tim trạng sư, con người rộng lượng như vậy, dịu dàng như vậy, bỗng nảy sinh thứ bản năng hoang dại. Ngài cảm thấy tiếc cho tự nhiên, rằng đã không biến ngài thành vua Dahomey, kẻ có quyền giết chết những người hàng phục mình và ngài nghĩ trong giây phút này mà đánh chết tươi người chơi đàn quay thì sướng biết nhường nào!

Do ở những người có tính khí giống ngài Tomasz rất dễ từ sự nóng nảy chuyển sang những dự định táo bạo, dẫn đến hành động kinh hoàng nhất, nên trạng sư nhảy như con hổ đến cửa sổ và quyết định - mắng chửi người chơi đàn quay bằng những lời tồi tệ nhất.

Ngài đã cúi người và mở miệng để hét: “Mày... kẻ ăn không ngồi rồi!...” - bỗng ngay sau đó, ngài nghe thấy giọng trẻ thơ.

Ngài nhìn sang phía đối diện.

Đứa con gái mù đang nhảy trong phòng, vừa nhảy vừa vỗ hai tay vào nhau. Khuôn mặt nhợt nhạt của nó ửng hồng, miệng cười tươi, và từ đôi mắt đã nguội lạnh bỗng tuôn chảy những giọt nước mắt như một trận mưa đá.

Cô bé ấy, đứa trẻ khốn khổ, trong căn nhà tĩnh mịch này từ lâu đã không được nếm trải chừng ấy cảm giác! Những giai điệu sai lạc của đàn quay đối với nó đã trờ thành hiện tượng đẹp làm sao! Tiếng kêu của chiếc kèn, thứ tiếng thiếu chút nữa khiến trạng sư bị đứt mạch máu, đã trở nên tuyệt vời làm sao.

Hơn thế nữa, người chơi đàn quay nhìn thấy niềm vui ở đứa trẻ, bắt đầu nện mạnh gót giày xuống mặt đường đá lát và thỉnh thoảng lại huýt sáo như đầu máy xe lửa sắp gặp đoàn tàu.

Chúa ơi! Hắn ta huýt sáo mới tuyệt làm sao!...

Gã người hầu trung thành lao vào phòng làm việc của trạng sư, kéo theo sau mình người gác cổng và nói:

- Tôi nói với thằng đê tiện này, thưa ngài quyền quý, rằng ngay lập tức phải đuổi gã chơi đàn quay đi! Tôi nói, rằng hắn sẽ được nhận thêm tiền lương từ ngài quyền quý, rằng chúng ta có hợp đồng... Nhưng tên thô lỗ này mới tuần trước từ quê lên và chưa biết luật lệ của chúng ta. Nào, bây giờ hãy nghe đây, - gã hầu quát và kéo tay người gác cổng đang sợ hãi- hãy nghe đây, nghe điều mà chính ngài quyền quý sẽ nói với mày!

Người chơi đàn quay đã chơi bản nhạc thứ ba cũng sai lệch và ồn ào như hai bản đầu.

Cô gái mù tỏ ra say sưa.

Ngài trạng sư quay lại người gác cổng và nói với vẻ lãnh đạm thông thường của mình, mặc dù mặt đã hơi nhợt nhạt:

- Hãy nghe đây, này, anh bạn yêu mến... À, mà anh tên là gì nhỉ?...

- Pawel, thưa ngài quyền quý.

- Thế này nhé, Pawel của tôi, tôi sẽ trả cho anh mười zloty mỗi tháng, nhưng anh biết vì sao không?...

- Là để mày không bao giờ cho phép đàn quay vào trong sân! - Người hầu vội vã chen vào.

- Không phải. - Ngài Tomasz nói - Là để trong một thời gian nào đó hằng ngày cứ cho đàn quay vào. Hiểu không?

- Ngài nói gì ạ?... - Gã người hầu, kẻ bỗng nhiên bị mệnh lệnh khó hiểu đó kích động, hét to.

- Là để, cho đến lúc tôi chưa nói chuyện với hắn, thì mỗi ngày đều cho đàn quay vào sân trong. - Trạng sư nhắc lại, vừa nói vừa đút tay vào túi.

- Tôi không hiểu ngài!...- Người hầu lên tiếng với thái độ ngạc nhiên giận dỗi.

- Thật ngu ngốc, anh bạn yêu quý! - Ngài Tomasz âu yếm nói với hắn - Thôi, đi làm đi.- Ngài nói tiếp.

Gã hầu và người gác cổng đã đi ra, còn trạng sư phát hiện thấy rằng gã hầu trung thành của ông ta đang thầm thì gì đó vào tai anh bạn đồng hành và đưa ngón tay chỉ lên trán...

Ngài Tomasz mỉm cười và như để khẳng định những suy diễn đáng buồn của gã hầu, liền quăng cho cây đàn quay mười đồng.

Sau đó, ngài cầm quyển lịch lên, tìm trong đó danh sách các thầy thuốc và ghi lại trên một tờ giấy địa chỉ của vài bác sĩ nhãn khoa. Và bởi lẽ bây giờ người chơi đàn quay đã quay mặt lại phía cửa sổ của ngài và vì mười đồng của ngài, hắn bắt đầu giậm chân và huýt sáo còn to hơn, điều đó đã làm trạng sư tức giận vô cùng. Sau khi cầm mảnh giấy ghi địa chỉ các bác sĩ, ngài đi ra, vừa đi vừa lầu bầu:

- Đứa bé khốn khổ!... Lẽ ra mình nên quan tâm đến nó từ trước mới phải...