CON NGỰA GIÀ CỦA CHÚNG TÔI
Chuyện xảy ra bắt đầu từ chiếc giường cũ, nơi ba đứa chúng tôi nằm ngủ.
Hôm ấy, bố tôi ở ngoài sông về bực mình chuyện gì đó và sau khi ngồi xuống ghế, ông liền đưa tay lên chống đầu. Mẹ tôi hỏi lần đầu rồi lần thứ hai chuyện gì xảy ra với ông, mãi đến lần thứ ba ông mới trả lời, rằng việc làm ở chỗ bãi sỏi đã kết thúc và con ngựa già của chúng tôi sẽ chỉ tiếp tục chở cát thôi. Ngay sau đó, Felek hích khuỷu tay vào mạng sườn tôi, còn mẹ thì rên lên khe khẽ.
Buổi tối, bố phải đi đến bác sĩ, nhưng hình như ông gặp chuyện khó khăn. Ông cứ đi đi lại lại, trầm tư nhìn vào góc nhà, mãi cho đến khi đứng trước mặt mẹ ông mới nói:
- Bọn con trai cần gì giường, Anulka ơi! Tôi ngủ ở dưới đất thì bọn chúng cũng có thể ngủ như vậy được.
Chúng tôi cùng nhìn nhau. Hai tia lửa vàng lóe lên trên cặp mắt bạc của Felek. Đúng như vậy! Chúng tôi cần gì giường? Chỉ tội phải canh để thằng Piotrus không bị ngã xuống đất thôi.
- Tiếp! Lên đường! - Felek hét to và trước khi mẹ tôi kịp lên tiếng trả lời, ba chúng tôi đã kéo đệm cỏ khô xuống đất, còn Felek bắt đầu nhào lộn trên đó.
Sau khi kéo đệm cỏ khô xuống, chúng tôi mới phát hiện ra rằng còn thiếu hai tấm dát giường, và một bên thành giường bị lung lay. Lúc đó, “gã con buôn” mà bố tôi cho gọi tới không thèm nói đến giường, số tiền định mua tính bằng xu đồng hắn đã đút vào túi buộc lại và luồn xuống dưới tấm áo thụng để phía trước ngực. Bố tôi bớt cho hắn mười xu, sau đó hai chục, sau nữa là cả một zloty, nhưng gã Do Thái ương ngạnh không chịu. Mãi đến khi thò bộ râu vào phòng từ ngoài hiên nhà, hắn trả nửa rúp kém bảy xu, nếu như bố tôi đồng ý bán cho hắn thêm cả chiếc gối nữa.
Bố tôi đắn đo, nhìn lên chúng tôi, nhìn lên mẹ tôi; tất cả mọi thứ cộng lại là mười một zloty.
- Thế nào các chàng trai? - Cuối cùng ông hỏi - Tạm thời thiếu gối các bạn có chịu được không, trong khi mẹ đang ốm?
- Ôi ây!
Felek càu nhàu bằng giọng nghèn nghẹt, vì đúng lúc ấy, nó đang trồng cây chuối bằng đầu, và không thay đổi vị trí, nó vứt cái gối ra giữa phòng. Piotrus vồ lấy và ném trở lại cho Felek, Felek lại ném cho tôi, cứ như thế cho đến khi “gã con buôn” giật được khỏi tay, để chúng tôi không làm rách gối.
- Nhưng không kèm áo gối! - Mẹ tôi lên tiếng bằng giọng yếu ớt.
Ngay lập tức, chúng tôi giật chiếc gối khỏi tay “gã con buôn”, mặc dù hắn đã kẹp nó dưới nách và chúng tôi lột áo gối ra.
Sau khi lột áo gối, chúng tôi mới biết chiếc gối ấy đã bị rách ở một góc và từ đó lông chim rơi ra lả tả. Lúc đó, “gã con buôn” lại không muốn trả mười một zloty nữa, chỉ trả mười zloty bớt mười lăm xu.
Cò kè hết lần này đến lần khác, cuối cùng, gã thỏa thuận với cha tôi giá hai rúp*, nhưng phải đưa thêm cho hắn chiếc chăn bông của chúng tôi nữa.
Sau năm 1815, ở phần lãnh thổ Ba Lan thuộc Nga, người ta sử dụng cả hai loại tiền, đó là rúp và zloty, trong đó 10 zloty = 1,5 rúp (ND).
Bố nhìn lên mẹ. Bà ốm yếu và nhợt nhạt đến mức trông như một xác chết nằm ngửa, với đôi mắt lõm sâu.
- Anulka?... - Bố thì thầm hỏi mẹ.
Mẹ bị lên cơn ho, vì vậy không thể trả lời được.
- Chúng con không muốn cái chăn bông ấy đâu, chúng con không muốn! - Felek hét lên - Vì chiếc chăn đó mà đêm nào chúng con cũng phải đánh nhau. Wicek hãy nói đi nào!...
- Đúng như vậy đấy, bố ạ! - Tôi xác nhận với vẻ sốt sắng - Đêm nào chúng con cũng phải đánh nhau, vì nó cứ tuột xuống...
“Gã con buôn” đã cuộn chiếc chăn bông ấy và kẹp vào nách. Chúng tôi chạy sau hắn ra sân với vẻ đắc thắng.
- Chúng mày có biết không? - Felek hét to với bọn trẻ con đang chơi khăng ở đó - “Gã con buôn” đã mua của chúng tao giường, chăn bông và gối! Bây giờ chúng tao sẽ ngủ ở tấm đệm cỏ đặt trên đất!...
- Có chuyện gì lớn lao đâu cơ chứ! - Thằng Jozek người trắng nhợt, con ông thợ may ở nhà ngang bên trái kêu lên - Tao đây đã hai năm ngủ ở nhà ông thợ cả trên mặt đất rồi, mà thậm chí còn không có cả đệm cỏ nữa ấy chứ.
Nó làm chúng tôi phải kính nể. Thế là việc ngủ như vậy của chúng tôi rõ ràng không phải là phát kiến gì mới mẻ.
Ngày hôm ấy, bác sĩ đến chỗ chúng tôi, còn tôi phải chạy ra hiệu thuốc đến hai lần, vì mẹ lại cảm thấy tồi tệ. Khi màn đêm vừa buông xuống, chỉ vừa mới ăn được hai củ khoai tây, chúng tôi đã vội vã đến với chiếc đệm cỏ đặt ở góc nhà, ngay sau lò sưởi. Thằng Felek thậm chí còn vừa cầm miếng bánh mì trên tay, vừa quỳ gối cầu kinh, rồi nhìn hết lần này đến lần khác vào tấm đệm cỏ. Trong chớp mắt, nó liến thoắng cầu “Cha của chúng con” và “Đức Mẹ đồng trinh” nhanh đến nỗi tôi còn chưa bắt đầu làm lễ dâng hiến thì nó đã đấm vào ngực mạnh tới mức căn phòng vang lên tiếng thùm thụp, và chỉ mới vứt chiếc áo ngoài xuống, nó lập tức nằm xuống cạnh lò sưởi. Đúng ra thì cả tôi nữa cũng có ý định nằm cạnh bếp lò, nhưng tôi không muốn tranh nhau với Felek, vì vậy tôi búng vào tai nó một cái và đặt mình xuống cạnh tường, còn Piotrus thì chúng tôi để nằm giữa hai đứa. Ngay lập tức, tôi có cảm giác đầu mình chạy mất đâu đó khỏi gáy, do tôi đã quen với chiếc gối, song sau đó tôi đặt khuỷu tay vào và thế là ổn.
- Bố biết đắp gì cho chúng mày bây giờ, lũ sâu bọ? - Bố tôi nói và nhìn cảnh chúng tôi đứa nọ ôm ấp đứa kia.
Ông nhìn quanh căn phòng, tháo chiếc áo choàng màu xanh thẫm của mình từ cái chốt treo xuống và vứt cho chúng tôi.
Chúng tôi reo lên vì vui sướng và nhanh chóng đút tay vào ống tay áo. Piotrus chỉ cằn nhằn vì không thể nhét tay vào đó được, chúng tôi đã lấy mũ áo choàng đắp cho nó, thế là cu cậu nín lặng. Trước khi đặt mình xuống nằm, bố còn đi đến chỗ chúng tôi một lần nữa.
- Sao nào? Các con có đủ ấm không, lũ ruồi? - Ông hỏi.
- Con ấm rồi. - Tôi trả lời từ bên trong chiếc áo choàng.
- Còn con thì sao đây? - Felek hét to - Ôi, bố ơi, sao con lại nóng thế cơ chứ?
Và nó hất tung cả hai cẳng chân dài ngoẵng, gầy còm của mình ra ngoài để chứng tỏ rằng nó không cần phải đắp.
Quả là một luồng hơi ấm dễ chịu tỏa ra chỗ chúng tôi từ chiếc bếp lò, vì trước buổi tối bố tôi đã mang than về, nhóm lửa và nấu nước chè cho mẹ. Ngay sau đó, chúng tôi ngủ thiếp đi. Trước khi trời sáng, chúng tôi bỗng nhiên thấy lạnh. Lúc bấy giờ, tôi kéo áo choàng về phía mình. Felek lập tức co rúm người lại trong cơn mê, rồi nó cũng bắt đầu kéo áo choàng về phía nó. Tôi không chịu buông ra, ở gần bếp lò nó đã được hưởng hơi ấm nhiều hơn tôi, nó càng cố chui người sâu hơn vào trong chiếc áo.
Khi cố chui như vậy, nó ép người đụng vào Piotrus, bỗng nhiên thằng bé bắt đầu thút thít, còn sau đó thì khóc nhè thật sự.
Mẹ tôi lặng lẽ rên rỉ hết lần này đến lần khác.
- Filip ơi! Filip ơi! - Bằng giọng yếu ớt, bà gọi - Anh hãy đến chỗ bọn trẻ xem, không biết tại sao Piotrus lại khóc.
Bố đang ngủ.
- Bọn trẻ! - Mẹ lại lên tiếng - Tại sao Piotrus lại khóc thế?
- Tại thằng Felek đấy mẹ ạ! - Tôi lên tiếng.
- Không phải đâu, mẹ ơi, tại Wicek đấy! - Ngay lập tức, nó phủ nhận bằng giọng còn ngái ngủ.
Mẹ lại rên rỉ nhỏ hơn. Khi thằng bé không chịu nín, bà cố lết ra khỏi giường, bế Piotrus trên tay và mang nó về chỗ chăn đệm của mình. Chỗ nằm của chúng tôi đã rộng hơn, Felek đấm nắm tay vào cạnh sườn tôi, tôi cũng vậy và sau khi xoay người đối diện nhau, chúng tôi ngủ một giấc ngon lành đến tận sáng.
Mấy hôm sau, “gã con buôn” lại đến. Không ai gọi hắn, hắn đến vì phép lễ độ, như hắn nói, để biết xem mẹ tôi có khỏe hơn không. Hắn bắt đầu đi lại trong phòng, ngó nghiêng cái tủ và những chiếc ghế ngồi. Bố tôi tỏ ra buồn bã vì chuyện gì đó và không muốn nói chuyện nhiều với hắn.
Ngày hôm sau, “gã con buôn” lại đến. Hôm đó, chúng tôi có bữa trưa với khoai tây và muối, vì không còn mỡ; bánh mì cũng vừa mới hết, còn Piotrus đã phải đến nhà trẻ mà không có bữa sáng. Bố lệnh cho tôi chuẩn bị túi để mua than. Felek hích khuỷu tay vào sườn tôi, có vẻ như là chúng tôi sắp được sưởi ấm, gió đang thổi rất mạnh vào nhà chúng tôi. Rồi chúng tôi cùng cười. Tôi đứng lại trong giây lát với cái túi, nhưng chắc là bố quên chuyện mua than. Ông đang vừa ngồi trên giường mẹ vừa đăm chiêu nghĩ ngợi và nhổ râu. Tôi húng hắng ho lần thứ nhất, bố không nhìn về phía tôi; tôi húng hắng ho lần thứ hai, ông nhìn với vẻ cứ như không thấy tôi. Đúng lúc đó, “gã con buôn” đi vào và bắt đầu mặc cả mua cái tủ.
Tôi đổi chân và đứng chờ thêm giây lát, nhưng vội lắm rồi, nước ở cái bơm đã đóng băng và Felek đã chạy ra xe, tôi đánh liều húng hắng ho lần thứ ba. Bố tôi không những không quay mặt lại, cũng chẳng thèm đập tay xuống bàn! Tôi chạy như ma đuổi vào hiên nhà, suýt nữa thì vấp phải ngưỡng cửa, còn “gã con buôn” cũng bước ra ngoài, không đứng lại nữa và bắt đầu đưa ngón tay lên ra hiệu gọi thằng nhỏ Do Thái đứng ở phía đối diện. Bố gọi tôi, mặc dù tay còn đang run rẩy, lệnh cho tôi chạy đi mua than và đưa ra mười sáu xu.
Khi tôi trở về, “gã con buôn” và thằng nhỏ Do Thái ở phía đối diện đã khênh chiếc tủ đi. Bố đứng chắn ngang cửa ra vào để chặn bớt băng giá lọt vào nhà, còn mẹ thì quay đầu về phía tường và khe khẽ ho.
Việc bỏ đi chiếc tủ ở góc nhà, nơi trước đây nó đứng, như tôi còn nhớ, chỉ mở ra cho chúng tôi những quang cảnh mới. Chúng tôi cúi xuống giữa những thứ rác rưởi tích tụ ở đấy và bắt đầu công việc tìm kiếm. Felek tìm được chiếc cúc đồng, nó lấy khâu vào tay áo, còn tôi lấy que bới ra được từ trong khe hở một cái kim to đã gỉ và chiếc còi hình con bò với đôi chân bịt sắt và cánh bị sứt. Chúng tôi bắt đầu thổi còi, nhưng nó đã chết.
Cứ mỗi lần phát hiện được một cái gì đó, chúng tôi đều vui sướng hét to, còn bố không thể giục chúng tôi đến với món tấm ông nấu dành cho bữa trưa, mà chỉ có mẹ là không muốn ăn. Cuối cùng, chúng tôi cũng đã lục lọi mọi thứ, và sau khi tin chắc rằng ở góc đó không còn bất cứ cái gì quý giá nữa, chúng tôi mang những thứ rác rưởi còn lại vứt ra hiên nhà.
Bây giờ, tôi mới phát hiện ra rằng ở chỗ trước kia đặt chiếc tủ, mảng tường trắng hơn so với phần còn lại của căn phòng. Tôi báo tin đó cho Felek. Và vì mẹ cũng nhìn vào góc đó bằng ánh mắt buồn rầu, lúc ấy bố rời nồi tấm, tìm trong hòm hai chiếc đinh đóng vào mảng tường trắng, rồi treo lên đó chiếc váy nâu mẹ mặc vào dịp lễ và chiếc thứ hai màu xanh lam, mặc hằng ngày, đồng thời lấy tấm khăn phủ bên ngoài. Chỗ tường đó trông rất đẹp mắt, còn Felek cùng Piotrus nhanh chóng bắt đầu chơi trò “đi núp đi tìm” ở đó.
Trong thời gian ấy, tình trạng sức khỏe của mẹ có vẻ tồi tệ hơn; bác sĩ ra lệnh cho bà phải ăn loại xúp ngon và thịt tươi. Mặc dù bà đã khóc lóc vì sự mất mát như vậy và cố ngăn cản bố, nhưng suốt tuần ấy, hằng ngày tôi vẫn phải đi đến lò mổ, đôi lúc mua đến cả hai lạng thịt.
Còn “gã con buôn” thì đã quen với việc đến chỗ chúng tôi, vì thế cho dù có ai gọi hay không, hằng ngày ít nhất hắn cũng ghé đến nhà nhòm qua cửa. Thậm chí, đến con Hultay, con chó giữ nhà, cũng không còn sủa khi thấy hắn. Sau cái tủ, “gã con buôn” đã mua của chúng tôi bốn cái ghế nhuộm màu gỗ bồ đào, mà chúng tôi vẫn ngồi ăn trưa trên đó. Với những cái ghế ấy, chúng tôi được dịp vui thỏa thích, vì “gã con buôn” chỉ có thể tự mình mang hai chiếc, hai chiếc còn lại chúng tôi mang đến tận phố Ordynacka.
Chúng tôi đội ghế trên đầu và diễu hành ngay giữa đường phố, còn Felek cứ hét to thế này: “Tránh ra! Tránh ra!”, thế là thậm chí cả xe ngựa chở người cũng dừng lại. Chúng tôi để mặc “gã con buôn” ở phía sau mình, mặc dù gã Do Thái đó vừa đuổi theo chúng tôi vừa gào to rằng chúng tôi là lũ kẻ cướp, quân phá hoại và những từ vớ vẩn gì đó mà bọn Do Thái nghĩ ra. Đến tận phố Ordynacka, bọn tôi vẫn tiếp tục đánh trống ầm ầm trên ghế. Mọi người chạy đến, họ tưởng có “trò diễn”. Mãi tới khi “gã con buôn” đuổi đến chỗ chúng tôi và vò bộ râu khi nhìn thấy đám đông tụ tập bên những chiếc ghế, gã liền đưa cho chúng tôi đồng ba xu để chúng tôi ra về.
Chuyến đi làm chúng tôi thích thú đến mức chỉ hỏi có cái gì cần mang đi nữa hay không.
Đặc biệt, Felek ngày càng có nhiều sáng kiến mới. Chỉ vừa từ nhà trẻ về, nó lập tức đặt tay chéo lên vai, đi đi lại lại trong phòng và nhìn khắp mọi ngóc ngách như một chuyên viên đánh giá đồ vật.
- Hay là bán chiếc nồi sắt kia đi, bố nhỉ? Hay bán cái chậu giặt bằng gỗ hoặc cái đồng hồ?
- Cút đi! - Bố quát. Bây giờ gần như lúc nào ông cũng tức giận vì chuyện gì đó và buồn rầu.
- Felek! Con nói gì thế? - Mẹ lên tiếng bằng giọng yếu ớt - Chắc không lâu nữa con muốn bán cả linh hồn của mình đấy nhỉ?
Tôi và Piotrus cũng lên tiếng phản đối dữ dội.
- Ôi!... Bán nồi ư?... Còn gì nữa?... Thế chúng ta sẽ nấu tấm và cả khoai tây nữa bằng gì?
- Lại cả đồng hồ nữa!... - Piotrus tức giận nói thêm - Nếu không có đồng hồ thì anh biết khi nào muốn ăn hoặc ngủ?...
- Ôi ây!... - Felek lên tiếng với bộ mặt kẻ vô thần đã hết thời - Nói gì chứ nói chuyện đó!... Còn mày dù đồng hồ có chỉ giờ hay không chỉ giờ thì lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện ăn thôi.
- Còn anh thì lao đến bà chủ cửa hàng để bà ấy cho “khúc giò thủ loại tồi” với cái bánh mì tròn.
- Tao không lao đến! - Felek mặt đỏ bừng cãi lại.
- Anh có lao đến!
- Không lao đến.
- Đúng rồi, mày có lao đến! Chính tao trông thấy mày ăn “khúc giò thủ” gì đó...
- Em ăn “giò thủ” ư? Thề có Chúa, em không ăn!...
Đến đây nó đấm ngực thùm thụp.
- Thế thì hà hơi ra thử!...
Felek lấy hơi và phà ra mạnh đến mức hơi nước bay cả ra. Nó đã vượt qua cuộc thử thách ấy với vẻ đắc thắng. Không có gì chứng tỏ là nó đã ăn “giò thủ loại tồi”, còn ở đáy sâu trong bụng nó chỉ thấy phát ra một sự rỗng không to lớn.
Tuy bị phản đối, Felek vẫn không từ bỏ ý định của mình. Một hôm, nó đi quanh phòng và nhìn khắp các bức tường, rồi bỗng nhiên hét to:
- A bán cái chảo, bố ơi! Hay cái cối! Hay cái bàn là!...
Nghe mà khiếp sợ. Cái chảo, cái cối và cái bàn là - đó gần như là báu vật của gia đình. Chúng được đặt trang trọng trên ngăn gác ngay đối diện cửa ra vào và phát ra ánh vàng lóng lánh. Cái chảo đặt ở vị trí chính giữa. Như tôi còn nhớ, chưa bao giờ tôi thấy mọi người dùng cái chảo đó nấu nướng món gì. Đơn giản đó là sự phỉ báng. Tuy thế cứ mỗi tuần vào ngày thứ Bảy, mẹ lại lấy gạch vụn hoặc tro lau chùi nó, đặt ở trong phòng mà quai của nó phát ra tia sáng lấp lánh đập vào mắt khi bước vào nhà. Đứng cạnh chảo là cái cối với cái chày một bên, và cái bàn là một bên. Cái cối cùng tuổi với tôi. Bố mua nó khi tôi chào đời để làm mẹ vui lòng và biểu thị cho bà thấy trái tim nhân từ đối với con trai. Tôi không quý trọng đứa trẻ cùng tuổi nào với tôi ở sân nhà, chà, thậm chí trên toàn dãy phố bằng cái cối ấy. Mẹ chỉ nhấc nó xuống một lần trong năm, vào thứ Sáu trước Giáng sinh, để giã quế làm bánh mì dẹt phục vụ lễ Giáng sinh. Lúc bấy giờ, mọi người thường kể lại câu chuyện trong đó tôi và cái cối là những nhân vật chính. Thực ra, chúng tôi chỉ khác nhau ở một điểm là tôi thì do con cò cắp đến cho không, còn cái cối thì phải mất tiền mua. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên là tôi coi sự tồn tại của cái cối còn quan trọng hơn sự tồn tại của bản thân mình, đặc biệt khi nhìn vào sự quý trọng mà nó luôn luôn được dành cho, trong khi đối với tôi đã xảy ra nhiều chuyện khác nhau cả lúc bấy giờ lẫn về sau này...
Chiếc bàn là cũng rất hiếm khi được lấy ra khỏi ngăn gác vì mức sống hằng ngày của chúng tôi. Mẹ chỉ dùng nó để là những chiếc áo sơ mi ngày Chủ nhật của bố và mũ trùm đầu bằng vải tuyn của mình; những thứ quần áo mặc bên trong còn lại đều đưa vào máy cán phẳng. Có lần, vì chiếc bàn là ấy mà mẹ giận bà gác cổng vì bà ta muốn mượn nó ở chỗ chúng tôi.
- Bà thân mến! - Mẹ nói với bà ta bằng giọng rất cương quyết - Đồ “quý báu” đó không phải để cho mượn, không thể để bàn tay người khác động vào!... Cái đó đáng giá lắm!... Đấy là thứ hàng mua dùng cho cả đời!
Mọi người vẫn còn nhớ bà gác cổng đã đóng cửa lại như thế nào, đã văng ra những lời lẽ ra sao ở ngoài hiên và sau đó, mẹ tôi vì tức giận mà tay run lên bần bật như thế nào khi cắt bánh mì ăn sáng cho chúng tôi. Kể từ lúc đó, chiếc bàn là đã trở nên vô cùng quý giá trong ý nghĩ của tôi. Thậm chí, tôi còn liệt kê nó vào hạng những đồ vật tồn tại một lần cho cả đời, thí dụ như lễ Đặt tên, phép Thêm sức ở nhà thờ và chiếc áo choàng màu xanh thẫm, thứ mà bố cũng nói là dùng cho cả đời. Còn bây giờ, xin mọi người hãy nhìn xem, Felek đã nói như vậy về chiếc bàn là, cứ như đó là một chiếc muỗng ăn hay cái chổi cũ ấy.
Tôi ngước nhìn bố, và tin chắc rằng thế nào ông cũng véo tai Felek. Nhưng bố lại găm ánh mắt xuống đất, sờ râu. Cũng còn may là lúc ấy mẹ đang ngủ.
Ngày hôm ấy, tôi không chạy đi mua thịt cho mẹ. Bố chỉ đưa cho tôi chiếc cặp lồng mua xương và dùng nó để nấu xúp lúa mạch.
Sáng hôm sau, bố đi về nhà lạnh cóng và vừa xoa xoa đôi tay xương xẩu vào nhau vừa gọi ngay từ ngưỡng cửa:
- Anulka ơi, hãy vui lên! Nhìn sông Wisla mà xem, nước đang xuống, gió đã chuyển hướng thổi về phương tây rồi.
Nhưng sau khi nhìn lên bố, mẹ liền vỗ hai tay vào nhau, rồi ngồi hẳn trên giường.
- Filip ơi! - Bà kêu to - Thế cái áo lông đâu?
Bây giờ, tôi mới để ý thấy bố về nhà không có áo lông.
Nhưng tôi không có thời gian để quan sát, vì bố đã nắm lấy hai tay Piotrus và cùng nó quay một vòng tròn rất hăng hái. Sau đó, bố cười rất to, thả Piotrus ra, rồi ngồi xuống giường mẹ và lại cười, cười đến nỗi nước mắt chảy ra giàn giụa khắp bộ mặt đen đúa. Ông nhanh chóng lau mặt bằng ống tay áo cũ.
- Có gì đâu, Anulka ơi! Em thấy người thế nào?... - Ông hỏi.
Sau khi ngả người xuống gối, mẹ liền nằm bất động như một cái xác.
- Filip ơi! - Cuối cùng, bà thì thầm với nỗi ăn năn - Anh làm gì thế?... Bán cái áo lông rồi ư?...
- Áo lông! Áo lông! - Bố nhắc lại - Ôi, áo lông là cái gì?... Áo lông có phải là cái gì lớn lao đâu! Anh đã còng người ra khoác nó chừng ấy thời gian. Ôi sao nó nặng thế, đồ khỉ gió, nặng giống như lương tâm người thợ xay bột ấy*... Và con người cảm thấy nhẹ nhõm hơn khi vứt bỏ nó khỏi mình!
Lương tâm người thợ xay rất nặng. Trong cánh thợ xay vẫn tồn tại tập quán là không được để một hạt lúa lép nào rơi vào cối xay, nếu không thì toàn bộ công việc của họ sẽ bị hỏng.
Khi mẹ rên lên khe khẽ, ông lấy tay vuốt mớ tóc bà và nói thêm:
- Anulka, cũng tại em nữa, em là cái cây cong, hơi một tí đã rên rỉ lên... Có áo lông hay không đâu phải là chuyện gì lớn lao cơ chứ? Chuyện gì nào? Cái áo lông có cho mình ăn hay trả tiền thuê nhà thay cho mình không, sao nào? Mùa xuân cận kề rồi, hãy đợi đấy, chỉ cần nước sông rút đi, thì mình sẽ có tiền sắm áo lông mới ngay... Cứ chờ đấy rồi sẽ thấy, ngay cả trong cái áo khoác ngoài bình thường, người cũng sẽ nóng ran lên khi công việc mở ra...
Ngày hôm ấy, ông bác sĩ lại đến chỗ chúng tôi và tôi lại chạy ra hiệu thuốc.
- Ở đây lạnh quá đấy, - bác sĩ nói khi bước ra - và có vẻ rất ẩm. Phải đốt lò nhiều lên...
Ông rùng mình rồi phủ lên người chiếc áo lông thú ngắn. Bố cúi đầu lắng nghe. Suốt cả ngày hôm ấy bố rất vui, nhưng chắc phải có điều gì đó day dứt, bởi chỉ cần mẹ không nhìn, thì ông liền thay đổi nét mặt, trở nên ngơ ngác, đôi mắt từ màu bạc chuyển thành tối thẫm, trong đó chứa đựng một nỗi đau đớn sâu thẳm.
Chúng tôi đã mua gần một yến than ở cửa hàng quen thuộc và ngọn lửa bốc lên kêu tanh tách trong bếp lò. Bố kê chiếc ghế dài xích gần hàng hiên và ngồi lên đó, mẹ cũng quay mặt lại để nhìn vào ngọn lửa và thế là tất cả chúng tôi đều nóng ran cả lên đến nỗi... Ôi chao, sướng ơi là sướng!
Lại hai tuần nữa trôi qua, bố không kiếm được nhiều; còn ở trong nhà công việc cũng khá bề bộn. Chúng tôi phải giặt giũ quần áo này, phải nấu thức ăn này, mặc dù không phải lúc nào cũng cần đun nấu, luôn luôn không phải làm cái này thì cái khác, hay bị phái đi đâu đó... Sức khỏe của mẹ cũng không khá hơn, không tồi đi; bà chỉ gầy đi một cách khủng khiếp và mặt thì trắng bệch ra như chiếc khăn trùm. Những cơn ho cũng đến hành hạ bà nhiều hơn, đặc biệt vào lúc trời sắp sáng.
Thỉnh thoảng, những bà láng giềng đến nhà thăm và tỏ ra ngạc nhiên vì trông thấy mẹ tiều tụy như vậy.
- Giá như Chúa Jesus cho về bên này hoặc bên kia dứt khoát lại hơn! - Bà thợ làm đinh nói với bố.
- Phỉ phui! - Bố nhổ nước bọt - Sao bà nói những chuyện như vậy nhỉ? Cái gì đây, bà thương tôi hay sao? Có phải chúng tôi chỉ thề nguyền sống với nhau lúc khỏe mạnh, còn lúc ốm đau thì không hay sao? Có phải là bà ấy hao tổn sức lực khi ở bên một ai đó chứ không phải ở bên tôi và các con tôi?...
Và chuyện kết thúc ở đó.
Còn giá rét vẫn cứ tiếp diễn. Mặc dù gió đã chuyển sang hướng tây, trong nhà vẫn lạnh lẽo tới mức hơi lạnh bốc cả lên. Gần tối có giảm bớt đi chút ít thì tuyết lại rơi dày đến nỗi không còn nhìn thấy trời đất gì nữa. Piotrus không còn đến nhà trẻ, chỉ trốn ở sau lò sưởi hoặc ngồi dưới chân giường mẹ, trông thật yếu ớt. Còn tôi cùng Felek nặn những viên tuyết và ném vào nhau để làm nóng người lên.
Một hôm, có lẽ trong bếp lò không đốt lửa. Bố khoác cho mẹ chiếc chăn rách và phái tôi đến bà láng giềng xin một thỏi đường cho vào thuốc lá cây. Bà láng giềng không có. Bố liền mở nắp hòm lên để xem liệu có còn đồng xu nào sót lại hay không, vì mẹ ho nặng đến mức ngực như có cái gì đó bật ra. Rồi ba đứa chúng tôi làm thay bố, trong hòm đã từng chứa nhiều đồ đạc khác nhau, những thứ ít khi chúng tôi nhìn thấy. Ở đó đã từng có con dao cạo râu của bố đặt trong chiếc hộp nhỏ, trong hộp thứ hai đựng dây chuyền hạt san hô của mẹ, chiếc khăn đen bằng lụa - thứ mà bố vẫn quàng cổ nhân ngày lễ lớn, chiếc hộp của mẹ với lớp vải lót đỏ, tấm khăn trải bàn vàng có vẽ hoa, tấm vải trải giường may từ loại lụa mỏng.
Lần này chúng tôi hoàn toàn thất vọng; chiếc hòm trống rỗng. Chỉ ở một góc, trong chiếc khăn đồ đã buộc lại có chiếc kèn harmonica thời trai trẻ của bố. Bố lắc lắc chiếc hòm hết lần này đến lần khác để tìm chút đường, như sợ rằng nếu nâng lên thì sẽ làm rớt mất nó. Chiếc hòm kêu lắc cắc rồi im bặt. Felek liền đút tay vào trong hòm.
- Còn kèn harmonica, bố ơi! - Nó hét to và nhấc bọc vải đỏ lên - Không thể bán cái kèn harmonica này ư?...
- Felek!... - Từ trên giường mẹ lên tiếng bằng giọng yếu ớt.
Bố đỏ mặt. Ông lấy lại từ tay Felek bọc vải đỏ với cái kèn harmonica và đặt lại nó vào hòm, lấy khóa khóa lại.
Ngày hôm ấy, chúng tôi không ăn sáng lâu; và bữa trưa cũng không có. Tôi nghĩ chắc bố sẽ phái mình đi mua ít nhất là bánh mì, nhưng không phải thế. Chỉ riêng Piotrus được một mẩu bánh từ ngày hôm qua. Tôi cùng Felek vào hiên nhà chơi trò dạy học, vì chúng tôi chẳng biết làm gì để tiêu khiển thời gian. Có lẽ đã hai giờ, hoặc ba giờ chiều, mẹ gọi tôi đến giường bằng giọng mệt mỏi, ngắt quãng:
- Wicek ơi, hãy đi đến bà cán vải ở phố Szczygla, con có biết không?
- Ôi ây... Sao con lại không biết cơ chứ... Bà ấy ở nhà số 3...
- Nhà số 3. - Mẹ nhắc lại - Đó là một người phụ nữ lương thiện, có thể bà ấy sẽ mua bàn là...
- Bàn là?... - Tôi nhắc lại với vẻ không tự tin, không biết mình nghe đúng không.
- Chỉ có điều bảo bà ấy hãy đến vào buổi tối để mụ gác cổng không nhìn thấy... Thôi, con đi đi...
Tôi cầm cái mũ lên tay thì mẹ lại gọi lần thứ hai:
- Wicek ơi!...
Nhưng khi tôi đến gần thì mẹ nhìn lên tôi và nói:
- Không có gì, không có gì! Con đi đi...
Tôi đến cửa ra vào thì mẹ gọi thêm lần nữa.
Bà ngẩng đầu khỏi giường, đôi mắt lõm sâu mở to hết cỡ.
- Và cái cối... - Bà thầm thì nhỏ đến mức tôi phải căng tai ra để nghe.
Tôi hóa đá. Tôi có cảm giác như chính bản thân mình bị đem đi bán.
- Cái cối ư? - Tôi thầm thì nhắc lại, vừa nói vừa cúi sát xuống mặt mẹ.
Bà thở nặng nề, không đều, trong ngực nghe có tiếng rít chói tai. Mẹ không đáp lại lời nào, chỉ giữ chặt tay tôi. Bàn tay bà lạnh và ẩm. Hai hoặc ba lần bà mở miệng mà không nói nên lời, vầng trán vàng vọt của bà nhăn kín lại.
Bà hít luồng không khí thật sâu như một tiếng thở dài.
- Và cả cái chảo nữa... - Bà gắng gượng lên tiếng thầm thì.
- Cả cái chảo?... - Tôi cũng nói bằng giọng nhỏ như vậy.
Bà chỉ phẩy tay, đầu ngả xuống gối, mắt nhắm nghiền.
Tôi chạy như bị bỏng, vừa chạy vừa cầm mũ trong lòng bàn tay. Ở hiên nhà tôi gặp Felek:
- Mày có nghe thấy không? - Tôi hét vào tai nó - Cả cái chảo, cả cái cối, cả bàn là, mọi thứ chúng ta đều đem bán như mày nói đấy!
- Thú vị thế à! - Felek cười và nhảy cẫng lên vì tin vui ấy, vừa nhảy vừa vỗ tay vào đùi đen đét.
Cú nhảy ấy là trò hay nhất trong toàn bộ chương trình biểu diễn của nó. Không bao giờ tôi có thể sánh kịp nó về chuyện đó. Nó dễ dàng tung người trên không trung giống như cá bơi trong nước. Ngay sau đó, cả hai chúng tôi cùng chạy đến phố Szczygla, vì Felek rất hay tự ái và không bao giờ muốn tôi hơn nó dù chỉ là sợi tóc.
Bà cán vải không muốn nói nhiều với tôi. Bà bảo mình không cần cái chảo, còn cối và bàn là thì bà đã có rồi. Chúng tôi tức giận ra về.
- Cái mụ ấy thật lạ! - Felek kêu to - Chảo mụ ấy không cần! Cái chảo như của chúng ta mà mụ ấy bảo không cần.
Với đôi mắt lấp lánh, mẹ chờ đợi chúng tôi, và khi tôi nói kết quả của chuyến đi, bà thở dài như vừa cảm nhận được sự thanh thản vô cùng to lớn.
Trước buổi tối, bà lại gọi tôi và ra lệnh chạy đi tìm “gã con buôn”. Tôi và Felek cùng bay ra khỏi nhà và cảm thấy hạnh phúc vì vấn đề vẫn còn chưa kết thúc. “Gã con buôn” đến, ngắm nghía cái bàn là, ngắm nghía cái cối, ngắm nghía cái chảo và mấp máy miệng với vẻ miệt thị, nói rằng mấy cái đó chỉ bán được cho đồng nát. Cái bàn là đã cháy, chiếc cối thì bé quá, cái chảo lại mỏng và tán đinh ri-vê ở mép... Cả ba thứ đó hắn trả mười zloty.
Mẹ nhổm dậy rồi lại nằm xuống giường.
- Cái gì?... Mười zloty ư? Chỉ riêng cái cối giá đã là năm zloty và mười ba xu! Còn bàn là!... Còn chảo!...
- Ôi chao, bán cho đồng nát... - “Gã con buôn” bắt đầu.
Nhưng mẹ không để hắn nói hết câu đã run tay chỉ ra cửa bảo hắn cút.
- Đi đi!... Đi đi!... Đừng để tôi nhìn thấy ông lần nữa!... Không phải chỉ có ông là người duy nhất trên thế gian này. - Và mẹ lệnh cho chúng tôi lập tức đi đến chỗ “con buôn” khác, gã Rudy, kẻ mới mua của chúng tôi cái bàn cuối cùng.
Chúng tôi rất quý gã Do Thái này, vì gã có nhiều sáng kiến khác nhau. Mua cái bàn nọ xong, hắn nói sẽ trả cho tôi và Felek công mang nó sang phố thứ hai mỗi đứa một quả bồ đào. Quả của Felek bị thủng lỗ, nhưng suốt ngày nó dùng để thổi còi, làm như tàu hỏa đang chuyển bánh. Chúng tôi vội chạy đi tìm Rudy. Ở góc phố phía trước cửa hàng, hắn đang nói liến thoắng với gã con buôn lúc nãy vừa ở chỗ chúng tôi ra. Sau đó, hắn đã chỉnh lại cái túi chứa chai lọ trên vai và đi theo chúng tôi.
Sau khi ngắm nghía cái cối, cái chảo và chiếc bàn là, gã chỉ trả có mười zloty và mười sáu xu cho chúng, và cũng nói rằng cái cối thì ngay cả bán đồng nát cũng không đáng. Mẹ rét run cả người lên và mặc dù gần như bất động ở trên giường, bà cũng giằng lấy cái chảo ở tay gã Rudy và buông rơi xuống đất. Nó kêu như tiếng chuông vỡ.
Tôi có cảm giác kì lạ khi nghe tiếng kêu ấy. Tôi nghĩ đó là tiếng nổ giòn tan của các góc tường nhà chúng tôi.
Mẹ lấy tay che mắt và bật khóc.
Trước khi trời tối còn có khoảng năm “con buôn” nữa đến chỗ chúng tôi, nhưng cứ mỗi gã về sau lại trả ít hơn một chút, dù chỉ là hai hoặc ba xu. Họ nói năng liến thoắng, tranh cãi nhau, giằng từ tay nhau chiếc cối và cái bàn là của chúng tôi, tiếng ồn ào còn lớn hơn cả ở chợ Pociejow.
Felek chỉ làm tôi đau nhói từ niềm vui ấy.
- Bọn họ buồn cười thật! - Nó vừa kêu vừa cố nén nụ cười và để tự an ủi, nó liền nhào lộn một vòng thật đẹp mắt.
Cuối cùng, bọn Do Thái cũng rời đi, sau khi làm không khí trong căn nhà ngột ngạt khó thở. Chiếc chảo, cái bàn là và cái cối vẫn đứng một hàng cạnh mẹ trên chiếc ghế dài. Bà nhìn tôi bằng ánh mắt buồn rầu, mệt mỏi, gần như ngây dại. Khi cái giá lạnh càng về tối càng tăng lên, Piotrus do không chịu đựng được bắt đầu rên rỉ rằng nó lạnh, nó đói, mẹ lại lệnh cho tôi chạy đến mụ gác cổng hỏi xem mụ có mua cái bàn là hay không.
Nhưng rõ ràng là mụ gác cổng không quên chuyện từ chối của mẹ lần ấy. Ngay lập tức, mụ phồng mình lên như một cái chum.
- Nếu phải mua thì tôi sẽ mua cái mới! Đồ cũ như thế thì tôi cần gì?
Khi tôi nói lại điều đó cho mẹ, cảm giác như có những ngọn lửa phả vào bà.
- Không thì thôi! - Bà lên tiếng bằng giọng run run giận dỗi - Mọi người thấy bà ấy không? Đồ cũ!... Đồ cũ!... Rõ là bà chủ! Khi mượn thì đối với bà ấy là tốt, còn khi mua thì nói đồ cũ! Hãy đợi đấy, mụ là con cá thờn bơn... mụ phù thủy...
Bà lên cơn ho và ôm lấy ngực, song không có gì để đưa bà uống, vì thuốc lá cây đã hết từ lâu rồi.
- Đúng là trò diễn!... - Felek thầm thì làm tôi nhói đau.
- Wicek ơi! - Mẹ lên tiếng bằng giọng ngập ngừng - Con chạy đến “gã con buôn” đầu tiên ấy, cái gã trả mười zloty ấy. Cái gã đen ấy, biết không? Bảo hắn đến đây. - Và sau khi nhắm nghiền mắt lại, mẹ liền thầm thì - Mình bán giá chó má, mình bỏ phí, còn mụ, mụ phù thủy, con cá thờn bơn, mụ thôi ngay cái giọng chê bai tài sản của người ta là đồ cũ đi... Mụ không được dùng đâu! Không được dùng đâu!
Và bà câm lặng, cạn kiệt hoàn toàn.
Felek vỗ đùi đen đét, cùng với tôi chạy đến chỗ gã Do Thái. Chúng tôi đang nghĩ không biết bây giờ phải tìm hắn ở chỗ nào đây, thì lại thấy hắn đứng gần như ngay trước cổng nhà chúng tôi, hai tay đặt sau lưng và nhổ nước bọt sang bên cạnh. Hoàn toàn giống như hắn đang chờ chúng tôi. Khi Felek chạy đến, thúc cùi tay vào hắn, đôi mắt hắn sáng lóe lên như mắt mèo và lấy tay vuốt mũi. Hắn vội vã đi theo chúng tôi. Nhưng bây giờ cả hắn cũng không trả thêm, chỉ “đúng chín zloty” thôi. Câu “đúng chín zloty” hắn nói bằng giọng như thể với cái giá chín zloty ấy, hắn đã phải bù thêm vào đến một nửa rúp.
Mẹ lại đỏ bừng mặt.
- Người ơi là người! - Bà kêu - Những cái đó có mất đi thứ gì đâu! Đầu tiên ông trả mười zloty! Những thứ đó vẫn còn nguyên như vậy!
- Ô hô, dẫu rằng vẫn là những thứ đó thì sao nào? - “Gã con buôn” lạnh lùng đáp lại - Tôi nghĩ lại rồi...
- Ông hãy trả mười zloty, như đã trả... Ông phải có lương tâm chứ!...
- Chà chà, tôi có lương tâm! Nếu như tôi không có lương tâm thì tôi đã chỉ trả có tám zloty thôi, còn vì tôi có lương tâm, nên tôi đã trả đúng chín zloty.
- Cầu Chúa trừng trị ông thật nặng vì tổn thất của tôi. - Mẹ rên rỉ.
- Trừng trị cái gì? - “Gã con buôn” vùng vằng - Vì sao lại trừng trị?... Có phải tôi muốn lấy không đâu? Có phải tôi trả trấu đâu? Đây, tôi trả tiền mặt đây này.
Mẹ không nói gì thêm, mặt bà trở nên trắng bệch như tấm bánh thánh. Khi gã Do Thái đếm tiền, mắt Felek long lên trước mỗi đồng mười xu. Cứ đồng nào tương đối cũ là nó lập tức quăng ra rìa kêu là tiền giả. Gã Do Thái lúc đầu còn kêu phì phì, sau lại đỏ tía mặt mày đến mức như bị trúng phong, thậm chí có lần hắn vung tay định đánh Felek. Khi đếm đến những đồng cuối cùng, bỗng nhiên hắn mỉm cười, lấy từ áo ghi lê đồng xu đã bị đen xỉn và đưa nó cho Felek rồi nói:
- Này, mày là thằng bé thông minh đấy! Mày sẽ trở thành một công chức! Đây, cho mày một xu mua bánh bàng!
- Ôi, hãy nhìn xem, ông cất những đồng ba xu ở đâu? - Vừa nói nó vừa gõ ngón tay vào đống tiền xu có đến một zloty - Đây, ông hãy đưa thêm ra đi và đừng nhắc với tôi chuyện bánh bàng làm gì.
Gã Do Thái tặc lưỡi mỗi lúc một mạnh vì khâm phục.
- A kluger Bub *. - Gã thầm thì với chính mình.
Kluger Bub (tiếng Đức): cậu bé thông minh (ND).
Cuối cùng, mọi người cũng trao đổi xong. Gã Do Thái vội vã nhét chiếc bàn là, cái cối và cái chảo vào bao tải bẩn thỉu của mình, còn mẹ thì sai tôi đi mua than và bánh mì.
Khi bố về đến nơi, lửa ở bếp lò đã được đốt lên, còn chúng tôi thì lần lượt húp xúp nấu trong chiếc nồi sắt.
Bố đứng lại ở ngưỡng cửa, nhìn vào ngọn lửa, nhìn chúng tôi, sau đó nhìn khắp gian nhà. Khi ánh mắt dừng lại ở ngăn gác trống rỗng, ông cúi mặt xuống và rón rén đi đến giường mẹ.
Không lâu sau, trời cũng dịu bớt. Đêm đêm, tiếng nổ mạnh của những lớp băng tan trên sông Wisla vọng lại nghe rất rõ. Tuy vậy, chúng tôi vẫn phải mua than, bởi vì độ ẩm trong nhà cao đến mức nước từ trên tường rỉ cả xuống.
Ngôi nhà của chúng tôi trống rỗng chẳng còn gì.
- Sáng ánh cả lên... - Như Felek nói.
Chiếc áo tồi tàn của mẹ ra đi, chiếc đồng hồ ra đi, chậu giặt bằng gỗ ra đi, còn khi chiếc áo choàng màu xanh thẫm của bố cũng ra đi thì tôi hoàn toàn mất niềm tin vào những thứ đồ “một lần dùng cả đời”, đặc biệt sau chuyện vừa xảy ra với chiếc bàn là.
Bây giờ, chúng tôi đi lại trong căn nhà trống không như đi trong nhà thờ, Felek còn lấy bàn tay bịt miệng hét to để nghe tiếng vang đáp lại. Ông bác sĩ vẫn đến thăm bệnh mẹ, còn tôi thì vẫn chạy ra hiệu thuốc. Cái nồi sắt cũng vẫn còn, nhưng chúng tôi rất hiếm khi dùng để nấu bữa trưa. Chúng tôi thường luộc khoai tây cho bữa sáng, thứ còn lại dùng cho cả bữa tối, còn buổi chiều, chúng tôi chạy đuổi theo lũ mèo của chủ nhà, vì chúng kêu khủng khiếp trên mái nhà.
Một lần, bố ngồi xuống cạnh chiếc hòm đặt trên mặt đất, mở nó ra và trầm tư rất lâu.
Ngày hôm ấy trời rất ẩm, nước từ mái nhà chảy xuống, lũ chim sẻ im tiếng, lần đầu tiên trong mùa đông mặt trời hé mắt nhìn vào căn nhà tầng dưới của chúng tôi. Tuy nhiên, tình trạng của mẹ lại tồi tệ hơn. Suốt cả đêm, cơn ho hành hạ mẹ, và bà đòi uống thuốc hơn năm lần. Không có thuốc. Felek đi rón rén đến nhìn qua vai bố. Nó nghĩ, chỉ có Chúa mới biết, sẽ nhìn thấy cái gì đấy, nhưng chẳng có gì cả. Bố chỉ lắc đầu, vuốt râu và nhìn trong im lặng vào gói vải màu đỏ đang nằm dưới đáy hòm. Cuối cùng, ông thò tay nhấc nó lên, lấy chiếc harmonica ra và sau khi ngồi lên giường mẹ, ông bắt đầu thổi.
Mẹ nghe và tươi tỉnh lên một chút, bảo mang Piotrus đến giường, còn chúng tôi đứng bên cạnh, lắng nghe.
Bố càng thổi vui vẻ hơn và vừa thổi kèn vừa nói như thế này với mẹ:
- Anulka, em có nhớ không, ở Bielany ấy? Em nhớ không chúng ta đã quen nhau như thế nào? Anh vừa đi vừa thổi cho em nghe bản nhạc nào?
- Em nhớ chứ, thật tuyệt vời! - Mẹ nói nhỏ.
- Còn bản này nữa, em nhớ không? Đây là bản anh thổi vào lễ Ba vua, ngày lễ xá tội, ở Solec...
- Em nhớ! - Mẹ lại thầm thì.
- Một bản sztajer* mạnh! - Felek nháy mắt với tôi sau khi huých khuỷu tay vào mạng sườn tôi.
sztajer (tiếng Đức): bản nhạc dân gian chơi ở thành phố, giống valse, loại nhạc để nhảy điệu polka (ND).
- Lúc ấy, em mặc chiếc áo ca rô màu đỏ và sau này khi vắng em, anh thấy nhớ khủng khiếp, hình như đến ba ngày liền thì phải. - Bố nói bằng giọng mềm mại - Còn đây nữa, Anulka?...
- Bài này em không biết...
- Sao em lại không biết?... Đây là bài mà hôm ở Wola, chúng mình cùng đi với người anh em đồng hao, anh đã ném cốc bia vào gã người Đức, vì hắn đến ngồi cạnh em...
- À, đúng rồi! - Mẹ thì thầm.
Bố chơi tiếp. Ông giữ chiếc harmonica trên đùi, gõ nhẹ những ngón tay vào các lỗ nhỏ trên chiếc kèn. Trong đời mình, tôi chưa bao giờ nghe thấy bản nhạc nào đẹp hơn thế.
- Anulka! Còn đây?... Thế nào?...
- Em nhớ, Filip ơi! - Mẹ nói - Đó là vào hôm Chủ nhật, ngày thông báo hôn phối. Chúng ta cùng mẹ quá cố có mặt ở Czerniakowa...
- Sau một tháng chúng ta đã về nhà. - Bố nói tiếp - Chúng ta chơi nhạc xanh...
- Ôi, lúc bấy giờ sao tử đinh hương thơm thế!... Còn chim họa mi hót gì nào...
- Còn em lúc ấy trông mới tuyệt vời làm sao... Giống như bông hồng trong tháng Tư ấy...
Felek huých khuỷu tay vào mạng sườn tôi.
- A, anh lúc ấy chơi mới hay làm sao, tuyệt vời... Anh chơi hay làm sao...
Bố cười, mẹ thở dài, hình như sắp ngủ.
Cả bây giờ bố vẫn thổi rất hay. Lúc ban đầu vui nhộn, hoạt bát, giống như mời nhảy, tự đôi chân đã muốn uốn éo. Sau đấy giống như có cái gì đó bối rối pha trộn vào niềm vui ấy, càng lúc càng buồn hơn, càng lúc càng não nề hơn, giống như tiếng khóc, buồn đến nỗi Felek lấy bàn tay giụi mắt hết lần này đến lần khác. Cuối cùng, bố đưa đẩy chiếc harmonica sang cả hai phía và từ đó bật ra giọng bi ai giống như người ta chơi đại phong cầm tiễn đưa người chết.
Mẹ đã ngủ. Giờ đây, nhiều lần mẹ có giấc ngủ giống như ai đó rắc anh túc vào mắt mẹ. Sau đó, mẹ tỉnh dậy lại yếu ớt, trắng bệch, cùng những giọt mồ hôi lạnh trên khuôn mặt gầy gò.
Bố ngồi một lát với mái đầu rũ xuống, rồi thở dài, đứng dậy, gói chiếc kèn harmonica vào tấm khăn đỏ, cặp dưới nách, đội mũ và rón rén bước ra ngoài.
Khi ba chúng tôi có mặt ở hiên nhà phía dưới tấm khăn trùm của mẹ, Felek đụng vào mạng sườn tôi và nói thầm thì:
- Anh Wicek ơi!
- Cái gì?
- Anh biết không?... Ông già khóc khi thổi kèn đấy!
- Ê ê ê?...
- Thề có Chúa! - Felek thề, đấm nắm tay vào ngực mạnh đến mức có gì đó kêu lên trong ấy - Em có mù đâu, em nhìn thấy... Chỉ có điều, những giọt nước mắt cứ tuôn theo râu chảy xuống... Anh còn muốn gì nữa? - Sau giây lát nó nói tiếp - Nếu như con người ta cứ nhắc hết chuyện này đến chuyện khác...
Nó thở dài nặng nề, nằm im lặng rồi quay mặt về phía lò sưởi; ngay sau đó, tôi đã nghe thấy tiếng ngáy của nó. Mãi đến khuya bố mới về nhà, lại còn mang cho mẹ thuốc, đốt lửa và nấu nước chè. Đêm ấy rất lâu tôi không thể ngủ được, trong đầu lúc nào cũng vang lên bản nhạc, lúc thì buồn rầu, lúc thì vui vẻ. Tôi cũng mơ thấy rất nhiều thứ cho đến tận sáng. Tôi mơ thấy nào là vườn cây ở trong nhà và cây tử đinh hương nở hoa trên lò sưởi, rồi mơ thấy chim họa mi hót trong hiên nhà, và trên tường nhà, nơi treo chiếc đồng hồ giờ đây có một vầng trăng bạc tròn vành vạnh đang soi bóng...
Khi tôi thức dậy, Felek đã đứng ở hiên nhà và thắt lại dây lưng của chiếc quần dài đang tụt xuống. Qua cái áo sơ mi hở phanh ngực nổi lên những chiếc xương sườn gầy gò của nó, từ chiếc cổ áo nhô ra cái cổ mỏng dính như cổ chim sẻ và đôi chân vô cùng khẳng khiu làm cho người nó trông cao hơn nhiều so với thực tế.
- Felek ơi! - Tôi gọi - Tại sao mày cứ cao ngẳng lên như cây sào trong tháng qua thế?
- Đồ ngốc! - Felek cười - Em chỉ vươn người ra để bụng nhỏ đi thôi.
Nó ưỡn người ra trước mặt tôi như một sợi dây đàn.
- Anh thấy thế nào? - Nó hỏi.
- Trông mày như con cá mòi ngâm dấm.
- Thế thì tốt - Felek kêu - Em sẽ đánh ngã gã hề.
Tôi bật cười.
- Còn gì nữa? - Nó nói - Bánh mì tồi, anh có nghĩ thế không?
Và sau khi vỗ tay vào đùi, nó nhảy lên cao, nhào lộn một vòng trên không trung, rồi nhẹ nhàng đáp xuống trên cả hai tay hai chân như một con mèo.
- Anh biết không? - Nó nói - Vì thằng khốn này mà người em dài ra như vậy đấy. - Và nó chỉ bằng đầu vào Piotrus, kẻ thường thức dậy sớm nhất và đi đến chiếc nồi nhòm ngó xem còn có gì sót lại của ngày hôm qua không.
- Khi chúng em đi nhà trẻ, - Felek tiếp tục - thì suốt dọc đường nó lải nhải kêu đói. Mỗi ngày, em phải đưa cho nó nửa miếng bánh mì của mình để nó im miệng lại.
- Ê ê ê? - Tôi không tin hỏi lại, cảm thấy rằng ở địa vị mình, có lẽ tôi không thể có hành động anh hùng như vậy.
- Thề có Chúa! - Felek lập tức thề và đấm nắm đấm vào bộ ngực khô khốc như que củi.
Và khi nhìn thấy Piotrus với đôi chân ngắn vòng kiềng, cái bụng đầy khoai tây phệ ra đang lăn lóc khắp phòng, cả hai chúng tôi cùng bật cười sằng sặc không gì kìm giữ được.
- Tại sao chúng bay lại cười như vậy ở đó, các chàng trai? - Mẹ hỏi bằng giọng yếu ớt.
- À, cười vì Piotrus, - Felek đáp - nó béo thế kia...
- Nó béo gì mà béo, thật khổ! Nó làm sao mà béo được! - Mẹ nói - Piotrus ơi! - Bà nói tiếp - Con hãy đến đây với mẹ, ôi thằng bé côi cút.
Và bà cười với nó, lấy tay vuốt đầu nó, trong khi hai chúng tôi cố nén cười vì chuyện khôi hài ấy - như Felek nói.
Nhưng nét mặt vui tươi của chúng tôi nhanh chóng chuyển sang vẻ cau có.
- Anulka ơi, em biết không? - Hôm ấy bố nói và ngồi lên giường mẹ - sắp tới phải thả con ngựa già của chúng ta vào giữa mọi người thôi.
- Con ngựa già?... - Mẹ lên tiếng và ngỏng người dậy trên giường - Anh phải sợ Chúa chứ, Filip ơi! Chính nó là kẻ nuôi sống tất cả chúng ta mà!...
Bố tựa người khó nhọc trên tay và im lặng sờ râu.
- Nuôi sống hoặc không nuôi! - Sau giây lát, bố lên tiếng - Với cái sàng sắt thì đừng có xuất hiện trên sông, nước chảy xiết như vậy thì chỉ có mà trôi ngay! Bên cạnh bãi sỏi không có bất cứ công việc gì, cát cũng mất dần, thậm chí người có thể vác trên vai được. Còn ở đây phải mua rơm băm mỗi ngày, rồi còn cả cám gạo, dù chỉ là một nắm nhỏ, lúa kiều mạch thì chẳng bao giờ nó được thấy trong máng ăn; bây giờ lại còn chuồng trại, rồi thì cả ổ rơm nữa, mà mọi thứ đều đắt đỏ.
Mẹ chỉ rên rỉ.
Chúng tôi nghe mà hết hồn. Piotrus giương mắt lên nhìn bố và há hốc mồm, tôi thì đứng như hóa đá.
Mãi đến khi Felek huých một cú vào mạng sườn tôi mạnh đến mức tối tăm mặt mũi lại.
- Anh có nghe thấy không, Wicek? - Nó thét vào tận tai tôi.
- Tao có điếc đâu cơ chứ! - Tôi cũng hét lại vào tai nó còn to hơn.
Chúng tôi cùng chạy như bay vào hiên nhà, bị nỗi đau đớn ấy bao phủ khiến chúng tôi chỉ còn biết vò đầu.
Chúng tôi vô cùng yêu quý con ngựa già. Như tôi nhớ, trên thế gian này luôn luôn có bố, mẹ và con ngựa già. Felek thì mãi sau này lũ cò mới mang đến. Piotrus cũng như vậy, nhưng con ngựa già thì thuộc vào nhóm những sinh linh luôn hiện hữu. Nó hiện hữu bởi vì đang hiện hữu. Đơn giản là tôi không thể tưởng tượng được cả lúc sinh ra cũng như kết thúc của nó. Con ngựa già thuộc về chúng tôi, còn chúng tôi thuộc về nó; không thể tách chúng tôi khỏi nó cũng như tách nó khỏi chúng tôi. Điều đó là lẽ hiển nhiên, khiến tôi không thể chấp nhận cách thức sắp đặt sự vật khác. Ai có thể thiếu vắng trong quần thể chúng tôi cũng được, song đó không bao giờ là con ngựa già. Vì nó chính là toàn bộ niềm vui của chúng tôi.
Khi bố từ ngoài sông về nhà, chúng tôi chạy ra - chạy đến chỗ nào? Đến tận nửa đường, chỉ để nhanh chóng được gặp con ngựa già. Ai có cái gì thì mang đến gí sát vào tận miệng nó: mẩu bánh mì, củ khoai tây, mẩu vỏ chanh tìm được ở ngoài sân...
Và con ngựa già cũng rất yêu chúng tôi. Ngay từ xa, nó đã hí vang về phía chúng tôi và bước nhanh, vểnh tai lên vui vẻ, còn khi chúng tôi vỗ vào cổ nó, vào cạnh sườn nó, nó hiểu rất rõ sự vuốt ve ấy và ngẩng cao cái đầu nặng nề của mình lên hít vào tóc, vào áo chúng tôi. Đặc biệt, thằng Piotrus là đứa được nó yêu thích nhất; đơn giản là nó hí vang lên về phía bố để được mang thằng bé trên lưng.
Khi bố tháo ách cho nó là lúc trò cười thực sự bắt đầu. Ngay lập tức, Felek nhảy lên mạng sườn gầy gò bị chiếc vòng cổ cũ làm xây xát, và trong lúc con ngựa già vục cái đầu to lớn của mình vào tận đáy cái túi đựng rơm khô buộc ở gáy nó, cu cậu sau khi quỳ gối hoặc đứng trên một chân, bắt đầu hất chiếc mũ ra và hét to:
- Đây là kị sĩ nổi danh từ tầng dưới mặt đất, kẻ không bao giờ thay đổi nét mặt! Tên là Feliks Mostowiak, hiệu là khúc xương! Người gầy nhưng can đảm! Ai cho nhiều hơn nào?...
Nghe câu “Ai cho nhiều hơn nào”, chúng tôi bật cười ầm ĩ đến nỗi mọi người từ những ngôi nhà ngang chạy cả ra xem.
Sau Felek, đến lượt thằng Piotrus leo lên con ngựa già một cách vất vả, chúng tôi chỉ có thể nhấc được nó đặt lên ngồi chút xíu, do cái bụng to đùng nặng nề của nó. Trong niềm say vui chiến thắng, chúng tôi dẫn con ngựa già cùng với thằng Piotrus đi vòng quanh sân trong, không để yên cho nó ăn nắm rơm nọ, rồi Felek lại mở mũ ra và hét lớn:
- Còn đây Piotrus, hiệu là con chuột! Nó có hai cái tay và tám cái lỗ! Không có hai cái răng ở phía trước và đang cưỡi trên con ngựa già!... Ai cho nhiều hơn nào?...
Không biết nó lấy từ đâu ra câu “Ai cho nhiều hơn nào” đưa vào đây, chưa bao giờ tôi có thể đoán được; chính miệng Felek thì nói rằng là vì cái thứ nhất rất hợp với cái thứ hai. Và thế là chúng tôi lại bật ra tràng cười om sòm ma quái, giống như không phải chúng tôi có ba người, mà có tới ba chục người.
- Mọi người của tôi ơi, hãy nhìn xem này, - bà chủ cửa hàng béo phị đứng cạnh cửa ra vào nói - còn cái gì mà bọn nhóc nhà Mostowiak không nghĩ ra với con ngựa này cơ chứ? Đúng là một lũ khỉ chính cống trong rạp xiếc.
Rồi bà ta đưa tay sang bên cạnh và cười rung người, cười đến nỗi đôi mắt trên khuôn mặt béo phị hoàn toàn biến mất.
- Ôi, đáng đánh đòn, đáng đánh đòn! - Bà kêu to với bố hoặc: “Tôi sẽ mách mẹ” hoặc: “Tôi sẽ mách con ngựa già”.
ít nhất chúng tôi cũng không dám coi thường lời đe dọa ấy; và Piotrus thường xuyên nhận được miếng đồ ăn nào đó, đặc biệt từ Felek, chỉ để nó “không mách con ngựa già”. Bởi lẽ chúng tôi không thể chịu đựng được cảnh nó nhìn rầu rĩ bằng một mắt như vậy lên chúng tôi, trong khi con mắt thứ hai bị đui mù và trắng xóa, với hàng mi bạc cứ chậm rãi ngước lên và cụp xuống như có điều gì ăn năn hối lỗi...
- Anh có thấy không, Wicek? - Felek thường nói - Con ngựa già này có cái gì đó trong con mắt đui mù kia, sao nó cứ dùi xuyên như vậy?... Em muốn thà bị bố rắc cát vào mắt, còn hơn là nó cứ nhìn mình như vậy. Nó nhìn như thấu đến tận danh dự con người ta ấy...
Mỗi ngày, chúng tôi đều tắm cho con ngựa già. Nhưng chẳng bao giờ thoát được việc tranh giành nhau cái chổi và cái lược, thứ lúc đó dùng để chải lông mao cho nó! Chải bờm nó! Con ngựa già vẫn đứng nhẫn nại, chỉ nhấp nháy con mắt lành lặn và thỉnh thoảng lại phe phẩy cái đuôi chậm rãi như để đuổi ruồi.
Ngay sau lễ Phục sinh, chúng tôi bắt đầu cho con ngựa già đằm xuống nước. Nước còn lạnh như băng, thế mà chúng tôi đã xắn quần lên và lội xuống sông. Cuộc hành trình mới oai phong làm sao! Bọn trẻ trong phố đều muốn chạy theo chúng tôi, nhưng bị chúng tôi đuổi đi.
Cứ như thế cho đến khi con ngựa già được xối nước, chùm lông sau chân và hai bên mạng sườn nó được kì cọ, cho đến khi chúng tôi nghe thấy tiếng huýt sáo gọi nó của bố. Khổ nhất là để thoát khỏi chúng tôi và sự chăm sóc của chúng tôi, con ngựa già cứ bước vài bước xuống sâu hơn.
- Nó chết đuối! Nó chết đuối! - Piotrus gào to và tím tái mặt mày, rồi nó ngồi xuống đất, lấy hai tay ôm ngang bụng mình.
Chúng tôi vội lội theo sau con ngựa và cầm đuôi kéo nó vào bờ. Sau đó, trong trạng thái lạnh cóng người và mệt mỏi, chúng tôi đi về nhà, con ngựa già đi trước, chúng tôi ở phía sau, ướt sũng, nước chảy ròng ròng như người chết đuối.
Và bố định bán con ngựa yêu thương ấy của chúng tôi đi ư?
Trong suy nghĩ của mình, điều đó với chúng tôi chẳng khác gì ngày Tận thế.
Ngay sau khi chạy đến hiên nhà, tôi liền đấm một nhát vào tai Felek, còn nó đánh lại vào gáy tôi, tôi đấm trả không thương tiếc vào lưng nó một cú trời giáng, nó đấm vào mạng sườn tôi mạnh đến nỗi tôi nổ đom đóm mắt. Rồi hai đứa tôi nắm tóc nhau và cuộn tròn lại vật nhau lăn lông lốc đến tận ngưỡng cửa. Nỗi đau xót trong chúng tôi lớn như vậy và sự khắc nghiệt từ nỗi đau xót ấy lớn nhường ấy, vì thế không đứa nào chịu buông ra, thậm chí không đứa nào hé răng kêu nửa lời.
Cũng sau trận chiến đó, chúng tôi cảm thấy một phần trong tim được nhẹ nhõm.
Chúng tôi về nhà, cái lạnh từ bên ngoài đuổi theo vào, còn bố vẫn không ngừng khuyên mẹ:
- Bây giờ bán nó còn được chút ít tiền. Nếu để nó gầy nữa, vì từ giờ rơm băm mình phải bớt đi, thì ai còn trả mình như vậy? Sao? Anulka ơi! Em nghĩ thế nào, trái tim của anh?
Mẹ thở dài thật nặng nề.
- Em còn biết nghĩ gì nữa, Filip của em?... Em nghĩ rằng Chúa bắt chúng ta chịu căn bệnh nặng nề này. Em nghĩ mình trở thành hòn đá đeo trên cổ anh và sẽ kéo anh xuống đáy... Em nghĩ về những đứa trẻ mồ côi kia...
Bà lấy tay che mắt và khóc nức nở. Bố hôn khắp đầu mẹ.
- Anulka ơi!... Trái tim của anh!... Anulka ơi!... - Bố lặp đi lặp lại đến nỗi bỗng nhiên chính mình cũng khóc rống lên.
- Tuyệt vời!... - Phía sau tôi, Felek càu nhàu và lấy nắm tay lau mắt.
Mấy ngày trôi qua và cũng không thấy ai nói đến việc bán con ngựa già nữa.
Sức khỏe của mẹ ngày càng tồi tệ. Đêm đêm, cơn ho nặng nề, khò khè từ trong giấc ngủ thảng thốt của mẹ đánh thức chúng tôi. Nhiều hôm mẹ ngủ thiếp đi cả vào ban ngày và mặc dù ngoài trời đã ấm áp hơn, cơn sốt rét thỉnh thoảng lại làm mẹ run lên cầm cập. Bố đi đi lại lại trong nhà, lưng gù hẳn xuống và da héo vàng như già đi cả chục tuổi. Ông rất nặng tay đối với chúng tôi và bất kể vì cớ gì cũng túm tóc chúng tôi, song chúng tôi không xuất hiện ở đó nhiều, phần lớn thời gian trong ngày chúng tôi chỉ có mặt trong chuồng ngựa.
Từ khi nguy cơ mất con ngựa già đe dọa, con vật đó trở nên quý giá đối với chúng tôi gấp đôi. Bây giờ, mỗi tiếng phì phì, mỗi cái vẫy đuôi của nó đều làm chúng tôi mủi lòng.
- Ôi... nó ăn kìa! - Piotrus gọi, nhìn vào nó bằng ánh mắt ngưỡng mộ