Lucius
Ba ngày sau, từ bệnh xá trở về tầng I, Shay Bourne trở thành con người với một sứ mạng phải thực hiện. Mỗi sáng, khi quản giáo đến hỏi xem ai muốn tắm hay đi dạo ở sân, Shay liền yêu cầu được nói chuyện với Giám đốc nhà tù Coyne. “Điền vào đơn yêu cầu,” quản giáo bảo thế với Shay hết lần này đến lần khác, nhưng có vẻ nó không vào nổi đầu của anh ta. Khi đến lượt Shay được vào trong cái cũi được gọi là sân tập thể dục của chúng tôi, thì anh đứng ở một góc xa, nhìn về phía đối diện là nơi ở của các nhân viên điều hành, và hét lên yêu cầu của mình bằng hết hơi sức. Khi người ta đem bữa ăn tối đến, anh lại hỏi xem liệu giám đốc có đồng ý gặp anh không.
Một ngày nọ, lúc Shay vừa tắm vừa hét ầm lên đòi gặp bằng được giám đốc nhà tù, Calloway quay sang hỏi tôi, “Mày biết vì sao hắn được chuyển đến tầng I không? Bởi hắn đã làm cho tất cả mọi người khác ở cùng tầng cũ bị điếc hết rồi.”
Crash đế vào, “Nó là thằng thiểu năng. Chẳng thể kiểm soát hành động. Kiểu như tên chén thịt trẻ em của chúng ta vậy. Phải không, Joey?”
“Anh ta không bị thần kinh,” tôi nói. “Chắc hẳn IQ của Shay gấp đôi mày đó, Crash à.”
“Câm miệng lại, thằng ăn tạp,” Calloway nói. “Câm hết, tất cả tụi mày!” Cái giọng cấp bách của hắn khiến chúng tôi im bặt. Calloway quỳ trước của buồng, đang câu bằng sợi dây rút ra từ chăn của hắn với một đầu cột tờ tạp chí cuộn tròn. Hắn thả ngay vào giữa hành lang, một hành động liều lĩnh bởi quản giáo có thể về lại bất kỳ lúc nào. Lúc đầu chúng tôi không biết hắn đang làm gì, bởi khi chúng tôi câu thì phải có hai người để chuyền cho nhau bất kỳ thứ gì, từ một tập vở cho đến thanh chocolate Hershey, nhưng rồi chúng tôi để ý thấy một vật nhỏ hình oval sáng trên nền nhà. Chỉ Chúa mới biết tại sao có con chim nào lại làm tổ ở cái hốc địa ngục như thế này, nhưng vài tháng trước có một con đã bay qua sân tập thể dục vào và làm như thế. Một quả trứng rơi xuống và vỡ ra, chú chim non nằm trên nền, vẫn chưa lớn đủ, lồng ngực lép kẹp nhăn nheo của nó đập tanh tách như động cơ máy.
Calloway kéo cái trứng lại, từng phân một. “Nó không sống nổi đâu,”
Crash nói. “Mẹ nó bây giờ chẳng muốn nó nữa.” “Ừ, thì tao muốn,” Calloway nói.
“Đặt nó ở nơi nào ấm đi,” tôi gợi ý. “Gói nó trong khăn tắm hay gì đó.” “Dùng áo thun của mày,” Joey thêm vào.
Calloway quát, “tao không nghe lời khuyên của một thằng dụ dỗ trẻ con,” nhưng rồi một chốc sau lại hỏi, “Mày nghĩ áo thun sẽ có tác dụng à?”
Trong lúc Shay hét lên đòi gặp giám đốc nhà tù, thì chúng tôi lắng nghe Calloway tường thuật trực tiếp: Con chim đã được gói trong áo. Con chim đã chui vào trong chiếc giày tennis bên trái của hắn. Con chim đang khá lên. Con chim đã mở mắt trái trong nửa giây.
Tất cả chúng tôi đã quên mất cảm giác quan tâm đến một điều gì đó nhiều đến độ không thể nào để mất được. Năm đầu tiên ở đây tôi thường xem trăng tròn là thú cưng của mình, như thể hằng tháng nó xuất hiện chỉ dành riêng cho tôi vậy. Và mùa hè năm ngoái, Crash đã rải mứt trên mái ống thông hơi để nuôi một đàn ong, nhưng mục đích thì chẳng phải vì tinh thần nông dã mà với một niềm tin ngốc nghếch rằng hắn có thể luyện cho đàn ong cách bâu xé Joey khi hắn ngủ.
“Cao bồi đến nhốt chúng kìa,” Crash nói, một lời cảnh báo cho biết các quản giáo lại sắp vào dãy buồng. Vài giây sau, cửa mở, các quản giáo đứng trước hốc tắm chờ Shay đưa tay vào còng để chuẩn bị cho hành trình sáu mét về lại buồng giam.
“Họ chẳng biết thế nào nữa,” tôi nghe thấy tiếng quản giáo Smythe. “Họ chẩn đoán là vấn đề viêm phổi và hen suyễn. Họ nói có thể là do dị ứng, nhưng trong phòng con bé chẳng có thứ gì nữa, Rick à, nó như một buồng giam vậy.”
Đôi khi các quản giáo nói chuyện với nhau trước mặt chúng tôi. Họ không bao giờ nói trực tiếp với các phạm nhân về cuộc sống của mình, và như thế là tốt. Chúng tôi chẳng ai muốn biết chuyện cái gã ngày ngày khám xét chúng tôi có một đứa con trai vừa mới ghi bàn quyết định trong trận bóng hôm thứ năm. Tốt hơn nên để tình nhân loại qua một bên.
Smythe lại nói tiếp, “Họ bảo rằng tim của bé không thể chịu thêm kiểu áp lực như thế này. Mà tôi cũng vậy. Anh có biết phải đứng nhìn con mình với đầy dây nhợ bao bì gắn vào người là thế nào không?”
Viên quản giáo kia, Whitaker, là một người Công giáo, hắn thích chèn thêm vào khay ăn của tôi những câu kinh thánh viết tay lên án đồng tính luyến ái. “Cha Walter chủ trì một buổi cầu nguyện cho Hannah vào ngày Chúa nhật này. Cha nói rất mừng nếu được thăm anh ở bệnh viện.”
“Một linh mục chẳng thể nói được cái gì tôi muốn nghe cả,” Smythe lẩm bầm. “Loại Chúa nào lại làm chuyện này với một đứa trẻ?”
Shay đã vươn tay ra khỏi cửa buồng tắm để bị còng lại, rồi cửa mở ra. “Giám đốc có nói sẽ gặp tôi không?” anh hỏi ngay.
“Có,” Smythe vừa nói vừa dẫn Shay về buồng, “ông ấy muốn anh đến nốc trà.”
“Tôi chỉ cần năm phút mà thôi…”
“Anh không phải là người duy nhất có vấn đề,” Smythe quát. “Điền vào đơn yêu cầu.”
“Tôi không thể,” Shay trả lời.
Tôi bắt đầu cất giọng. “Quản giáo? Liệu tôi cũng điền một đơn có được không?”
Smythe đã khóa xong cửa buồng của Shay, anh thò tay vào bọc lấy ra một tờ rồi nhét vào ô cửa buồng tôi.
Ngay khi các quản giáo đi khỏi tầng, một tiếng chiêm chiếp yếu ớt kêu lên.
“Shay?” Tôi hỏi. “Tại sao anh không điền đơn yêu cầu?”
“Tôi không thể sắp xếp được từ ngữ cho đúng.”
“Tôi không chắc giám đốc quan tâm đến ngữ pháp làm gì.”
“Không, mà là khi tôi viết kia. Cầm bút lên, là chữ xoắn hết lại.”
“Vậy thì nói tôi nghe, tôi sẽ viết.”
Một khắc thinh lặng, rồi Shay hỏi. “Anh làm cho tôi?”
“Hai đứa mày đóng tuồng à?” Crash nói. “Tụi mày làm tao thấy bệnh.”
“Bảo với giám đốc,” Shay nói như ra lệnh, “tôi muốn hiến tim, sau khi ông ta giết tôi. Tôi muốn tặng nó cho cô bé cần nó hơn tôi.”
Tôi để tờ giấy áp vào tường, và viết bằng bút chì, ký tên Shay. Tôi cột tờ giấy vào đuôi cần câu của mình, và chuồi nó qua khoảng hở hẹp dưới cửa buồng của Shay. “Đưa nó cho quản giáo đi tuần sáng mai.”
“Mày biết đó, Shay,” Crash đăm chiêu. “Tao không biết mày là thứ gì nữa. Ý tao là, một mặt, mày là súc sinh giết trẻ em. Với những gì đã làm với đứa nhỏ đó, mày hẳn cũng loại ký sinh gớm ghiếc như thằng Joey vậy. Nhưng mặt khác, mày hạ một thằng cớm, và tao thực sự biết ơn khi thế gian này bớt đi một con heo. Vậy tao nên cảm thấy thế nào đây? Tao ghét mày, hay tôn trọng mày?”
“Chẳng cái nào hết,” Shay nói. “Cả hai.”
“Mày biết tao nghĩ gì không? Giết một đứa trẻ là xóa sạch mọi thứ tốt đẹp mà mày đã làm.” Crash đứng dậy, bắt đầu cầm lấy ca đựng cả phê bằng sắt của hắn đập vào tấm mica. “Ném nó đi. Ném nó đi. Ném nó đi.”
Joey, vốn thường không ngoi nổi lên khỏi đáy, là kẻ đầu tiên nhập hội. Rồi đến Texas và Pogie hùa vào, bởi chúng làm bất cứ việc gì Crash sai bảo.
Ném nó đi.
Ném nó đi.
Tiếng quản giáo Whitaker vang lên trên loa. “Mày có vấn đề à, Crash?”
“Tôi không có vấn đề. Thằng rác rưởi giết trẻ em này mới là kẻ có vấn đề. Này quản giáo, tôi nói nè. Để tôi ra ngoài trong năm phút, tôi sẽ tiết kiệm tiền thuế của New Hampshire cho việc kết liễu tên này…”
“Crash,” Shay nói nhẹ nhàng. “Yên nào.”
Bỗng một tiếng rít từ cái bồn nhỏ trong phòng khiến tôi quay lại. Chưa kịp đoán được chuyện gì thì nước từ đầu vòi đã bắn tung tóe. Và đây là chuyện đáng kinh ngạc vì hai điều, thứ nhất thường thì nước chẳng bao giờ mạnh hơn mức nhỏ giọt, ngay cả trong phòng tắm cũng vậy. Thứ hai, nước bắn tung tóe trên bậc hố xí bằng thép, có màu đỏ đậm.
“Mẹ nó!” Crash hét lên.” “Tao ướt hết rồi!”
“Này, nó như máu,” Pogie nói, giọng kinh hãi. “Tao không rửa bằng thứ đó đâu.”
“Nó có cả trong hố xí,” Texas thêm vào.
Chúng tôi đều biết là đường ống thông nhau. Và như thế, tin xấu là bạn chẳng thể thoát được những thứ thối tha của những kẻ quanh mình, nói theo nghĩa đen đấy. Mặt sáng sủa hơn là, bạn có thể xả một tờ giấy chạy suốt dãy buồng, nó sẽ trồi lên một lát ở hố xí phòng kế bên trước khi chạy xuống hệ thống cống. Tôi quay người nhìn vào hố xí của mình. Nước có màu sẫm như ngọc đỏ.
“Thánh thần thiên địa,” Crash nói. “Nó không phải máu. Là rượu.” Hắn bắt đầu lảm nhảm như thằng điên. “Nếm nó đi, mấy thằng đàn bà. Rượu đây rồi.”
Tôi vẫn chờ. Tôi không uống nước từ vòi ở đây. Tôi có cảm giác như thuốc trị AIDS của tôi, được đưa đến theo phiếu, có vẻ là thí nghiệm của nhà nước trên những phạm nhân khả dụng… Tôi cũng không uống từ hệ thống nước có lẽ cũng của cái thí nghiệm này. Nhưng rồi, tôi nghe thấy Joey bắt đầu cười phá lên, Calloway sì sụp uống nước nơi vòi, còn Texas và Pogie thì hát những bài nhậu ca. Thật vậy, không khí của cả tầng thay đổi hoàn toàn đến nỗi quản giáo Whitaker hoang mang trước cảnh tượng đang diễn ra và phải hét to trên loa. “Chuyện gì đang xảy ra vậy? Ống nước chính bị rò rỉ sao?”
“Anh có thể nói như thế,” Crash đáp. “Hay anh có thể nói rằng chúng tôi đang khát vô cùng.”
“Đến đây nào, quản giáo,” Pogie đế vào. “Chúng tôi sẽ mời lượt rượu kế.”
Có vẻ ai cũng thấy chuyện này thật hài, nhưng rồi đứa nào cũng nốc hơn lít cái thứ nước chẳng ai biết là gì này. Tôi dí ngón tay vào dòng nước sẫm vẫn đang chảy mạnh từ bồn của tôi. Nó có thể là kim loại hay mangan, nhưng đúng thật thứ nước này có mùi như đường và sóng sánh. Tôi cúi đầu xuống vòi và uống thử một ngụm.
Adam và tôi là tay sành rượu, từng đi nhiều chuyến đến các vườn nho California. Nhân dịp sinh nhật, Adam đã tặng tôi một chai vang đỏ 2001 Dominus Estate, và chúng tôi dự định sẽ khui nó vào đêm Giao thừa. Vậy mà, vài tuần sau, tôi về phòng thì thấy chúng nó quện vào nhau như dây leo, còn chai rượu nằm đó, ngả nghiêng trên mép bàn đầu giường và nhuốm đỏ thảm phòng, như máu đổ tràn vậy.
Nếu ở trong tù lâu như tôi, bạn sẽ cảm nghiệm được nhiều cách phê rất mới. Tôi đã uống rượu chưng cất từ nước hoa quả trộn với bánh mỳ và kẹo Jolly Rancher, tôi đã hít nước khử mùi, tôi đã hút vỏ chuối khô cuộn trong một trang kinh thánh. Nhưng chẳng có gì sánh được thứ này. Thưa thật với Chúa, đây là rượu.
Tôi cười phá lên. Nhưng chẳng bao lâu sau, tôi bắt đầu khóc, những giọt nước mắt chảy dài cho những gì tôi đã mất, cho những gì tôi đã để lọt qua kẽ tay. Bạn chỉ có thể nhớ được những gì mà bạn nhớ mình từng có, và đã rất lâu rồi cuộc sống thường nhật của tôi không có chút tiện nghi nào. Tôi đổ đầy rượu vào một ca nhựa và uống sạch, tôi uống đi uống lại cho đến khi quên mất sự thật rằng tất cả những điều phi thường đều có hồi kết, một bài học mà tôi có thể tuyên bố dựa trên chuyện đời mình.
Đến lúc này, các quản giáo đã nhận ra có chuyện gì đó hỗn loạn ở đây rồi. Hai người lao xuống tầng I, đầy tức giận và dừng lại trước cửa buồng của tôi. “Mày,” Whitaker ra lệnh. “Còng.”
Tôi trì hoãn dông dài lúc đưa cổ tay ra ô cửa, để khi Whitaker mở xong cửa buồng thì tôi đã có sự bảo đảm của Smythe vừa đến rồi. Tôi ngoái lại nhìn Whitaker nhón tay vào dòng rượu và đưa lên lưỡi. “Lucius,” hắn nói, “cái gì đây?”
“Quản giáo à, lúc đầu tôi nghĩ nó là vang đỏ thượng hạng,” tôi nói. “Nhưng bây giờ tôi thấy nó giống vang rẻ tiền hơn.”
“Nước chảy từ bể nước của thành phố,” Smythe nói. “Phạm nhân chẳng thể quấy được nó.”
“Có lẽ đây là phép lạ,” Crash hát vang. “Anh biết hết về phép lạ mà, phải không nào quản giáo nhồi kinh thánh?”
Cửa phòng tôi đóng lại, và còng cũng được cởi. Whitaker đứng trên hành lang ngay trước phòng tôi. “Ai làm chuyện này?” hắn hỏi, nhưng
chẳng ai thèm nghe. “Ai chịu trách nhiệm?”
Crash đáp lại, “Ai quan tâm?”
Whitaker bèn đe dọa, “Vậy thì giúp tao, nếu không ai trong tụi mày nhận tội, tao sẽ cho bảo trì cắt nước của tụi mày trong tuần tới.”
Crash cười phá lên. “Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ cần một cái cớ bắt mắt, Whit à.”
Khi các quản giáo nổi điên, chúng tôi ai cũng cười phá lên. Những chuyện chẳng hài chút nào cũng trở nên vui, tôi cũng chẳng buồn nghe Crash nói gì. Cũng đến lúc, rượu chảy nhỏ giọt rồi ngưng hẳn, nhưng khi đó Pogie đã phê rụng, Texas và Joey thì hợp bè hát “Danny Boy,” còn tôi cũng lờ đờ rồi. Thật vậy, điều cuối cùng tôi nhớ là Shay hỏi Calloway xem hắn định đặt tên cho chú chim là gì, và Calloway trả lời: Người Dơi Chim. Calloway đòi cãi nhau với Shay, nhưng Shay nói chẳng muốn tham gia. Thật sự thì Shay không uống.
Hai ngày sau khi nước ở tầng I hóa thành rượu, hàng lô lốc thợ nước, nhà khoa học, và quản trị nhà tù đến thăm buồng của chúng tôi.
Có vẻ như trong khắp nhà tù, chuyện này chỉ xảy ra cho chúng tôi mà thôi, và lý do duy nhất khiến những nhà chức trách tin được chuyện này là bởi khi khám buồng, các quản giáo đã tịch thu những chai dầu gội, chai sữa, thậm chí là túi bóng chúng tôi dùng để trữ rượu trước khi nó cạn, và chất lỏng trong đó giống hệt như chất lấy ra từ nùi ống. Dù không một ai cho chúng tôi biết kết quả kiểm nghiệm, nhưng mọi người kháo nhau rằng chất lỏng này chắc chắn không phải là nước lọc từ vòi.
Các đặc ân tập thể dục và tắm của chúng tôi bị ngưng suốt một tuần, như thể việc này do lỗi của chúng tôi vậy. Và phải mất bốn mươi ba giờ tôi mới được cho phép gặp y tá nhà tù, Alma, người luôn toát ra mùi vải và chanh, với một búi tóc tết khổng lồ đến độ tôi tưởng tượng hẳn cô phải cần có giường thiết kế riêng để ngủ được. Thường thì, hai ngày một lần, cô đến đưa cho tôi những thẻ chứa đầy thuốc viên sáng rực và to như chuồn chuồn. Cô cũng bôi kem cho những phạm nhân bị nấm ăn chân, kiểm tra những chiếc răng bị ma túy đá ăn mòn, cũng như làm đủ mọi việc khác chưa đến mức phải vào thương xá. Tôi thừa nhận đã nhiều lần giả bệnh để Alma đến đo nhiệt độ hay huyết áp. Có khi suốt nhiều tuần, cô là người duy nhất chạm vào tôi.
Ngay khi quản giáo Smythe vừa đưa cô vào buồng của tôi, Alma đã nói ngay, “Nè, tôi nghe thấy có chuyện khá thú vị ở tầng I. Anh kể cho tôi được không?”
“Kể chứ, nếu tôi có thể,” tôi nói và liếc mắt về phía viên quản giáo đi kèm. “Hay có lẽ thôi.”
“Tôi chỉ có thể nghĩ đến một người từng biến nước thành rượu,” cô nói, “và mục sư của tôi sẽ bảo là chuyện này chẳng xảy ra ở nhà tù tiểu bang hôm thứ hai đâu.”
“Có vẻ mục sư của cô có thể gợi ý Chúa Jesus lần sau nên thử làm bằng nho Syrah thì hơn.”
Alma bật cười, và nhét nhiệt kế vào miệng tôi. Qua vai cô, tôi nhìn chằm chằm quản giáo Smythe. Đôi mắt anh đỏ ngầu, và thay vì canh chừng để chắc chắn tôi không làm chuyện gì ngu ngốc như bắt Alma làm con tin chẳng hạn, anh lại nhìn miết vào bức tường sau đầu tôi, chìm trong suy nghĩ.
Nhiệt kế kêu bíp. “Anh vẫn đang bị sốt.”
Tôi trả lời, “Nói chuyện gì mà tôi không biết đi nào.” Tôi cảm thấy máu đọng dưới lưỡi, một thủ tục đau đớn không thể bỏ qua của căn bệnh khủng khiếp tôi đang mang.
“Anh uống những viên thuốc này chứ?”
Tôi nhún vai. “Cô thấy tôi cho chúng vào miệng mỗi ngày, phải không?”
Alma biết có nhiều cách để một tù nhân tự sát ngay trước mặt những tù nhân khác. “Đừng có tăm tia tôi, thần Zeus à,” cô vừa nói vừa bôi thứ gì sền sệt lên vết đỏ trên trán tôi, nguyên do tôi có biệt danh này. “Còn ai dám
bảo tôi đã lỡ mất thứ gì ở Bệnh viện Trung ương chứ?”
“Có vẻ như đó là lý do thật nhỏ mọn để quanh quẩn ở đây đấy.”
“Tôi nghe còn nhiều lý do tệ hơn nhiều.” Alma quay về phía quản giáo Smythe. “Tôi xong ở đây rồi.”
Cô rời đi, và phòng điều khiển trung tâm lại cho đóng cửa, tiếng kim loại nghiến kèn kẹt. “Shay,” tôi gọi. “Đang thức chứ?”
“Tôi thức.”
“Có lẽ anh sẽ muốn bịt tai lại,” tôi dặn.
Trước khi Shay kịp hỏi tôi vì sao, Calloway đã phun ra hàng lô lốc chửi rủa như mọi khi Alma cố gắng đến gần hắn dưới năm bước. “Biến mẹ khỏi đây, mọi đen,” hắn hét lên. “Thề có Chúa, tao sẽ làm thịt mày nếu mày chạm tay vào tao…”
Quản giáo Smythe nói với hắn, “Vì Chúa, Calloway. Chúng ta phải làm đủ mọi thứ này mỗi ngày chỉ vì một cái băng dán cá nhân thôi sao?”
“Phải thế nếu như người dán là con chó đen này.”
Cách đây bảy năm, Calloway đã bị kết án vì tội đốt một nguyện đường thành tro. Hắn bị thương ở đầu và phải cấy màng da lớn ở cánh tay, nhưng hắn xem sứ mạng này đã thành công, bởi vị giáo sĩ Do Thái kinh hãi đã bỏ thành phố mà đi. Các mảng cấy da vẫn cần được kiểm tra, và trong năm ngoái, hắn đã phải lên bàn mổ đến ba lần.
“Anh biết không,” Alma nói với Smythe, “tôi chẳng quan tâm chuyện tay hắn có bị thối hay không.”
Đúng là cô không quan tâm. Nhưng cô quan tâm nhiều đến chuyện bị gọi là mọi đen. Mỗi khi Calloway ném từ đó vào mặt, cô điếng cả người. Và sau khi thăm bệnh Calloway, cô đều đi xuống hành lang chậm hơn một chút.
Tôi biết chính xác cảm giác của cô. Khi bạn khác biệt, đôi khi bạn không thấy được hàng triệu người chấp nhận con người của bạn. Tất cả những gì bạn thấy được là cái người không chấp nhận bạn.
“Tao mắc viêm gan C là do mày,” Calloway nói, dù cho chắc chắn hắn đã bị nhiễm vì lưỡi dao thợ cạo, hệt như các tù nhân khác vậy. “Mày và những bàn tay mọi đen thối tha của mày.”
Hôm nay Calloway khủng khiếp bất thường, ngay cả hắn cũng phải thừa nhận thế. Lúc đầu, tôi nghĩ hắn cáu hệt như tất cả chúng tôi vì bị tước đi các đặc ân. Nhưng rồi tôi nhận ra, Calloway không thể để Alma vào buồng mình, bởi có thể cô sẽ thấy con chim. Và nếu cô thấy con chim, quản giáo Smythe sẽ tịch thu nó.
“Cô muốn sao?” Smythe hỏi Alma.
Cô thở dài. “Tôi không định đấu nhau với hắn.”
“Đúng đó,” Calloway reo lên. “Mày biết ai cửa trên mà. Thánh chiến.”
Tiếng hắn kêu nhắc đến cái gọi là Thánh chiến chủng tộc, và phạm nhân khắp mọi góc Khu Biệt giam bắt đầu hò lên. Trong một bang toàn da trắng như New Hampshire, băng Huynh đệ Aryan chiếm đa số tù nhân. Chúng kiểm soát buôn bán ma túy trong tù, chúng xăm cho nhau những hình cỏ ba lá, lưỡi tầm sét, và chữ thập ngoặc. Để được vào băng, bạn phải giết ai đó theo ý Huynh đệ, nghĩa là giết một người da đen, người Do Thái, người đồng tính luyến ái, hay bất kỳ ai bị xem là nỗi sỉ nhục đối với bạn.
Tiếng hò la đến điếc tai. Alma đi qua buồng của tôi, Smythe theo sau. Khi họ đi ngang Shay, anh gọi viên quản giáo, “Nhìn vào trong đi.”
“Tôi biết có gì trong đó mà Shay,” Smythe nói. “Năm chục cân phân thối.”
Lúc Alma và quản giáo đi rồi, Calloway vẫn còn hò hét. Tôi huýt Shay, “Vì Chúa. Nếu thấy con chim ngu ngốc của Calloway, họ sẽ lại lục tung buồng của chúng ta! Anh muốn không tắm trong hai tuần à?” “Tôi không có ý đó,” Shay đáp.
Tôi chẳng buồn trả lời. Thay vào đó, tôi nằm xuống giường và nhét giấy vệ sinh vào hai tai. Vậy mà tôi vẫn còn nghe Calloway hát bài quốc thiều tự hào da trắng của hắn. Tôi vẫn còn nghe Shay bảo tôi thêm lần nữa là không phải anh muốn nói về con chim.
Đêm đó, lúc ngủ dậy và mồ hôi ướt đẫm, tim đập muốn tuồn ra khỏi cổ họng, tôi lại nghe thấy Shay tự thoại. “Họ kéo khăn trải giường,” anh nói.
“Shay?”
Tôi đã lấy một mảnh kim loại bóc từ thành buồng giam, việc này phải mất cả tháng, rồi chế lại bằng sợi dây chun từ quần lót với một ít kem đánh răng trộn soda, cái giũa kim cương thần kỳ của tôi đó. Tài tình thay, tôi được kết quả gấp đôi, vừa có gương vừa có cán mài. Tôi chuồi tay dưới cửa, theo góc gương để nhìn vào phòng Shay.
Anh đang nằm trên giường, mắt nhắm chặt và cánh tay vắt chéo ngay trái tim. Hơi thở rất yếu, lồng ngực hầu như không nhấp nhô. Tôi thề là đã ngửi thấy mùi trùn trong đất tơi. Tôi nghe như tiếng đá bật lên khi cái xẻng đào mộ.
Shay đang tập.
Tôi từng làm thế rồi. Không cùng kiểu như vậy, nhưng tôi cũng đã hình dung đám tang của mình. Ai sẽ đến. Ai sẽ mặc đàng hoàng, và ai sẽ mặc những thứ gớm ghiếc. Ai sẽ khóc. Ai không.
Chúa chúc lành cho các quản giáo, họ đã chuyển Shay Bourne đến ở sát với một kẻ khác cũng đang chịu án tử hình.
Hai tuần sau khi Shay đến tầng I, sáu quản giáo đến buồng của anh lúc ban sớm, và bảo anh lột đồ. “Quay lại,” tôi nghe tiếng Whitaker nói. “Dạng ra. Đưa lên. Ho.”
“Chúng ta đi đâu đây?”
“Bệnh xá. Kiểm tra định kỳ.”
Tôi biết chuyện này, họ lột hết áo quần để bảo đảm không có thứ đồ lậu nào, rồi lại bảo anh mặc lại. Các quản giáo đưa Shay ra khỏi tầng I, đi vào phía dưới của Dãy biệt giam.
Một tiếng sau, tôi thức giấc khi nghe tiếng cửa buồng Shay lại mở. “Tôi sẽ cầu nguyện cho linh hồn anh,” quản giáo Whitaker nói giọng rưng rưng trước khi rời tầng.
“Này,” tôi nói với giọng quá nhẹ nhàng và giả tạo, ngay cả tôi cũng phải thừa nhận. “Anh khỏe cả chứ?”
“Họ không đưa tôi đến bệnh xá. Chúng tôi đến văn phòng giám đốc nhà tù.”
Tôi ngồi trên giường, nhìn vào lỗ thông hơi qua phòng Shay, nơi tiếng nói phát ra. “Cuối cùng ông ta cũng đồng ý gặp-”
“Anh biết tại sao họ nói dối không?” Shay cắt lời. “Bởi họ sợ anh sẽ nổi khùng nếu họ nói cho anh biết sự thật.”
“Về cái gì?”
“Tất cả là để kiểm soát suy nghĩ. Và chúng ta không có chọn lựa nào khác ngoài vâng lời, bởi sẽ thế nào nếu như lần này thật sự…”
“Shay,” tôi nói, “anh có nói chuyện với giám đốc hay không?”
“Ông ta nói chuyện với tôi. Ông cho biết kháng cáo cuối cùng của tôi đã bị Tòa án tối cao bác,” Shay nói. “Ngày hành hình của tôi là hai mươi ba tháng năm.”
Tôi biết chuyện này trước cả khi Shay được chuyển đến tầng I, anh đã ở trong phòng giam tử tù suốt mười một năm, hẳn Shay đã thấy ngày này đang đến gần. Mà ngày đó chỉ còn cách hai tháng rưỡi nữa thôi.
“Tôi đoán họ không muốn đến và nói Này, chúng tôi tìm anh để xướng to lệnh tử hình của anh đây. Ý tôi là, sẽ dễ hơn khi giả vờ đưa anh đến bệnh xá để anh không khiếp đảm. Tôi cá là họ có bàn về cách đến đưa tôi đi. Tôi cá là họ đã hội ý rồi.”
Tôi tự hỏi nếu như cái chết của tôi được tuyên bố chắc nịch như lịch tàu chạy, thì tôi sẽ thích kiểu nào hơn. Tôi muốn nghe sự thật từ một quản giáo? Hay tôi sẽ thấy tử tế hơn khi được tránh đi không biết cái chuyện không thể tránh khỏi này, dù cho chỉ là trong bốn phút di chuyển?
Tôi biết câu trả lời của mình.
Tôi chỉ tự hỏi tại sao, chỉ mới biết Shay Bourne trong hai tuần, mà cổ họng tôi nghẹn đắng lúc nghĩ về giờ hành hình của anh. “Tôi thực sự lấy làm tiếc.”
“Ừ,” anh nói. “Ừ.”
“Cảnh… sát,” Joey kêu lên, và chốc lát sau, quản giáo Smythe đã bước vào cùng quản giáo Whitaker. Smythe giúp Whitaker đưa Crash đến hốc tắm. Cuộc điều tra vụ nước vòi hóa sông rượu của chúng tôi vẫn chưa có kết luận cuối cùng, ngoại trừ một vài vết nấm trong đường ống, và bây giờ chúng tôi lại được phép có giờ vệ sinh thân thể. Nhưng sau khi đã xong với Crash, thay vì rời tầng I, Smythe lại trở ngược đến trước cửa buồng của Shay.
“Nghe này,” Smythe nói. “Tuần trước, anh có nói chuyện gì đó với tôi.” “Có à?”
“Anh bảo tôi nhìn vào trong.” Smythe ngập ngừng. “Con gái tôi bị bệnh. Thực sự rất yếu. Hôm qua, các bác sĩ bảo vợ tôi và tôi chuẩn bị tinh thần tiễn biệt. Nó khiến tôi muốn nổ tung. Nên tôi chộp lấy con gấu len nằm trong nôi bé, con gấu chúng tôi đã đem theo từ nhà để bé thấy dễ chịu hơn trong bệnh viện, tôi xé toang con gấu len. Nó nhồi đầy vỏ đậu phộng, và chúng tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này.” Smythe lắc đầu. “Con tôi sẽ không chết, bé còn chẳng bao giờ bị bệnh nữa kia. Bé chỉ bị dị ứng thôi. Làm sao anh biết?” Smythe hỏi.
“Tôi không…”
“Không thành vấn đề.” Smythe cho tay vào túi rút ra một miếng giấy bạc gấp vuông, mở ra cho thấy một cái bánh chocolate hạnh nhân. “Tôi đem theo từ nhà. Vợ tôi làm. Cô ấy muốn dành cho anh.”
“Smythe, anh không thể đưa đồ lậu cho hắn được,” Whitaker vừa nói vừa ngoái lại nhìn phòng điều khiển.
“Đây không phải đồ lậu. Mà là tôi… Chia sẻ một ít bữa ăn trưa của mình.”
Tôi bắt đầu ứa nước miếng. Bánh chocolate hạnh nhân không có trong căng-tin của chúng tôi.
Gần giống nhất là bánh chocolate, mỗi năm có một lần kèm trong gói Giáng Sinh với một túi đầy kẹo và hai trái cam.
Smythe đẩy bánh qua lỗ hổng nơi cửa buồng. Anh gặp ánh mắt của Shay và gật đầu, rồi rời tầng với quản giáo Whitaker.
“Này, tử tù,” Calloway nói, “Tao đưa mày ba điếu thuốc đổi lấy nửa cái bánh đó.”
“Tao đổi cho mày nguyên gói cà phê,” Joey đấu giá.
“Nó sẽ chẳng phí phạm cho mày đâu,” Calloway nói.
“Tao sẽ đưa mày cà phê và bốn điếu thuốc.”
Texas và Pogie cũng nhập cuộc, chúng muốn trao đổi bằng một máy nghe đĩa. Một tạp chí Playboy. Một cuộn băng.
“Một đứa nhóc,” Calloway tuyên bố. “Chốt hạ.”
Băng Huynh đệ khét tiếng về buôn thuốc phiện trong nhà tù bang New Hampshire, khi Calloway gạ gẫm bằng hết vốn liếng, chắc hẳn hắn thật sự muốn cái bánh đó.
Theo tôi được biết, Shay chưa từng có một tách cà phê từ khi đến tầng
I. Tôi chẳng biết liệu anh có hút thuốc hay kiếm thứ gì để phê hay không.
“Không,” Shay nói. “Không với tất cả các anh.” Vài phút trôi qua.
“Chúa ôi, tôi vẫn có thể ngửi thấy mùi của nó,” Calloway nói.
Để tôi nói cho bạn hay, tôi không thổi phồng quá mức khi nói rằng chúng tôi đành lòng hít lấy hít để cái mùi thơm đó, mùi huy hoàng đó, suốt vài giờ liền. Lúc ba giờ sáng, tôi thức dậy theo chứng mất ngủ kinh niên của mình, bỗng ngửi thấy mùi chocolate quá mạnh hệt như chiếc bánh nằm trong buồng của tôi thay vì của Shay. “Sao anh không ăn cái thứ chết tiệt đó,” tôi thì thầm.
“Bởi,” Shay trả lời, giọng tỉnh táo hệt như tôi, “bởi như thế thì chẳng còn gì để hướng đến nữa.”