Maggie
Hoa Kỳ được thiết lập trên tự do tôn giáo, trên sự tách biệt giáo hội và nhà nước. Nhưng tôi sẽ là người đầu tiên nói rằng chúng ta chẳng hơn gì những người Thanh Giáo từ Anh quốc đến đây vào những năm 1770. Tôn giáo và chính trị cứ chung chạ nhau suốt. Bởi khi vào tòa án, việc đầu tiên là đặt tay trên Kinh thánh mà thề, các lớp học ở trường công lúc nào cũng mở đầu bằng Lời Thề nguyện Trung thành, tuyên bố chúng ta là một quốc gia dưới quyền Chúa, và thậm chí đồng tiền chúng ta dùng cũng luôn có những chữ “Chúng ta tin tưởng nơi Chúa.” Bạn cũng như tất cả mọi người khác nghĩ rằng, một luật sư thuộc Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ như tôi, sẽ phản đối dữ dội thực tế này về mặt nguyên tắc, nhưng không phải vậy. Tôi đã ở trong phòng tắm đến ba mươi phút, và thêm hai mươi phút nữa trên đường đến tòa án liên bang, cố gắng tìm ra cách tốt nhất để đưa tôn giáo vào phòng xử án này.
Chỉ là tôi quyết tâm làm việc đó mà không xúc phạm niềm tin cá nhân của thẩm phán.
Ở bãi đỗ xe, tôi gọi về Chutzpah và gặp ngay mẹ tôi.
“Mẹ thấy cái tên Haig thì sao?”
“Ý con là nghe giống tên của vị đại tướng?”
“Phải.”
“Nghe giống người Đức,” mẹ tôi nói giọng trầm ngâm. “Mẹ không biết. Mà tại sao?”
“Con đang nói về chuyện ông ấy theo đạo nào.”
“Con nghĩ mẹ đang làm gì đây?” mẹ tôi nói. “Phán xét người khác dựa vào họ của người đó ư?”
“Chẳng lẽ lời nào cũng là lời cáo buộc hay sao? Con chỉ cần biết chuyện này trước khi vào phòng, để con có thể sắp xếp những gì nên nói với thẩm phán của vụ này.”
“Mẹ nghĩ toàn bộ giá trị của một thẩm phán là sự công minh.”
“Phải. Cũng như toàn bộ giá trị của hoa hậu Mỹ là thúc đẩy hòa bình thế giới vậy.”
“Mẹ không nhớ liệu Alexander Haig có phải là người Do Thái hay không. Mẹ biết bố con thích ông ta, bởi ông ủng hộ Israel…”
“Mà dù ông ấy là người Do Thái, thì cũng không chắc ông thẩm phán cùng họ Haig này cũng vậy. Haig không phải là một cái tên dễ phân biệt như O’Malley hay Hershkowitz.”
“À,” mẹ tôi nói, “nhân tiện cho con biết, bố con từng hẹn hò một cô tên là Barbara O’Malley.”
“Con hi vọng là trước khi bố cưới mẹ…”
“Hài hước đấy. Ý của mẹ là cái giả thiết của con không hoàn toàn có căn cứ.”
“Mẹ chẳng gặp nhiều người Do Thái mang họ O’Malley đâu.”
Mẹ tôi khựng lại một chút. “Mẹ nghĩ là ông bà của cái cô đó đã đổi họ từ Meyer sang O’Malley.”
Tôi chán nản, nhắm mắt lại. “Con phải đi đây. Dù cho ông ấy theo đạo nào, thì cũng chẳng có thẩm phán nào lại thích một luật sư đi trễ.”
Lúc tôi đang gặp giám đốc Coyne bàn về biện pháp bảo vệ Shay trong tù, thì nhận được cuộc gọi của thư ký. Thẩm phán Haig muốn gặp tôi để bàn bạc, tại tòa án liên bang ngay sáng hôm sau, nghĩa là chỉ mới bốn ngày kể từ khi tôi đệ đơn. Tôi hẳn phải nhận ra mọi chuyện đang diễn biến quá nhanh. Ngày hành hình của Shay đã định, nên tòa phải đưa chúng tôi vào danh sách việc cần giải quyết gấp.
Khi đến góc phòng, tôi thấy Trợ lý Chưởng lý bộ phận chống án, Gordon Greenleaf, đã chờ ở đó. Tôi gật đầu chào ông, rồi cảm giác điện thoại mình rung lên. Một tin nhắn:
GOOGLE HAIG - CÔNG GIÁO. MẸ YÊU.
Tôi gấp máy lại vừa lúc thư ký tòa đến dẫn chúng tôi vào phòng thẩm phán Haig.
Thẩm phán có thân hình như vận động viên điền kinh với mái tóc muối tiêu. Tôi chăm chú nhìn cổ áo của ông, nhưng ông đang mang một cái cà vạt. Và tôi đoán là thế nào ông cũng có mang một thánh giá, một ngôi sao David, hay thậm chí là một chuỗi tỏi để đuổi ma cà rồng. “Được rồi, các cô các cậu,” ông nói, “ai có thể nói cho chúng ta biết vì sao lại phải có buổi hôm nay nào?”
“Thưa ngài,” tôi trả lời, “tôi đang kiện ủy viên cải huấn của Bang New Hampshire, thay mặt cho thân chủ của tôi, Shay Bourne.”
“Đúng rồi, cảm ơn cô Bloom, tôi dã đọc một mạch hết toàn bộ đơn khiếu kiện của cô. Ý của tôi là việc hành hình sắp đến của ông Bourne thật là hỗn loạn. Tại sao Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ lại biến nó thành một vụ lớn?”
Gordon Greenleaf hắng giọng. Gã này luôn khiến tôi nhớ đến tay hề Bozo, với đầu tóc đỏ thắt búi, và chứng dị ứng nên hầu như lúc nào cái mũi cũng đỏ chót. “Thưa ngài, anh ta là một phạm nhân chịu án tử hình đang cố gắng trì hoãn chuyện không thể nào tránh khỏi.”
“Anh ấy không cố gắng trì hoãn chuyện gì cả,” tôi bắt đầu tranh luận. “Anh ấy chỉ cố gắng sửa chữa cho tội lỗi của mình, và anh ấy tin rằng mình phải chết như thế để được cứu độ. Anh ấy sẽ là người đầu tiên bảo ngài có thể hành hình mình ngay ngày mai, miễn sao là bằng cách treo cổ.”
“Đây là năm 2008, cô Bloom à. Chúng ta hành hình bằng cách tiêm thuốc độc. Chúng ta không trở ngược lại một phương thức hành hình cổ xưa,” thẩm phán Haig nói.
Tôi gật đầu. “Nhưng thưa thẩm phán, với hết lòng tôn trọng, tôi xin hỏi. Nếu như Bộ Cải huấn thấy rằng việc tiêm thuốc độc là không thực tế, thì bản án có lẽ nên được thực hiện bằng cách treo cổ.”
“Bộ Cải huấn không có vấn đề gì với việc tiêm thuốc độc!” Greenleaf nói.
Tôi bác ngay, “Có đấy, nếu như những quyền chiếu theo hiến pháp của ông Bourne bị vi phạm. Anh ấy có quyền thực hành niềm tin tôn giáo của mình, ngay cả ở trong tù, cho đến và trong cả thời khắc hành hình.”
“Cô đang nói gì thế?” Greenleaf nổi nóng. “Không một tôn giáo nào nhất quyết phải có chuyện hiến tạng. Một cá nhân đưa vào trong đầu mình một tập hợp những luật lệ điên rồ để sống, hoặc chết theo đó. Như vậy
không đủ tư cách để xem là một niềm tin tôn giáo.”
“Thôi nào, Gordon,” tôi nói. “Ai chết và để anh làm Chúa vậy?”
“Các anh chị luật sư, yên nào,” thẩm phán Haig nói. Ông cắn môi, trầm ngâm suy nghĩ. “Có vài vấn đề thực sự cần phải giải quyết,” ông bắt đầu mở lời, “nhưng chuyện đầu tiên là, anh Greenleaf, liệu tiểu bang có đồng ý treo cổ anh Bourne thay vì tiêm thuốc độc hay không.”
“Tuyệt đối không, thưa thẩm phán. Mọi việc chuẩn bị đã hoàn tất cho phương thức hành hình được ấn định cho bản án của anh ta.”
Thẩm phán Haig gật đầu. “Vậy thì chúng ta sẽ đưa vụ này ra xét xử. Do thời hạn thực sự rất gấp, nên đây sẽ là một vụ xúc tiến nhanh. Chúng ta sẽ coi như không có những thứ như tố quyền liên bang, hay kiến nghị phán quyết tóm tắt, chúng ta không có thời giờ cho mấy chuyện này. Thay vào đó, tôi muốn danh sách nhân chứng trên bàn tôi trong vòng một tuần. Và tôi muốn anh chị chuẩn bị để đến tòa trong vòng hai tuần.”
Gordon và tôi lấy đồ đạc rồi bước ra khỏi phòng. “Cô có biết bao nhiêu tiền thuế của New Hampshire đã đổ vào cái phòng tử hình đó không?”
“Đi mà nói với thống đốc ấy, Gordon à,” tôi nói. “Nếu những khu phố giàu ở New Hampshire phải trả tiền cho giáo dục công, thì có lẽ những khu phố nghèo có thể nhả tiền ra cho các tử tù tương lai đấy.”
Anh ta khoanh tay lại. “Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ chơi trò gì đây hả, Maggie? Cô không thể khiến cho thẩm phán ra phán quyết án tử hình là vi hiến, nên cô dùng tôn giáo để chống đỡ à?”
Tôi cười vào mặt anh ta. “Anh làm thế nếu như nó giúp anh khiến cho án tử hình bị phán quyết là vi hiến. Gặp anh trong hai tuần nữa, Gordon,” tôi nói, và bỏ đi, để anh ta đứng đó nhìn chằm chằm sau lưng tôi.
Ba lần, tôi cầm máy lên và bấm số. Ba lần, tôi tắt máy khi đường dây vừa kết nối.
Tôi không thể làm việc này.
Nhưng tôi phải làm. Tôi chỉ có hai tuần để thu thập chứng cứ, và nếu tôi dự định chiến đấu để Shay được hiến trái tim của mình, thì tôi cần phải hiểu chính xác nó sẽ như thế nào, để rồi còn giải thích trước tòa.
Khi bệnh viện bắt máy, tôi yêu cầu chuyển máy đến văn phòng bác sĩ Gallagher. Tôi để lại tên và số điện thoại cho một thư ký, thấy rõ là phải mất một thời gian nữa anh mới gọi lại cho tôi, và đó cũng là thời gian để tôi lấy đủ can đảm mà nói chuyện với anh. Vậy nên khi chuông điện thoại reo ngay khi tôi vừa gác máy, tôi quá sốc khi nghe thấy giọng của anh. “Cô
Bloom?” anh nói. “Tôi có thể làm gì cho cô?”
“Đáng ra anh không nên gọi lại nhanh đến thế,” tôi buột miệng.
“À, tôi xin lỗi. Tôi nên bớt nhanh chóng kịp thời với các bệnh nhân của mình mới phải.”
“Tôi không phải là bệnh nhân của anh.”
“Phải. Cô là bệnh nhân giả duy nhất của tôi đấy.” Anh im lặng, rồi nói, “Tôi tin là cô đã gọi tôi?”
“Đúng. Đúng, tôi đã gọi. Tôi đang tự hỏi liệu anh có thể gặp tôi, về chuyện công việc, tất nhiên là…”
“Tất nhiên.”
“… để nói về việc treo cổ và hiến tạng.”
“Chỉ khi tôi có được một cô thật xinh, cho mỗi lần hỏi chuyện,” bác sĩ Gallagher đùa. “Tôi rất vui được gặp cô. Về công việc, tất nhiên rồi.”
“Tất nhiên,” tôi nói, giọng xìu xuống. “Vấn đề là, tôi phải gặp anh khá là sớm đấy. Phiên tòa của thân chủ tôi sẽ bắt đầu trong hai tuần nữa.”
“Vậy thì, cô Bloom, tôi sẽ đón cô lúc bảy giờ.”
“Ôi… Anh không cần phải làm vậy. Tôi có thể gặp anh ở bệnh viện.”
“Phải, nhưng tôi thực sự không thích ăn ở căng-tin trong ngày nghỉ của mình.”
“Hôm nay là ngày nghỉ của anh à?” Anh ấy gọi lại cho mình trong ngày nghỉ sao? “Vậy, chúng ta có thể hẹn lại dịp khác…”
“Chẳng phải cô vừa bảo đây là việc cần làm thật sớm hay sao?”
“Vâng,” tôi nói. “Phải.”
“Vậy thì bảy giờ tối nhé.”
“Tuyệt vời,” tôi nói bằng cái giọng phòng xử án hào hứng nhất của mình. “Tôi trông chờ điều đó.”
“Cô Bloom à,” bỗng anh lại nói thêm.
“Vâng?”
Tôi nín thở, chờ anh xác định tính chất của buổi gặp này. Đừng có trông chờ gì hơn là hai người chuyên nghiệp bàn công chuyện. Đừng quên rằng mày có thể hỏi số bất kỳ bác sĩ nào, ngay cả những người không có đôi mắt màu màn đêm sâu thẳm và giọng nói rung như cần câu. Đừng có lừa dối mình vờ như đây là một buổi hẹn hò thực sự. “Tôi không biết cô sống ở đâu.”
Bất kỳ ai nói rằng màu đen khiến bạn có vẻ ốm hơn, thì rõ ràng người đó không có những bộ màu đen đang treo trong tủ đồ của tôi. Lúc đầu tôi thử chiếc quần đen yêu thích của mình, nhưng rồi tôi chẳng yêu nổi nó, bởi tôi chỉ có thể cài khuy nếu như nín thở và đứng suốt bữa ăn. Cái áo len cổ cao màu đen, vẫn còn chưa gỡ mác, thì khiến tôi trông như có hai cái cằm. Còn cái áo ren len trông thật dễ thương trong quyển catalog lại khoe hết lớp mỡ sau áo ngực của tôi ra. Màu đỏ, tôi chợt nghĩ. Tôi sẽ bạo dạn và gây ấn tượng. Tôi đã thử một chiếc áo hai dây đỏ thẫm, nhưng có lẽ ấn tượng duy nhất tôi tạo được là quảng cáo cho hãng đồ lót. Tôi lật tung quẩn quanh giữa áo choàng và áo len, kín đáo và gợi cảm, váy xòe chữ A hay chiếc váy với nếp gấp dọc, hay những chiếc đầm cocktail. Tôi ném từng cái một xuống sàn, còn Oliver thì nhảy tránh trong vô vọng, cố gắng không bị đè trong đống vải này. Tôi thử từng cái quần dài trong tủ, và thấy rằng cặp mông của mình đang khá có triển vọng được xếp ngang hàng với tiểu hành tinh. Rồi tôi đến trước tấm gương trong phòng tắm. “Vấn đề là thế này,” tôi tự nói với mình. “Mày không cần phải trông như Jenifer Aniston, để có thể bàn về cách tốt nhất để hành hình một ai đó.”
Nhưng dù thế, theo trí tưởng tượng của tôi, có thể nó cũng có ích phần nào chứ.
Cuối cùng, tôi quyết định mặc cái quần jeans yêu thích của mình, và một áo tunic suông màu xanh lá nhạt mà tôi đã mua với giá năm đô ở quầy bán đồ Á Đông, vậy nên tôi luôn luôn thấy tự tin khi mặc nó, ngay cả khi trông tôi chẳng hoàn hảo gì. Tôi bới tóc lên và cài một cây trâm, hi vọng nó sẽ có vẻ nghệ thuật kiểu người Hi Lạp, chứ đừng trông lộn xộn và lỗi thời.
Đồng hồ vừa điểm bảy giờ, thì chuông cửa reo. Tôi nhìn lại mình lần cuối trước gương, áo quần rõ ràng là bình thường, hợp tông, và không quá cầu kỳ. Rồi tôi mở cửa và thấy bác sĩ Gallagher mặc áo vest và cà vạt.
“Tôi có thể thay đồ,” tôi nói nhanh. “Tôi không biết là chúng ta sẽ đến một chỗ sang trọng. Không phải là tôi không kỳ vọng anh đưa tôi đến chỗ nào đó sang. Hay là anh đưa tôi đi. Ý tôi là tôi đưa tôi đi. Còn anh thì đưa anh. Chỉ là chúng ta đi chung xe thôi.”
“Cô trông thật dễ thương,” anh nói. “Tôi mặc thế này suốt.”
“Ngay cả trong ngày nghỉ của anh à?”
“Phải, tôi là người Anh,” bác sĩ Gallagher giải thích, nhưng anh đưa ngón tay lên cổ và cởi cà vạt. Anh cuộn nó lại và cho vào nắm đấm bên trong của cửa trước.
“Thời ở trường đại học, và có ai đó làm thế, thì có nghĩa là…” tôi khựng lại, nhớ ra ý nghĩa của nó là: cấm vào, bởi bạn cùng phòng của bạn đang chơi trò thú vị. Thế là tôi nói bừa, “nó nghĩa là, bạn đang bận học bài ôn thi.”
“Thật sao?” Bác sĩ Gallagher nói. “Lạ thật. Ở Oxford chúng tôi, nó nghĩa là bạn cùng phòng của bạn đang làm tình bên trong đấy.”
“Có lẽ chúng ta nên đi thôi,” tôi nói nhanh, hi vọng anh không để ý thấy mặt tôi đang đỏ ửng, hoặc thấy tôi sống với một chú thỏ, hoặc nhận ra hông tôi quá lớn đến nỗi có lẽ không ngồi vừa ghế chiếc xe thể thao nhỏ của anh.
Anh mở cửa xe cho tôi, và không mở máy cho đến khi tôi thắt xong dây an toàn. Khi xe chuyển bánh, anh bắt đầu mở lời. “Có chuyện tôi muốn gạt qua một bên trước khi chúng ta đi xa hơn,” anh nói. “Tôi là
Christian.”[5]
Tôi nhìn chằm vào anh. Chẳng lẽ anh là dạng chính thống cực đoan chỉ nói chuyện phiếm với những người cùng đức tin thôi sao? Chẳng lẽ anh nghĩ tôi đang nuôi dưỡng khao khát bỏ nhà theo trai, và anh đang vạch ra giới hạn hay sao? Được rồi. Có lẽ riêng cái chuyện cuối cùng tôi vừa nghĩ ra không hẳn là không đúng.
Gì cũng được. Tôi đã ăn, ngủ, và hít thở tôn giáo khi theo vụ của Shay. Tôi còn nhạy cảm hơn nữa về sự bao dung tôn giáo hơn trước khi lao mình vào chuyện này. Và nếu tôn giáo quá quan trọng đối với Gallagher đến nỗi anh ta phải đặt nó làm vấn đề đầu tiên trước khi nói chuyện, thì tôi cũng phản pháo cho xứng tầm chứ. “Tôi là người vô thần,” tôi nói, “nhưng anh cũng nên biết rằng bố tôi là một giáo sĩ, và nếu anh có vấn đề với chuyện này, thì tôi tin chắc rằng mình có thể tìm một bác sĩ khác để nói chuyện, và tôi thực sự cảm kích nếu như bây giờ, anh không pha trò về chuyện các bác sĩ Do Thái.”
Nói xong, tôi thở hắt ra.
“Được,” anh nói và liếc qua tôi. “Có lẽ cô nên gọi tôi là Chris thì hơn?”
Tôi khá chắc là Emily Post sẽ không viết về chủ đề này, nhưng có vẻ sẽ khôn khéo hơn khi chờ đến sau khi món chính dọn lên mới bắt đầu nói về cách giết một con người.
Nhà hàng này ở Oxford, theo phong cách thuộc địa, với sàn gỗ rùng lên như mặt biển dưới bước chân tôi, và gian bếp hối hả ngay một bên. Cô phục vụ với giọng đường mật, chào bác sĩ Gallagher bằng tên.
Christian.
Căn phòng chúng tôi ngồi chỉ có sáu bàn, bao quanh là những đồ vải vóc chẳng phù hợp chút nào, cùng những đĩa và ly, nến thì được thắp trên những chai rượu bỏ đi. Trên tường là những tấm gương đủ mọi kích cỡ và hình dạng, đúng là địa ngục trần gian của tôi đây, nhưng tôi hầu như không để ý đến chúng. Thay vào đó, tôi uống nước và rượu, vờ như tôi không muốn nuông chiều chứng thèm ăn của mình bằng cái bánh mỳ mới nướng xong mà nhà hàng phục vụ kèm nước chấm. Và tôi cũng vờ như mình không muốn nói về cách hành hình Shay nữa.
Christian nhìn tôi cười. “Tôi luôn luôn hình dung một ngày nào đó tôi buộc phải nghĩ xem người ta bị đánh cắp trái tim như thế nào, nhưng tôi phải thừa nhận, là tôi đã không nghĩ theo nghĩa đen thế này.”
Thực đơn đầy những món ngon và thú vị nữa. Súp cá Việt Nam, ốc nhồi mỳ ống kiểu Ý, bánh bao nhân xúc xích cay Tây Ban Nha. Ngay cả mô tả món ăn thôi cũng đủ khiến tôi thấy thèm rồi. Được làm bằng tay khi gọi món, pasta mùi tây tươi Ý kèm với tim hoa atisô, cà tím nướng, phô mai trộn, và tiêu vàng đỏ nướng ngọt, trộn sốt kem cà chua phơi khô. Những miếng thịt gà không xương đi kèm với những lát thịt heo thái mỏng kiểu Ý, cuộn lại cùng với rau bina tươi, phô mai Asiago, và hành ngọt, ăn kèm mỳ sợi fettuccine và nước sốt rượu marsala cà chua, ức vịt rút xương nướng, cắt lát mỏng, ăn kèm với nước sốt cherry phơi khô và bánh kếp làm bằng gạo hoang.
Với một hi vọng điên rồ là làm sao để Christian nghĩ rằng kích cỡ vòng eo của tôi không đến nỗi như vẻ ngoài của nó, tôi đành nuốt nước bọt và gọi một món khai vị. Tôi còn háo hức mong rằng Christian sẽ gọi một cái chân cừu om hay thịt nướng cháy, để tôi có thể xin một miếng nếm thử. Nhưng khi tôi giải thích rằng tôi không đến nỗi đói (một lời nói dối trắng trợn), thì anh cũng bảo rằng với anh món khai vị là đủ rồi.
“Theo tôi hình dung,” Christian nói, “phạm nhân sẽ bị treo cổ sao cho xương sống gãy ở đốt thứ hai hay thứ ba, và như thế sẽ chặn đứng mọi hoạt động hô hấp tự động.”
Tôi đang cố gắng hết sức để theo kịp anh. “Ý anh là anh ấy sẽ bị gãy cổ, và ngừng thở?”
“Đúng.”
“Vậy rồi anh ấy có thể chết não?”
Một cặp đang ngồi bàn kế bên liếc sang nhìn, và tôi nhận ra là mình đang nói quá to. Một số người không thích nghe chuyện chết chóc khi đang ăn.
“Ừ, mà không hẳn thế. Phải mất một thời gian để việc thiếu oxy lên não dẫn đến mất phản ứng… mà đây là tiêu chuẩn để kiểm tra chức năng não bộ. Vấn đề là cô không thể để anh ta bị treo quá lâu, bởi như thế thì tim sẽ ngừng đập, và không thể hiến tạng được.”
“Vậy phải thế nào?”
“Tiểu bang cần đồng ý rằng chỉ cần ngừng thở là đủ để xem anh ta có khả năng đã chết và hạ xác xuống khỏi giá, luồn ống thở vào để bảo vệ tim, rồi kiểm tra cái chết não.”
“Luồn ống thở không phải cũng giống như tìm cách cứu sống anh ta sao?”
“Không, nó chỉ như cô để một bộ não chết lên cửa thông gió vậy. Nó giữ các nội tạng, nhưng não sẽ không còn hoạt động một khi xương sống bị gãy, bởi oxy không thể lên não, dù cho cô có bơm bao nhiêu vào người anh ta đi chăng nữa.”
Tôi gật đầu. “Vậy làm sao để anh xác định cái chết não?”
“Có nhiều cách khác nhau. Cô có thể kiểm tra thể lý ban đầu, bảo đảm không còn phản ứng màng sừng ở mắt, không còn hô hấp tự động, không còn phản ứng vòm họng. Rồi sau mười hai tiếng, kiểm tra lại lần nữa.
Nhưng bởi thời gian là vấn đề then chốt, nên tôi khuyên nên dùng kỹ thuật siêu âm qua sọ chẩn đoán mạch, để xác định dòng máu chảy qua động mạch cảnh ở gốc não. Nếu không có máu chảy trong động mạch trong mười phút, cô có thể tuyên bố cái chết não một cách hợp pháp.”
Tôi hình dung Shay Bourne, cái con người khó lòng nói được một câu trôi chảy và cứ cắn móng tay suốt, giờ bị dẫn đến giá treo cổ. Tôi hình dung thòng lọng xiết chặt quanh cổ anh, và rồi tôi thấy ớn lạnh, tóc dựng đứng cả lên.
“Thật tàn bạo,” tôi nói khẽ, và hạ nĩa xuống.
Christian im lặng một hồi. “Lúc ở Philadelphia, là lần đầu tiên tôi phải nói với một bà mẹ rằng con của bà đã chết. Cậu bé bị trúng đạn trong một vụ thanh toán băng nhóm, chỉ mới tám tuổi. Cậu đến cửa hàng góc phố để mua lốc sữa, và đã đứng ngay nơi và thời điểm không nên đứng. Tôi không bao giờ quên cái nhìn trong mắt bà mẹ, khi tôi nói với bà rằng chúng tôi đã cố hết sức. Khi một đứa trẻ bị giết, là có đến hai người chết, tôi nghĩ vậy. Điểm khác biệt, là người mẹ vẫn phải chịu đựng trái tim đang còn đập mà thôi.” Anh ngước lên nhìn tôi. “Sẽ là tàn bạo với Bourne. Nhưng người đầu tiên chịu sự tàn bạo là June Nealon.”
Tôi ngồi lùi lại. Điểm chốt là đây. Bạn gặp một anh chàng Oxford học cao và cực kỳ hấp dẫn, rồi hóa ra anh ta lại quá khuynh hữu, gần như là lạc hậu. “Vậy, anh ủng hộ án tử hình?” Tôi hỏi, cố gắng ghìm giọng xuống.
“Tôi nghĩ sẽ dễ theo con đường đạo đức cao cả hơn nếu như mọi chuyện chỉ là lý thuyết,” Christian nói. “Là một bác sĩ, tôi có nghĩ việc giết ai đó là đúng đắn không ư? Không. Nhưng tôi lại không có con cái. Và sẽ là nói dối, nếu như tôi nói rằng dù có con cái, tôi vẫn nhìn ra rõ ràng vấn đề này.”
Tôi cũng không có con, mà theo tình hình hiện thời, có lẽ tôi chẳng bao giờ có đâu. Và lần duy nhất tôi thấy June Nealon, mặt đối mặt, là khi chúng tôi trong phòng gặp gỡ công lý phục hồi. Lúc đó, cô đã nổi cơn thịnh nộ chính đáng đến nỗi tôi không dám nhìn cô nữa. Tôi không biết cái cảm giác mang đứa con ngay dưới trái tim trong chín tháng mười ngày, cái cảm giác cơ thể để cho bé một chỗ mà vùng vẫy là thế nào. Tôi không biết cảm giác bồng ẵm và ru bé ngủ, cảm giác êm ả khi nghe tiếng bé thở.
Nhưng tôi biết cái cảm giác làm con là thế nào.
Mẹ và tôi không phải lúc nào cũng cãi nhau. Tôi vẫn còn nhớ mình từng ao ước được quyến rũ như mẹ, từng ướm thử đôi giày cao gót của mẹ, quấn cái váy lót vải satin của mẹ làm váy không dây, chìm đắm trong túi đồ trang điểm bí ẩn nhiệm màu của mẹ. Từng một thời, tôi muốn lớn lên được như mẹ.
Thật quá khó để tìm được tình yêu thương trong thế giới này, để tìm được ai đó có thể khiến bạn cảm thấy mình có một ý nghĩa khi sinh ra trên đời. Tôi hình dung một đứa trẻ như là một tình yêu nguyên sơ nhất. Một đứa trẻ là tình yêu thương mà bạn không cần tìm kiếm, không cần phải chứng minh gì, không phải lo sợ bị mất đi.
Chính vì thế, mà khi mất đi tình yêu bé bỏng này, nỗi đau quá đỗi cùng cực.
Đột nhiên, tôi muốn gọi điện cho mẹ. Tôi muốn gọi cho June Nealon. Tôi đang trong ngày hẹn hò đầu tiên, thì địa cầu sụp đổ. Buổi hẹn hò này thực sự chỉ là một buổi ăn tối bàn công chuyện, và tôi thấy nước mắt mình như chực trào.
“Maggie?” Christian nghiêng người tới. “Cô ổn chứ?” Rồi anh đặt tay lên tay tôi.
Và tôi ngưng mọi hơi thở tự động, như anh từng nói thế.
Cô phục vụ đến bên cạnh bàn. “Tôi hi vọng cô còn dành bụng cho món tráng miệng.”
Tôi chẳng có gì ngoài chỗ để chứa thức ăn, món khai vị của tôi là một cái bánh táo chỉ bằng ngón tay cái. Nhưng tôi có thể cảm nhận hơi ấm làn da của Christian trên tay mình. Và tay tôi nóng bừng như đầu ngọn nến, chỉ một lát nữa thôi chắc có lẽ cả người tôi cũng tan chảy mất. “Ôi, tôi không thể,” tôi nói. “Tôi no rồi.”
“Được rồi,” Christian nói và anh rút tay khỏi tay tôi. “Tôi đoán chỉ còn việc trả tiền nữa thôi.”
Có gì đó khang khác nơi anh, giọng nói anh có chút gay gắt mà mới chỉ một khắc trước đây hoàn toàn không có. “Có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi. Anh lắc đầu, dứt khoát, nhưng tôi biết nó là chuyện gì. Án tử hình. “Anh nghĩ tôi sai à?”
“Tôi không nghĩ là chuyện đúng sai,” Christian nói, “nhưng nó không phải vậy.”
“Vậy tôi đã làm gì sai?”
Anh phục vụ bàn chìa ra hóa đơn kẹp trong một gập giấy bằng da. Christian đưa tay lấy. “Bạn gái thực sự cuối cùng của tôi, là vũ công chính trong dàn Ballet của Boston.”
“Ồ,” tôi yếu ớt nói. “Cô ấy hẳn phải…” Đẹp. Dễ thương. Thon thả hơn tôi hoàn toàn.
“Mỗi khi chúng tôi đi ăn, tôi có cảm giác mình như… tên phàm ăn… bởi tôi ăn uống rất ngon miệng, còn cô ấy chẳng bao giờ ăn gì. Tôi cho là, tôi nghĩ, hay là hi vọng, cô sẽ khác.”
“Nhưng tôi thích chocolate,” tôi nói ngay. “Bánh rán táo, và bánh bí ngô, kem mousse và bánh tiramisu, tôi sẽ ăn hết mọi thứ trên thực đơn này, nếu như tôi không nghĩ rằng nó sẽ khiến tôi trông như con heo. Tôi đang cố để…” Giọng tôi lạc đi.
“… Cô nghĩ tôi đang mong chờ điều gì?”
Tôi cúi đầu nhìn chăm chăm khăn ăn trên đùi mình. Phá hỏng buổi hẹn vờ này hay không, mọi chuyện đều tùy thuộc vào tôi.
“Nếu như tất cả những gì tôi mong chờ,” Christian hỏi, “là cô?”
Tôi chầm chậm ngước đầu lên, trong khi Christian gọi phục vụ. “Cho chúng tôi biết có món gì tráng miệng đi,” anh nói.
“Chúng tôi có creme brulee, bánh nhân việt quất, bánh ngàn lớp nhân đào nóng ăn kèm kem nhà làm và nước caramen, và món yêu thích của riêng tôi,” anh phục vụ nói. “Bánh chocolate Pháp với vỏ bánh hồ đào, kèm kem bạc hà, và nước quả mâm xôi chỉ có ở nhà hàng chúng tôi.” “Chúng ta thử món nào đây?” Christian hỏi.
Tôi quay qua anh phục vụ. “Có lẽ chúng ta nên trở ngược lại món chính trước đi,” tôi nói, và mỉm cười.
“Đây là tôn giáo đơn sơ của tôi.
Không cần đền thờ, không cần triết lý phức tạp. Bộ não, trái tim của chính chúng ta là đền thờ của mình, và triết lý là lòng tốt.”
— ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA XIV