← Quay lại trang sách

Chương 8 41

Tháng Sáu.

Trời đã mưa liên tiếp mấy ngày liền.

Tôi cứ ở lì trong nhà, nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ kính nhỏ, cảm tưởng như mình bị một thứ màng mỏng bằng keo trong bao bọc cả mấy lớp.

Thế nhưng, trời vẫn cứ mưa tầm mưa tã. Những giọt nước lạnh lẽo, trong suốt, ngày đêm không ngừng nghỉ đổ xuống thế gian này. Có bảo ngoài cửa sổ đang có cá Napoleon[6] bơi ngang qua, chắc tôi cũng chẳng lấy làm ngạc nhiên.

Yuko đã sốt suốt bốn ngày, đến giờ vẫn không thấy có dấu hiệu hạ sốt. Đã không còn áo ngủ để thay nữa. Trước mắt tôi giặt rồi phơi tạm trong nhà, nhưng phơi bao nhiêu lâu, quần áo vẫn cứ vừa ẩm vừa lạnh. Vả lại, những quần áo này đã quá rộng với Yuko rồi.

Tôi nghĩ, e rằng hiện giờ em chỉ ở trạng thái sáu hoặc bảy tuổi. Em đã trở nên gầy và nhỏ hơn nhiều rồi.

Tôi lấy khăn bông trên trán Yuko xuống, ngâm trong chậu rửa mặt. Tôi lơ đãng ngắm nhìn chiếc khăn bông trắng nổi dập dềnh trong nước suốt một lúc. Đột nhiên, tôi nhận ra Yuko đang nhìn mình không chớp mắt.

“Em thấy thế nào?”

“À, em vừa nằm mơ.”

“Mơ? Mơ thế nào?”

“Mơ thấy em lúc trưởng thành trần truồng ôm nhau với anh Satoshi.”

“Ồ.”

“Cảm giác ấm áp, dễ chịu lắm.”

“Thế à? Có vẻ là một giấc mơ đẹp nhỉ.”

“Vâng.”

Tôi vừa lấy sữa chua mới làm cho Yuko ăn, vừa nói: “Yuko này…”

“Dạ…”

“Ngày mai anh phải đi làm. Nếu xin nghỉ nữa sẽ bị trừ lương, quan trọng là không thể gây phiền phức cho văn phòng được.”

“Vâng.”

“Nhưng anh không thể để Yuko ở nhà một mình được, vì vậy, anh đã quyết định nhờ người đến.”

Yuko bất an nhìn tôi. “Nhờ người đến?”

“Ai ạ?”

“Không cần lo lắng, người đó hiểu rất rõ về tình huống của em.”

Em nhắm mắt lại ngẫm nghĩ giây lát, ngẩng đầu lên: “Vợ của mục sư.”

“Đúng rồi, chính là chị Yoriko, em còn nhớ chị ấy không?”

“Tất nhiên rồi, làm sao quên được chứ?”

Tuy Yuko nói vậy, nhưng em đã dần dần quên đi rất nhiều chuyện. Như thể từng giọt từng giọt nước ký ức đang chảy sang một vật chứa nhỏ hơn, rất nhiều ký ức của em bị vung vãi ra ngoài và chảy đi đâu đó.

Yuko cho tay vào ngực áo, lấy chiếc nhẫn cưới lồng vào sợi dây chuyền đưa cho tôi xem.

“Satoshi, cho em xem của anh nào.”

Tôi giơ tay trái lên, chìa ra trước mặt Yuko.

“Ước gì hai chiếc nhẫn này mãi mãi ở bên nhau.”

Yuko đưa bàn tay nhỏ bé của em nắm chặt lấy ngón đeo nhẫn của tôi. Tay em vừa nóng vừa ẩm.

“Được mà, chắc chắn là được.” Tôi nói.

“Vậy sao ạ?”

“Ừ.”

“Cũng nhờ chị Yoriko mà chiếc nhẫn này mới có thể ở đây.”

“Đúng thế.”

Yuko bắt đầu ho dữ dội, em buông ngón tay tôi ra. Tôi vỗ lưng cho em qua lớp chăn, tay kia bưng cốc đưa lại gần miệng em. Yuko nhấp một ngụm nước nhỏ, cùng lắm cũng chỉ thấm được cổ họng, rồi lắc đầu.

“Không sao đâu ạ, em đỡ rồi.”

Em trông có vẻ rất mệt mỏi, nằm thở dốc trên giường.

Một lúc lâu sau, Yuko đột nhiên nói: “Ghét trời mưa quá, em vẫn muốn đi công viên.”

“Khỏi ốm là đi được. Chỉ cần tạnh mưa, mà cũng sắp đến mùa hè rồi. Anh sẽ mua cho em một cái váy liền thân màu trắng, mặc đồ mới rồi cùng đi chơi công viên.”

“Vui quá… mua thêm một đôi xăng đan màu hồng nữa nhé.”

“Được rồi, mua thêm một đôi xăng đan màu hồng.”

“Cảm ơn anh…”

Một lúc sau, Yuko lại chìm vào giấc ngủ.

42

Ngày hôm sau, chị Yoriko đến nhà chúng tôi lúc gần tám giờ sáng. Hôm qua, lúc Yuko đang ngủ, tôi đã gọi điện thoại nói cho chị biết tình hình. Chị Yoriko vui vẻ nhận lời chăm sóc Yuko ngay. Ngoài chị ra, tôi chẳng nghĩ ra được ai để nhờ vả nữa. Nếu không được, tôi định hôm nay sẽ tiếp tục xin nghỉ ở văn phòng.

Vừa trông thấy tôi, câu đầu tiên của chị Yoriko đã là: “Yuko thế nào rồi?”

“Vẫn đang ngủ. Vừa đo nhiệt độ, ba chín độ hai.”

“Vậy cơ à, sốt cao quá.”

“Cứ như vậy suốt.” Tôi vừa nói vừa mời chị vào nhà, “So với hồi đó, cô ấy lại nhỏ đi nhiều, chị đừng ngạc nhiên nhé.”

Chị Yoriko nhìn tôi, khẽ gật đầu, lẳng lặng đi về phía giường. Chị đứng bên đầu giường, đưa tay vén mái tóc dài, khom người chăm chú nhìn gương mặt đang say ngủ của Yuko. Nét mặt chị hơi biến đổi, nhưng tôi không hiểu điều đó có ý nghĩa gì.

“Đúng là nhỏ đi nhiều, trông chỉ như đứa trẻ chừng sáu tuổi.”

“Em cũng thấy thế, gần đây tốc độ nhỏ lại dường như đã bị đẩy nhanh lên.”

“Vậy à…”

Chị Yoriko lại khom thân hình nhỏ nhắn, nhìn gương mặt Yuko không chớp mắt. Trông thế này, hai người họ tựa như một đôi tượng được tạc ra từ đôi tay của cùng một nhà điêu khắc. Nếu không có vật tham chiếu, nhìn chị Yoriko thấy cao hơn thực tế rất nhiều. Có lẽ là do chị có gương mặt nhỏ nhắn mà tay chân lại khá thon dài.

“Cô ấy xinh thật đấy.” Chị nói.

“Đúng vậy. Có điều, em thấy chị cũng rất xinh đẹp.”

“Cảm ơn.” Chị ngoảnh đầu lại nhìn tôi, mỉm cười, “Được nghe cậu nói những lời như vậy, chị vui lắm.”

“Vậy ạ?”

“Đúng thế. Vì cậu Inoue không phải là người nói ra những điều không nghĩ trong lòng.”

“À, phải rồi, có lẽ là vậy.”

“Tuy rằng thời gian quen biết không dài, nhưng điều này thì chị vẫn nhìn ra được, đây là năng lực cần thiết để sinh tồn mà.”

Tôi nhớ lại, mục sư Birdman từng kể cho tôi nghe về những gì chị từng trải qua.

Yoriko tiếp tục nói: “Có lẽ, Yuko xinh đẹp như vậy, là vì cô ấy đã đánh mất mọi thứ. Cô ấy có được sắc đẹp như một sự bồi thường vậy.”

Nói như vậy thì chị Yoriko cũng mất đi rất nhiều thứ. Vì chiến tranh loạn lạc mà chị mất đi cha mẹ, vì sinh tồn mà chị mất đi quê hương. Nếu nói đây chính là nguyên nhân chị xinh đẹp như vậy, thì sắc đẹp này cũng thực khiến người ta thương cảm.

Chị Yoriko đưa tay rờ lên trán Yuko, Yuko lập tức mở mắt. Em nở một nụ cười bình thản như thể vẫn đang chìm đắm trong dư âm hạnh phúc của giấc mơ.

“À, chị vợ mục sư.” Yuko đưa cặp mắt ngái ngủ nhìn chị Yoriko.

Chị Yoriko mỉm cười gật đầu. “Lâu lắm không gặp rồi, rất vui vì được gặp lại em.”

“Em cũng vui lắm, lễ cưới thật sự rất vui.”

“Đúng thế, là lễ cưới vui nhất mà chị từng tham dự.”

Nét mặt Yuko bỗng nhiên trở nên cung kính khác thường, em nói với chị Yoriko: “Cảm ơn chị, chị Yoriko.”

“Cảm ơn chị cái gì?”

“Cũng nhờ có chị, bọn em mới tổ chức được lễ cưới tuyệt vời như thế. Mỗi lần nhớ đến nó, em đều muốn nói cảm ơn chị.”

Chị Yoriko im lặng nhìn chăm chăm vào gương mặt non nớt của Yuko, một lúc sau, chị đưa ngón tay vén mái tóc bị mồ hôi rịn ra làm ướt của em, chậm rãi cất tiếng:

“Chị chẳng qua chỉ làm điều mình thích thôi. Chị cũng đã rất vui mà.”

Chị nheo mắt lại nhìn lên khoảng không, tựa như đang dõi nhìn vào một chốn xa xôi nào đó trong tâm trí.

“Chị nghĩ hai đứa cũng để ý thấy rồi, vợ chồng chị không có con. Vì vậy…” Chị nói tiếp, “Chị coi hai đứa như con mình, trong lòng cảm thấy rất vui sướng.”

“Nhưng mà, chị Yoriko, chị vẫn còn rất trẻ mà? Không ngờ lại coi bọn em như con…”

Chị Yoriko nở một nụ cười, lắc lắc đầu.

“Đừng nhìn bề ngoài của chị thế này, chị ba tám tuổi rồi đấy. Phụ nữ không có con nên trẻ lâu. Với lại vóc người chị nhỏ nhắn, trông trẻ hơn so với tuổi thực tế.”

Suy đoán của tôi không ngờ lại lệch đến gần mười tuổi. Thế này, không tính đến tôi, chị Yoriko coi Yuko nhỏ dại như con gái mình cũng chẳng phải chuyện lạ.

“Chị từng gặp phải một chuyện ở Việt Nam hồi nhỏ, kết quả là chị không thể sinh nở được nữa.”

Yuko nãy giờ vẫn im lặng đột nhiên cất tiếng: “Xảy ra chuyện gì vậy ạ? Có phải chuyện ấy đáng ghét lắm không?”

Chị Yoriko thở dài nặng nề, nhìn chằm chằm vào móng tay của mình một cách vô thức. Móng tay của chị nhỏ quá, cảm giác như một thứ đồ tạo tác vậy. Móng tay nhỏ như thế, đi mua sơn móng tay một lần chắc dùng năm năm mới hết.

“Khi chiến tranh xảy ra, ổ khóa ở trong lòng một số người sẽ ‘lách cách’ bung ra. Bọn họ sẽ làm ra một số hành vi tàn khốc mà thời bình khó lòng tưởng tượng nổi.”

“Chị đã gặp phải chuyện như thế ạ?”

“Ừ. Có điều, chị vẫn còn may mắn, có thể sống sót thế này. Súng ống và đạn dược phải chăng là rất đáng sợ? Chỗ đáng sợ nhất của chiến tranh chính là làm cho tâm hồn người ta trở nên méo mó, khiến bọn họ chẳng hề do dự sử dụng súng đạn trên thân thể người khác.”

Chị Yoriko nghiêng đầu nhìn Yuko, tựa như đang nói: “Em hiểu được không?”

“Nhưng mà, nếu mà là em, dù xảy ra chuyện gì, em cũng sẽ không dùng đến súng đạn đâu.”

“Đúng rồi, Yuko dĩ nhiên là người như thế, chị nghĩ là có rất nhiều người cũng giống như em. Nhưng mà, dù ở thế giới nào, thời đại nào, cứ mười người thì chắc chắn cũng có mấy người không nghĩ thế. Bởi những hành vi kiểu đó sẽ không bị trừng phạt, bọn họ liền chẳng hề do dự mà làm tổn thương người khác, hoặc có thể nói, có những người rất muốn làm tổn thương người khác.” Chị Yoriko nói.

“Thật là đáng ghét quá đi mất.” Yuko lẩm bẩm.

“Cách tốt nhất là sống trong một thế giới nhỏ hẹp, như vậy thì có thể giảm thiểu khả năng gặp phải những kẻ như thế.” Nét mặt chị Yoriko dịu lại phần nào, “Thế giới của hai người đã đủ nhỏ rồi, vả lại còn khép kín nữa, chẳng nơi nào tồn tại ác ý cả.”

“Đúng thế, em chỉ có anh Satoshi thôi.”

Lúc Yuko nói câu này, hình như em rất tự hào.

“Đây là điều hạnh phúc lắm đấy. Con người ta bây giờ hình như đều ra sức muốn xây dựng mối liên hệ với những người khác. Có thêm quan hệ với một người, dường như sẽ có thể có thêm điều tốt. Cứ như một trò chơi không có chiều sâu vậy.”

Đời chó thì ngắn ngủi, còn lòng người thì chật hẹp.

Tôi chợt nghĩ đến điều này: khi mưu cầu số lượng, con người ta sẽ đánh mất đi thứ gì đó.

“À, có kịp giờ không đấy?”

Nghe chị Yoriko nhắc, tôi liếc nhìn chiếc đồng hồ màn hình tinh thể lỏng đặt trên bàn.

“À, em phải đi rồi.”

“Không cần lo cho Yuko đâu.”

“Vâng, thế xin nhờ chị.”

Tôi bước ra cửa, xỏ chân vào đôi giày lười.

“Phải rồi, mục sư Birdman vẫn khỏe chứ ạ?”

“À, khỏe lắm, bận rộn đi khắp nơi, cứ như con gấu vừa qua giấc ngủ đông ấy.”

“Gấu?”

“Đúng thế, gấu trắng, nghe nói loài này sống ở miền Bắc Cực. Anh ấy cũng lớn lên ở phương Bắc. Nhưng mà chịu lạnh kém lắm, đến mùa đông là gần như ngủ đông suốt.”

Trong đầu tôi hiện ra hình ảnh mục sư đang chậm chạp đi qua đi lại trong nhà.

“Em luôn có cảm giác vẻ bề ngoài của mục sư có thể khiến người ta bình tĩnh lại.”

“Đúng đấy, rất có sức hút, chỉ nhìn anh ấy thôi đã cảm thấy rất hạnh phúc rồi.”

“Thích thật.”

“Không gì sánh được.”

Chị Yoriko khéo léo nháy mắt, thúc giục tôi đã đến giờ rồi. Tôi chào tạm biệt Yuko đang nằm trên giường rồi ra khỏi nhà.

43

Mất ba ngày, Yuko mới hạ sốt. Cả ba ngày liền, chị Yoriko đều đến nhà tôi, vì vậy hai người đã trở nên hết sức thân thiết. Có lẽ vì họ vốn dĩ đã rất giống nhau.

44

“Chị Yoriko kể cho em nghe nhiều chuyện lắm.”

“Vậy à.”

Yuko ngồi ở phía đối diện bàn ăn, trước mặt em là món canh ngô và bánh mì tròn, nhưng có vẻ em chẳng đụng đến chút nào. Yuko còn gầy hơn nữa, chỉ còn đôi mắt sáng lấp lánh là hết sức nổi bật, giống mắt của búp bê nhân tạo hơn là của một cô bé có máu thịt. Làn da trắng tinh khiết sau khi bị mồ hôi thấm ướt, ánh lên như đồ sứ.

“Em còn nghe chị ấy kể chuyện của mục sư, thật không thể tin nổi.”

“Vậy à?”

“Vâng, nhưng mà…”

“Gì em?”

Yuko muốn nói gì đó, hơi hé miệng ra, nhưng lời ra đến cửa miệng lại tan biến như bọt nước. Sau một khoảng im lặng kéo dài, em bắt đầu kể câu chuyện của mục sư.

Đó đúng là một câu chuyện hết sức khó tin.

45

Mục sư Birdman có một em trai nhỏ hơn ông ba tuổi.

Dưới người em trai ấy còn có một em gái cũng nhỏ hơn ba tuổi nữa, nhưng trong câu chuyện này, cô em gái chỉ đóng một vai nhỏ không đáng nhắc đến.

Mục sư Birdman và em trai hầu như không có điểm chung nào. Từ nhỏ ông đã có thân hình cao lớn, cường tráng, còn người em trai thì bị đẻ thiếu tháng nên rất gầy gò so với lũ trẻ cùng trang lứa, Birdman là người thực tế, dựa vào hành động, mưu cầu kết quả, tin thờ sức mạnh trong khi em trai ông lại là một người mơ mộng, ngoài những thứ trong đầu mình, anh ta chẳng hứng thú với bất cứ sự vật nào khác, gần như là một loài thực vật biết nói. Ngoài ra, Birdman không tin vào sự tồn tại của Thượng Đế, nhưng em trai ông lại là một tín đồ Cơ Đốc trung thành, lại còn tin theo phái chính thống.

Em trai ông cho rằng những gì viết trong Kinh Thánh đều là sự thực.

Mọi người trong nhà đều rất buồn bực, không hiểu điều gì đã khiến em trai Birdman thành ra như vậy, tóm lại, giống như chú nhóc Linus[7] chẳng bao giờ rời chiếc chăn bông của mình, em trai ông đi đâu cũng mang theo Kinh Thánh. Có thể nói anh ta đã học nói và học chữ bằng Kinh Thánh, mở miệng ra là nói: “Kinh Thánh viết thế này thế kia.”

Birdman cảm thấy rất ghét người em trai này, hễ có cơ hội là lại chế giễu tín ngưỡng của cậu ta. Em trai ông không hề phản bác, gương mặt lúc nào cũng nở một nụ cười điềm tĩnh, lặng lẽ nhìn thẳng vào Birdman.

Sự việc xảy ra vào năm Birdman mười ba tuổi, còn em trai ông mười tuổi.

Một ngày thứ Sáu cuối tháng Hai năm đó, Birdman hùa với hai người bạn nghịch ngợm, lập ra một cái bẫy nhỏ để em trai ông chui vào.

Khi bầu trời màu xám tro chuyển sang xám sẫm, mặt trời sắp tắt hẳn, Birdman và hai người bạn cùng với em trai ông, tổng cộng bốn đứa trẻ đến trước cửa nhà thờ bên ngoài thị trấn. Đi qua nhà thờ này là đã đến vùng đất hoang dã. Trận tuyết đến tận hôm trước mới dừng phủ kín mặt đất, bốn phía xung quanh nhuộm một màu trắng xóa.

Birdman và hai đứa bạn liếc mắt nhìn nhau, rồi cười khì khì, đặt tay lên vai em trai.

“Này, em biết rồi đấy, ba đứa bọn anh giờ bị cấm vào nhà thờ rồi (lúc bọn họ lấy sơn viết chữ ‘quả báo’ lên cánh cổng khu nghĩa địa phía sau nhà thờ, thì bị mục sư phát hiện), nhưng bọn anh vẫn có quyền cầu nguyện Thượng Đế chứ nhỉ.”

“Anh, anh không tin Thượng Đế cơ mà?”

“Không, làm gì có chuyện ấy.”

Không cho em trai có cơ hội suy nghĩ kỹ càng, Birdman nói tiếp luôn: “Tóm lại, bây giờ bọn anh muốn vào trong nhà thờ, làm lễ y như trong sách ấy. Nói chung là cần đến sự giúp đỡ của em.”

Birdman chỉ vào túi áo khoác phồng lên của em trai mình, bên trong lúc nào cũng để cuốn Kinh Thánh.

“Em biết rất nhiều câu chuyện thú vị trong Kinh Thánh, còn chưa bao giờ bỏ qua buổi lễ Chủ nhật nào cả.”

“Nhưng mà, hôm nay mục sư đi Newcastle rồi, nhà thờ đóng cửa mà.”

“Không sao.” Một đứa bạn tên là Colin lấy trong túi ra một chiếc chìa khóa đồng thau. Đó là con trai của ông chủ tiệm tạp hóa duy nhất trong thị trấn. “Chìa khóa đánh lại. Lúc mục sư đến lắp khóa, anh đã làm thêm một cái nữa cho chắc ăn.”

Những lúc mục sư đi vắng, bọn họ đã nhiều lần dùng chìa khóa này lẻn vào nhà thờ, vừa uống rượu ăn cắp từ cửa hàng mang đến, phì phèo thứ thuốc lá rẻ tiền mùi vị đáng ghét, vừa nói xấu người lớn, chẳng còn nơi nào thích hợp làm chuyện ấy hơn là trong nhà thờ cả.

“Không được tùy tiện đi vào đâu.”

Nghe em trai nói thế, Colin ngửa hẳn đầu ra phía sau. “Chẳng lẽ bọn anh là người xấu à?”

“Đừng nói ngốc thế, Thượng Đế không hẹp hòi như vậy đâu. Ngài làm việc không nghỉ ngơi quanh năm, mục sư có mặt hay không cũng thế cả.” Birdman nói.

Mặc dù vậy, em trai Birdman vẫn phản đối. Colin chẳng buồn để tâm, cứ thế mở cửa nhà thờ, đẩy cánh cửa nặng nề làm bằng gỗ tùng đỏ ra. Một đứa bạn khác tên là Will bước vào trong sảnh lễ đầu tiên.

“Lạnh quá, như cái hầm băng vậy.”

Kế đó, Birdman và Colin bước theo sau Will (với người em trai miễn cưỡng đi theo ở giữa) đi vào bên trong.

Birdman đã quen thuộc với cảnh tượng bên trong, nhưng em trai ông thì gần như bị lễ đường tối tăm không một bóng người làm cho khiếp sợ. Cậu ta dừng bước, nhìn chằm chằm vào tượng chúa Jesus được những tia sáng yếu ớt chiếu vào qua ô cửa sổ.

“Không được, vẫn không được…”

Em trai Birdman thấp giọng lẩm bẩm.

“Chẳng sao cả.”

Birdman nhẹ nhàng đặt tay lên vai em trai.

“Nếu đây là tội báng bổ không thể tha thứ thì bọn anh đã chẳng thể nào vào đây được. Thượng Đế vạn năng cơ mà?” Birdman đẩy mạnh vào lưng em trai một cái.

“Mau ra chỗ ban thờ đi.”

Em trai ông như thể bị một sợi dây vô hình dẫn dắt, hơi cưỡng lại, nhưng gần như không hề chậm bước đi về phía ban thờ.

Birdman và hai tên bạn đảo mắt nhìn nhau, bắt đầu chầm chậm lùi lại. Khi em trai đi tới chỗ ban thờ, bọn họ đã ra đến cửa nhà thờ.

“Chà, em trai cao quý của anh.”

Nghe Birdman nói thế, em trai ông liền ngoảnh đầu lại nhìn.

“Anh cho mày một cơ hội tuyệt vời để trắc nghiệm niềm tin của mày với Thượng Đế nhé. Bắt đầu từ bây giờ, mày có thể cầu nguyện với Thượng Đế suốt cả đêm luôn. Nếu niềm tin của mày là thật, vậy thì mày không cần để tâm đến lạnh lẽo và đói khát làm gì. Sáng sớm mai, anh sẽ đến đón mày.”

Người em trai nhìn thẳng vào Birdman với vẻ mặt bình tĩnh đến độ hơi khác thường. Ánh mắt ấy khiến trong một khoảnh khắc Birdman chợt cảm thấy khiếp sợ, nhưng ông vẫn kiềm chế được, hậm hực đóng cửa nhà thờ lại.

Bên ngoài, ông gầm lên giận dữ: “Có lũ quỷ sứ mới tin vào phép lạ của Thượng Đế!”

Sau đó, ông dẫn hai người bạn rời khỏi nhà thờ.

Tất nhiên, Birdman hoàn toàn không có ý định nhốt em trai mình đến tận sáng hôm sau. Nếu làm vậy thật, có thể em trai ông sẽ chết cóng ở đó, người nhà cũng sẽ hoảng loạn đi tìm kiếm khắp nơi. Nhốt nó lại một tiếng là đủ rồi. Chỉ cần nhìn thấy em trai mình run rẩy vì vừa lạnh vừa đói và sợ hãi bóng tối, nhìn thấy gương mặt thường ngày vẫn giả bộ nghiêm túc ấy méo xệch đi, Birdman đã thỏa mãn lắm rồi.

“Ê, ê, sao Thượng Đế không đến cứu chú mày?”

Ông mong mỏi được trông thấy vẻ mặt em trai mình lúc nghe thấy câu nói này.

Một tiếng đồng hồ sau, bọn họ quay trở lại nhà thờ, nín thở, nghe ngóng tình hình.

“Không nghe thấy gì, tao tưởng là nó phải đang gào khóc cơ đấy.” Colin nói.

Birdman lẳng lặng thúc giục Colin mở khóa, cửa được đẩy ra nhẹ nhàng.

Bên trong tối đen như mực.

“Đèn đâu?”

“Nguồn điện chính bị cắt rồi, có cần bật lên không?”

“Thôi khỏi, bị người ta phát hiện thì phiền lắm, đèn pin là đủ rồi.”

Họ dùng đèn pin chiếu khắp cả lễ đường nhưng không thấy bóng dáng em trai Birdman đâu.

Birdman lớn tiếng kêu lên: “Này! Mau ra đây! Em ở đâu thế?”

Will vỗ vỗ lên vai Birdman, “Không có, tìm khắp nơi rồi.”

“Nhưng…” Birdman vung mạnh tay, “sao lại thế được?”

“Khóa kỹ lắm. Ngoài lối đó ra, không còn lối nào ra vào được cả, em trai mày chạy đi đâu mất rồi nhỉ?” Colin hỏi.

“Không biết. Chẳng lẽ thiên sứ cắp nó đi rồi!? Tao cũng đang muốn hỏi đây.”

“Tóm lại, ra bên ngoài trước đã.”

Họ quyết định chia nhau ra tìm xung quanh nhà thờ, lấy lễ đường làm trung tâm, dần dần mở rộng phạm vi tìm kiếm, cuối cùng đã mở rộng thành một vòng tròn bán kính năm trăm mét.

Vẫn không thấy em trai Birdman đâu.

Hơn tám giờ tối, ba người ý thức được vấn đề đã nằm ngoài phạm vi mình có thể gánh vác. Bọn họ cân nhắc mấy sự việc, cuối cùng đưa ra kết luận “Sự an toàn của em trai quan trọng hơn tất cả”, quyết định cầu cứu người lớn trong thị trấn.

Ba người lược đi chuyện xảy ra trong nhà thờ, chỉ nói với bố mẹ và cảnh sát rằng em trai Birdman đã mất tích.

Cuộc tìm kiếm diễn ra suốt cả đêm. Cảm giác sốt ruột nôn nao khiến Birdman thấy như có lửa đốt trong lòng. Tuy cũng có phần tự trách bản thân, nhưng chính sự bất hợp lý của sự việc càng khiến ông thấy lo lắng. Ông hết sức lo cho sự an toàn của em trai, lúc nào cũng đi đầu đội ngũ tìm kiếm khắp chốn trong vùng đồng hoang dã phủ đầy tuyết trắng.

46

Đến khi Birdman nghe được tin phát hiện tung tích của em trai thì đã là sáng sớm ngày thứ Bảy, bầu trời phương Đông bắt đầu sáng trắng lên.

Sau đó, người thanh niên phát hiện ra em trai ông đầu tiên kể lại, em trai ông nằm cuộn mình dưới một gốc cây trong khu rừng cách thị trấn ba dặm về phía Bắc.

Người thanh niên ấy còn nói: “Thật không thể tin nổi, hoàn toàn không có dấu chân nào. Trong rừng tuyết phủ dày chừng ba mươi phân, mà ở đây đã không có tuyết rơi từ hôm thứ Năm. Nếu cậu ấy đi đến chỗ đó, thì phải để lại dấu chân mới đúng, nhưng lại chẳng có gì. Xung quanh cậu ấy phủ toàn tuyết trắng tinh, giống như một chiếc khăn lụa nhẹ nhàng trải xuống vậy.”

Chuyện này, nên giải thích thế nào đây?

Em trai ông không hé răng nửa lời về chuyện đã xảy ra, bướng bỉnh ngậm chặt miệng lại, chỉ cười buồn bã với mọi người thay cho lời nói. Tất nhiên, đối với Birdman thì như vậy là quá tốt, tuy thế, ông vẫn hết sức hy vọng có thể nghe được sự thực từ miệng em trai mình.

Em trai ông sức khỏe yếu, suýt chút nữa thì bị viêm phổi. Cậu ta nằm trên giường, người gắn đầy ống dẫn, không ngừng phát ra tiếng thở yếu ớt, nhìn lên trần nhà với đôi mắt vô hồn. Dù quá trình bất hợp lý nào dẫn đến kết quả này, nguyên nhân đầu tiên vẫn là bản thân mình. Cứ nghĩ đến đây, Birdman lại cảm thấy tâm trạng hết sức nặng nề.

Chỉ cần thời gian cho phép, Birdman đều cố gắng tranh thủ ở bên cạnh giường nhìn em trai đang say ngủ. Điều này có lẽ chẳng ý nghĩa gì, nhưng ông luôn có cảm giác chỉ cần rời em trai ra trong giây lát là sẽ xảy ra chuyện gì bất trắc nên hết sức lo lắng.

Chập tối ngày Chủ nhật, em trai ông đã hồi phục, có thể ngồi dậy uống sữa nóng. Khi người nhà đã xuống tầng một hết, chỉ còn lại hai anh em, Birdman lần đầu tiên nói ra nghi vấn bấy lâu vẫn đè nén trong lòng.

“Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”

Đôi mắt ươn ướt vì sốt cao của em trai nhìn chằm chằm vào Birdman không chớp, cậu chầm chậm lắc đầu. “Em không thể nói, anh à. Em đã hứa là không nói cho bất cứ ai.”

“Hứa?”

Em trai ông lặng lẽ nhìn chăm chú vào đầu ngón tay bàn tay trái, như thể vừa lấy những lời mình nói ra cầm trên tay để ngắm nghía.

“Đúng thế, hứa, một lời hứa cực kỳ quan trọng. Nếu em nói cho người khác biết, sự việc sẽ hỏng bét. Vì vậy em không thể nói được. Đó là vì muốn tốt cho mọi người.”

“Mọi người? Nói xem rốt cuộc là em hứa với ai?”

“Ai ư? Tất nhiên là Thượng Đế rồi.”

“Thượng Đế, này, đừng có mà nói bậy.”

Birdman giận dữ phát ra tiếng cười chói tai, còn em trai ông thì chỉ buồn bã hướng ánh mắt xuống tấm ga trải giường màu trắng.

Sau một hồi im lặng, em trai ông khẽ lẩm bẩm:

“Người theo đuổi phép lạ thực ra là chính bản thân anh đấy.”

Ba ngày sau, em trai ông qua đời.

47

Em trai đột ngột qua đời trong tình huống không ai đoán trước được. (Có lẽ chỉ mình Birdman dự cảm được kết cục này, tựa như người em trai đã chọn khoảng thời gian ngắn ngủi đúng lúc ông ra ngoài để chết.)

Bác sĩ khi khám cũng nói em trai ông đang từ từ hồi phục, mà trên thực tế, tình trạng của cậu trông cũng khá lên từng ngày.

Thế nhưng, trên trán cậu dường như đã khắc một dấu ấn vô hình, định sẵn là sẽ đi sang một thế giới khác.

Không ai trách móc Birdman về cái chết của người em trai. Song chính bản thân Birdman lại không thể tha thứ cho mình. Khi ấy, ông đã hạ quyết tâm, đến năm mười lăm tuổi sẽ rời nhà ra đi.

Không thể ở lại ngôi nhà này được nữa.

Hành vi ấy là không thể tha thứ được.

Không, trên thế gian này vốn chẳng có nơi nào để mình sống cả.

48

Bảy tuần sau khi người em trai chết.

Hôm ấy, Birdman và gia đình cùng đến nhà ông trẻ William ở Aberdeen. Một ngày sương mù mờ mịt, trời rất lạnh. Birdman cùng bố mẹ và em gái bước những bước nặng nề trên con đường lát đá dẫn ra đường quốc lộ. Ông trẻ William bị xơ gan, bác sĩ điều trị nói ông sẽ không cầm cự được đến mùa hè. Ông cũng gần chín mươi tuổi rồi, lại nghiện rượu thuộc loại vô đối, những người xung quanh ông đều cảm thấy ông đã hết cách rồi. Cha Birdman nói, muốn đến thăm lúc ông vẫn còn tỉnh táo, vì vậy cả nhà họ cùng đi.

Ra tới đường quốc lộ, phải đi thêm nửa dặm nữa mới đến bến xe buýt.

Trời mưa lâm thâm, tầm nhìn mờ mịt như cảnh tượng trong mắt của người già.

Lúc đợi xe ở bến, một người đàn ông luống tuổi vỗ nhẹ lên vai Birdman. Birdman kinh ngạc nhìn người đó, ông ta đưa cho ông một mảnh giấy ngả vàng. Ông nhận lấy đọc hàng chữ viết trên đó.

“Cùng Thượng Đế trải qua kiếp sống này.”

Birdman đã quá quen thuộc với nét chữ nguệch ngoạc này.

“Mảnh giấy này ở đâu ra vậy?”

Người đàn ông ấy lặng lẽ chỉ về phía con đường trước mặt chạy ra trung tâm thị trấn. Ánh mắt Birdman di chuyển theo ngón tay ông ta, đột nhiên trông thấy một cậu bé đang đi qua từ chỗ rẽ của con đường.

Bờ vai mảnh khảnh, cái cổ nhỏ nhắn, mái tóc xoăn màu nâu đỏ.

Không thể nhìn nhầm được.

“Bố ơi, đợi con một chút.”

Birdman nói xong, liền chạy về phía con ngõ nhỏ nơi bóng cậu bé biến mất.

Là em trai mình.

Birdman tin chắc vậy.

Nhưng cùng lúc, những câu hỏi không ngừng tuôn ra xoay chuyển trong tâm trí ông: chẳng lẽ đây chính là “phép lạ”? Người đó là ai?

Rốt cuộc cũng chạy đến cổng ngõ, Birdman định thần chăm chú nhìn con đường lát đá bị nước mưa làm cho ướt, mơ hồ trông thấy khoảng không mờ mịt phía trước có bóng áo sơ mi trắng đang đung đưa.

Birdman lại chạy lên, nhưng khi đến ngã tư tiếp theo lại chẳng thấy bóng dáng em trai đâu nữa.

Ông ngó quanh con đường vươn sang hai bên, thấy em trai mình đang đi trên con đường nhỏ chật hẹp bên tay phải.

Ông bắt đầu chạy.

Sau đó, em trai ông lại biến mất ở chỗ rẽ tiếp theo…

Cứ đuổi theo như vậy chừng mười lăm phút, chẳng biết từ lúc nào, Birdman hoàn toàn mất dấu em trai. Ông ngẩn người đứng trong con ngõ nhỏ tối tăm, không ngừng thở hổn hển.

“Có lẽ mình sẽ chẳng bao giờ đuổi kịp em trai. Bởi mình muốn bắt được vong hồn của thằng bé.” Birdman nhớ đến mảnh giấy vo viên, ẩm ướt trong lòng bàn tay mình.

“Cùng Thượng Đế trải qua kiếp sống này.”

Chẳng lẽ vì để nói câu ấy, thằng bé mới cố tình xuất hiện trước mặt mình? Đây chính là “lời hứa” mà nó nhắc đến?

Birdman mệt mỏi lắc đầu, đi về phía bến xe nơi mọi người đang đợi.

49

Khi Birdman quay lại, cha ông luôn miệng đặt ra một tràng rất nhiều câu hỏi, ông chỉ chán nản lắc đầu, giả bộ như không nghe thấy. Vì lỡ mất một chuyến xe nên cha ông rất tức giận.

Đợi chuyến xe tiếp theo trong mưa đúng là chẳng dễ chịu chút nào, nhưng Birdman vẫn cố làm bộ chẳng hề để tâm.

Ông vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra, đưa mắt nhìn ngó xung quanh, người đàn ông luống tuổi đã đưa mảnh giấy cho ông cũng đã biến mất tăm mất tích.

Cảm giác thời gian chờ đợi trôi qua chậm chạp vô cùng, một lúc sau, rốt cuộc chuyến xe tiếp theo cũng đến. Birdman cùng người nhà lên xe, ông lại ngoái nhìn bến xe qua cửa sổ lần nữa, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người đàn ông kia đâu.

Có lẽ, người đó cũng chỉ là một trong các vong hồn mà thôi.

Lên xe được chừng mười lăm phút, chiếc xe đột nhiên dừng lại.

“Sao thế?” Một hành khách hỏi.

Tài xế lớn tiếng nói để tất cả mọi người trên xe đều nghe thấy được: “Đằng trước hình như có chuyện, đường bị phong tỏa rồi. Tôi xuống xem trước đã, mọi người đợi một chút.”

Vì tò mò, các hành khách cũng lần lượt xuống xe theo người tài xế. Birdman ngăn bố và em gái đang định đứng dậy, buông một câu: “Con đi xem sao” rồi theo những hành khách khác xuống xe. Xe buýt của họ vừa chạy tới gần cây cầu dài.

Tài xế vừa đi xem xét hiện trường mặt mày tái mét quay trở lại.

“Chuyện gì thế?” Một hành khách hỏi.

Cặp môi tay tài xế run rẩy trả lời: “Xe rơi từ trên cầu xuống sông rồi… là xe buýt của công ty chúng tôi… chiếc xe chạy chuyến trước…”

Đây chính là “lời hứa”, là “phép lạ”.

Em trai ông và người nào đó mà cậu cho là Thượng Đế đã có thỏa ước. Cậu sẽ trả giá bằng tính mạng mình, thay vào đó Thượng Đế sẽ cứu gia đình cậu khỏi tai nạn. Và điều đó đã được thực hiện. Trên chiếc xe bị rơi đó tổng cộng có hai mươi lăm hành khách, chỉ có hai người sống sót. Cả nhà Birdman đã đi tới rìa vực của cái chết - dù họ không hề ý thức được điều đó - rồi lại quay đầu, trở về với thế giới của người sống. Tất cả đều nhờ mảnh giấy kia.

“Cùng Thượng Đế trải qua kiếp sống này.”

Và Birdman đã tuân theo câu nói ấy.