Chương 7
Ngày hôm sau, Jo cuốc bộ suốt mười lăm tiếng đồng hồ ròng rã trong Rừng Shawnee, vừa để đẩy Tanner Bruce ra khỏi tâm trí, vừa để bù lại khoảng thời gian làm việc đã uổng phí sau những ngày mưa. Có lẽ, cô cũng làm vậy để chứng minh mình không bị bệnh. Cô kiểm tra và tìm kiếm tổ chim trong tất cả các khu vực thực địa “vùng rìa tự nhiên” của mình, đây là phần việc nhọc nhằn nhất vì các địa điểm này đều nằm ngoài sự tác động của con người, và để đến nơi, thường cô phải băng qua những bụi dây leo xù xì đầy gai ven sông cùng những cành tầm ma tua tủa.
Vầng dương chỉ còn lấp ló sau đỉnh ngọn cây khi cô, cùng cơ man các thể loại sinh vật dính lên người, trèo vào chiếc xe Honda. Hoạt động thể chất và hòa mình cùng thiên nhiên đã giúp cô lấy lại sinh lực, như trước giờ vẫn thế. Tanner và những ý kiến vô duyên của gã vẫn lởn vởn trong đầu nhưng cô nhắm mắt cho qua, giống như ngọn đèn ngu ngốc bị trục trặc trên bảng điều khiển xe mà thôi.
Tuy nhiên, Jo không tài nào gạt bỏ cô bé ngoài hành tinh ra khỏi suy nghĩ của mình. Từ giây phút thức giấc, cô đã cảm thấy tự dằn vặt bản thân mình vì không đưa con bé về tận cửa, mặc dù cô nghi ngờ không biết con bé có về nhà thật hay không. Khi bỏ đi, con bé đã nói với cô Con đi đến nơi cô muốn con đi. Jo càng cố gắng lý giải ý của con bé thì càng nhận thấy điềm không lành. Vậy mà lúc ấy, cô chỉ đứng đó, nhìn con bé biến mất vào màn đêm.
Cô quay lại Đường Turkey Creek, trong lòng đinh ninh đứa bé đang đợi mình ở Nhà Kinney. Nhưng rồi cô lại ước giá mà nó đã biến mất. Trong ánh sáng xám nhờ nhờ cuối cùng của chạng vạng, cô chạy xe vào con đường trải sỏi. Cô nhìn cây hồ đào trong sân trước. Không thấy con bé cũng như chú chó.
Cô bỏ trang thiết bị xuống hiên và đi về phía đống lửa. “Ursa?” Cô cất tiếng gọi. Câu trả lời duy nhất cô nghe thấy là tiếng pin pin của một con cú muỗi đang kiếm ăn sau nhà.
Một chiếc xe đang tiến vào. Không ai lái sâu vào con đường này như vậy, trừ phi họ bị lạc đường. Tấm biển đề ĐƯỜNG CỤT được đặt ở ngay phía đầu đường giúp đa phần mọi người không đi nhầm vào đây. Jo bước về phía trước lúc chiếc xe bán tải màu trắng của Anh Bán Trứng rẽ vào khúc quanh. Dưới ánh chiều nhập nhoạng, cô gần như không nhận ra chiếc xe đó. Lốp xe của anh nghiến xuống đường, đỗ xịch phía sau xe cô, đoạn anh tắt máy. Xem ra, điều khiến anh cất công đến tận đây để nói chuyện sẽ mất nhiều thời gian.
Jo tiến tới chào khi anh bước ra khỏi xe.
“Tôi nghe tiếng xe cô chạy vào con đường,” anh nói. “Tôi đợi cô nãy giờ.”
Cô giữ khoảng cách giữa hai người. “Có chuyện gì vậy?”
Anh tiến lại gần. “Tôi nghĩ cô biết mà. Cô mau tống khứ cô bé ngoài hành tinh đi cho tôi.”
“Tôi không hề bảo nó đến nhà anh!”
“Sao cô không đưa nó đến cảnh sát?”
“Anh đưa con bé đi à?”
Anh bước lại gần hơn, đủ để cô ngửi thấy mùi nấu nướng rất nồng. Không biết anh ta nấu gì cho bữa tối, nhưng nó ngào ngạt đến độ khiến cô cảm thấy đói ngấu.
“Cô phải kiếm người sửa cái đèn này đi thôi,” anh nói, ngẩng đầu nhìn cột điện.
“Nó đã hỏng từ hai tuần trước rồi, và tôi quyết định để tối một chút cũng hay.”
“Không có gì là hay đâu vì dăm ba phường thảo khấu xem những căn nhà tối là mục tiêu dễ dàng hơn so với những căn nhà sáng đèn.”
Phường thảo khấu. Thời nay ai còn dùng từ này kia chứ?
Anh chà bàn tay của mình lên phần má lởm chởm râu. “Cô nhóc này quả là kiệt xuất đấy. Cô biết con bé đang làm gì không?”
“Đọc Chiến tranh và Hòa bình?”
“Thế là cô hiểu rồi đấy.”
“Hiểu cái gì?”
“Hiểu nó thông minh một cách lạ thường đến thế nào.”
“Hôm chúng ta nói chuyện, tôi cũng đã bảo anh như vậy rồi mà.”
“Ừ, nhưng giờ tôi mới có dịp chứng kiến. Mẹ tôi cũng cảm thấy con bé rất sáng dạ.”
“Mẹ anh?”
“Tôi chăm sóc bà ấy. Mẹ tôi đang bệnh.”
“Tôi rất lấy làm tiếc,” cô lên tiếng, lặp lại điều mà rất nhiều người đã từng nói với cô.
Anh gật đầu.
“Cô bé ngoài hành tinh đó có nói với anh tên của nó không?” Jo hỏi.
“Nó gọi mình là Ursa Major, vì đó là quê hương của nó.”
“Cũng cùng cái tên mà con bé bảo tôi. Tôi nghĩ Ursa là tên thật của nó.”
“Tôi cũng cho là vậy,” anh gật gù. “Tôi đã tìm trên mạng xem có cô bé nào mất tích mang tên Ursa hay không.”
Jo tiến lại gần anh ta. “Anh tìm trên trang web Trẻ Em Mất Tích Và Bị Lạm Dụng phải không?”
“Đúng rồi,” anh đáp.
“Anh có thấy bức hình đôi giày không?”
“Cô cũng thấy nó à? Sao chuyện đó có thể xảy ra kia chứ? Sao không ai nhớ đến cậu bé ấy nhỉ?”
“Có vẻ anh cũng đi qua một quá trình giống tôi,” cô nhận xét.
“Tôi đã suýt gọi lên văn phòng cảnh sát trưởng ít nhất năm lần. Nhưng tôi quyết định trước tiên phải trao đổi với cô đã.”
“Tôi cũng không biết phải làm thế nào,” cô thành thật. “Trừ phi anh sẵn sàng nhốt con bé vào một căn phòng.”
“Cô nói thế là sao?”
“Đúng y như những gì tôi nói. Tôi đã gọi cho cảnh sát trưởng vào cái đêm hai chúng ta nói chuyện. Con bé không kể với anh điều đó à?”
“Không. Đã có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Nó dọa nó sẽ trốn và nó làm y như vậy. Cuối cùng thì phía cảnh sát không kịp nhìn thấy cô nhóc.”
“Chết tiệt,” anh nói. “Tôi linh cảm nếu tôi gọi điện, chuyện đó sẽ xảy ra. Thế viên cảnh sát bảo thế nào? Anh ta có thông tin đứa trẻ nào mất tích không?”
“Anh ta không có thông tin nào cả. Tay cảnh sát làm như thể tôi đang lãng phí thời gian của anh ta vậy. Anh ta còn không thèm bảo sẽ cố gắng tìm con bé, ngay cả khi tôi kể con bé bị bầm tím khắp người.”
Rõ ràng, người anh sượng lại. “Nó bị bầm tím ư?”
“Trên cổ, tay và chân. Chúng đều bị quần áo che đi.”
“Trời ơi. Những vết bầm tím ấy có giống do bị bạo hành không?”
“Một trong số những vết bầm tím ấy có dấu tay.”
“Cô có báo cảnh sát điều đó không?”
“Tôi đã nhắc đi nhắc lại với tay cảnh sát ấy rằng tôi dám chắc có người đã làm đau con bé. Nhưng anh ta không mấy ủng hộ chuyện đưa những đứa trẻ ra khỏi nhà của chúng. Anh ta kể cho tôi nghe chuyện một người bạn thời cấp hai của anh ta. Người bạn ấy bị giao vào tay ông bố bà mẹ nuôi bạo hành, và rốt cuộc cũng tự tử.”
“Anh ta bảo cô đừng giao nộp con bé à?”
“Không hẳn. Nhưng tay cảnh sát bảo có nhiều người nhận nuôi trẻ cơ nhỡ chỉ để hưởng tiền. Thậm chí, anh ta còn nói ngay cả khi Ursa bị bầm tím do bạo hành, con bé sẽ nói dối về nguyên nhân. Anh ta bảo viện trẻ cơ nhỡ có khi cũng tám lạng nửa cân so với căn nhà của nó, và con bé biết điều đó.”
“Cảnh sát gì mà lại đưa ra mấy lời khuyên vớ vẩn kiểu đấy kia chứ?”
“Anh thấy vậy à?”
“Cô đồng ý với anh ta sao?”
“Tôi không biết,” cô thành thật. “Tôi chưa có thời gian suy xét từ sau khi nói chuyện với anh ta. Hôm qua tôi có khách…”
“Ursa có kể với tôi.”
“Anh biết đêm qua tôi phát hiện điều gì không? Tôi nghĩ con bé không phải người ở đây.”
“Thật lạ khi nghe cô nói thế…” Anh hiếu kỳ.
“Sao vậy?”
“Hôm nay, tôi cũng nghĩ điều tương tự. Khi tôi khoe với cô nhóc mấy con mèo mới sinh, con bé mừng như bắt được vàng. Nó bảo những con mèo này là điều kỳ diệu. Rõ ràng, con bé chưa được thấy mèo con bao giờ, mà con nít vùng quê thấy mèo con như cơm bữa.”
“Con bé lại có thêm một điều kỳ diệu rồi à?”
“Nó bảo chỉ còn ba điều nữa.”
“Điều kỳ diệu đầu tiên của nó là chim non.”
“Cô bé cũng kể với tôi,” anh đáp.
“Giống như anh nói, con nít vùng quê ở tuổi con bé chắc hẳn đã thấy chim non ít nhất một lần. Tôi nghĩ con bé đến từ thành phố khác và có lẽ bị tống khỏi xe.”
“Giọng con bé nghe cũng hao hao người vùng này.”
“Có thể là Saint Louis,” Jo đoán.
“Người dân vùng ấy không nói giọng nghèn nghẹt kiểu vùng quê như vậy đâu.”
“Paducah?”
“Tôi đã tìm từng bang miền Nam có thể nói giọng giống vậy, thậm chí tìm xuống tít Florida,” anh kể. “Nhưng không thấy con bé trong danh sách mất tích.”
“Nếu những người chăm sóc tống cổ con bé ra khỏi xe, rõ ràng họ sẽ không báo nó mất tích.”
“Có thể nó chạy trốn,” anh nêu ý kiến. “Con bé rất thông minh, không lý gì nó lại giơ đầu chịu báng trước những kẻ ngu ngốc ấy. Tôi chưa nói cho cô biết con bé đang làm gì đúng không nhỉ?”
“Làm gì?”
“Nó thấy mấy cuốn sách về Shakespeare trên giá sách nhà tôi và hỏi tôi có thích nhà văn hào ấy không. Khi tôi đáp tôi rất thích Shakespeare…”
Jo để lọt mất vài chữ tiếp theo khi mải thẩm thấu thông tin Anh Bán Trứng thích Shakespeare.
“… con bé đòi đặt tên cho sáu chú mèo con theo tên của nhân vật trong các vở kịch của ông. Nó xin dùng máy tính của tôi để đọc về các nhân vật rồi mới quyết định xem nên đặt tên gì. Và đó là điều nó đang làm: nghiên cứu các vở kịch.”
“Con bé cũng làm thế với tôi, nó hợp cạ với niềm đam mê chim chóc của tôi, thậm chí còn đọc vài phần trong cuốn giáo trình Điểu học. Tôi đoán nó làm vậy để có thể gắn kết với mọi người.”
“Đó có thể là cách con bé sống sót trong căn nhà không cơm lành canh ngọt chút nào của mình.”
“Dễ thấy gia đình nó không hề gắn kết.”
“Phải.”
Jo tựa người vào đầu xe tải và đưa tay lên trán.
“Cô không sao chứ?” Anh hỏi han.
“Tôi mệt quá, không còn sức lo chuyện này nữa.”
“Nhìn cô hơi đuối, ngồi xuống đi.”
Cô rời khỏi xe tải của anh. “Tôi đã làm việc suốt mười lăm tiếng đồng hồ. Điều tôi cần bây giờ là đi tắm, ăn tối và ngủ.”
“Cô có muốn nói chuyện với con bé không?”
“Nói gì mới được chứ?”
Anh khoanh tay trước ngực. “Tôi phải thú thật với cô điều này. Tối nay, Ursa và tôi đã ghé qua tìm cô hai lần.”
“Chi vậy?”
“Con bé lo cho cô. Nó bảo cô bị ung thư.”
“Chết tiệt! Anh loan cái tin ấy cho mọi cột sóng điện thoại luôn đi.”
Anh buông tay. “Tôi không biết có thể làm điều ấy đấy.”
“Tôi không nghĩ có thể, nhưng các nghiên cứu sinh và thầy hướng dẫn của tôi cũng đã tận tình loan tin lắm rồi.”
“Bệnh tình của cô thuyên giảm chưa?”
“Có lẽ họ gọi tình trạng của tôi là đã thuyên giảm.”
“Vậy cô có thể báo cho Ursa biết rằng cô ổn, hay tốt hơn hết là nói trực tiếp với nó điều đó không? Con bé cứ lo cô sẽ chết.”
“Thì con người trước sau ai chẳng chết.”
“Cô làm sao cho đứa trẻ chín tuổi hiểu là được.”
“Được rồi. Đằng nào tôi cũng phải nói chuyện với cô nhóc. Tôi cảm thấy tội lỗi khủng khiếp khi để nó rời đi vào đêm qua.”
“Chuyện bất đắc dĩ thôi mà. Con bé bảo cô sẽ gặp rắc rối với thầy hướng dẫn của mình.”
“Có chi tiết nào về đời tôi mà hai người chưa đem ra mổ xẻ không?”
“Chúng tôi chưa đụng tới việc cô mặc xiêm y bên trong như thế nào.”
Xiêm y. Hẳn là người mẹ đã ảnh hưởng rất nhiều đến câu chữ của anh ấy.
“Để tôi chở cô đi bằng xe tải của mình,” anh đề nghị.
“Người tôi như một cái nùi giẻ.”
“Xe tôi cũng có hơn gì đâu”.
Cô không biết gì về Anh Bán Trứng - hay còn gọi là Gabriel Nash - trừ việc là một người thích Shakespeare, anh hẳn sẽ có trình độ học vấn ở mức tương đối, chứ không thể chỉ bán trứng trên một con đường ở vùng quê như thế này. Cô nhớ anh đột nhiên tỏ ra tức giận khi Ursa hỏi liệu anh có bằng tiến sĩ không. Chưa kể, Jo chưa bao giờ thấy bóng dáng người mẹ mà anh kể. Biết đâu anh ta đã giết Ursa và dùng con bé làm mồi để dụ Jo sập cái bẫy tương tự thì sao? Lần thứ một trăm có lẻ trong ngày, Jo tự dằn vặt bản thân vì đã để một cô bé mới chín tuổi đơn thương độc mã đi vào rừng.
Anh nhìn thấy sự ngập ngừng của cô. “Nếu muốn thì cô lái xe theo tôi cũng được.”
“Chắc tôi sẽ làm vậy.”
“Cô đủ thông minh để không cần phải quá cẩn trọng như vậy.”
“Anh nói vậy là sao?”
Anh cân nhắc câu trả lời. “Nếu muốn hại cô, tôi đâu thiếu gì cơ hội, vì cô sống ở đây mà.”
“Tôi cũng thế, nếu tôi muốn hại anh,” cô ăn miếng trả miếng, vì anh ta không có quyền xem phụ nữ sống đơn chiếc trong rừng là miếng mồi để giở trò bạo lực.
Anh khẽ cười, hàm răng trắng lộ ra dưới màn đêm. “Thường thì có nhiều hơn một người đến thuê căn nhà này. Sao hè năm nay chỉ có mình cô vậy?”
“Thì dòng đời đẩy đưa thế,” cô đáp.
Sự thật là, ban đầu, có một nghiên cứu sinh chuyên các loài côn trùng đồi - đồng cỏ cũng dự tính sống ở Nhà Kinney vào mùa hè này, nhưng khi nghe tin phải ở chung với Jo, anh ta ngay lập tức đổi ý. Anh ta dùng tiền nghiên cứu của mình để thuê một căn nhà khác, viện cớ muốn ở gần khu thực địa hơn. Nhưng Jo nghi ngờ anh ta không muốn lửa gần rơm với một người phụ nữ đã không còn là phụ nữ đúng nghĩa nữa. Không ít đàn ông trong số các nghiên cứu sinh tỏ ra lúng túng như gà mắc tóc trước mặt cô kể từ khi cô trở về, nhất là những người ngày trước đã từng tán tỉnh cô. Bác sĩ tâm lý của Jo đã chuẩn bị tinh thần cho cô trước những phản ứng như vậy từ phái mạnh, nhưng nỗi tổn thương nó gây ra chẳng hề thuyên giảm nhờ bất cứ đợt trị liệu nào. Ngày qua ngày, cô phải vật vã đối mặt với đau đớn ấy. Chỉ có thiên nhiên và công việc nghiên cứu mới giúp cô vơi bớt nỗi lòng.
“Thế thì tệ quá,” Anh Bán Trứng nói. “Hẳn cô phải cô đơn lắm.”
“Cũng bình thường thôi,” cô thủng thẳng. “Tôi muốn ở một mình khi làm nghiên cứu. Có thêm người xung quanh chỉ tổ khiến tôi phân tâm.”
Anh mở cửa xe tải. “Tôi đoán đó là gợi ý của cô. Đi theo tôi nhé.”