Chương 8
Con đường hẹp chằng chịt cành cây dẫn vào khu đất nhà Anh Bán Trứng hẳn bao nhiêu năm nay không hề được trải sỏi, và bề ngang của chiếc xe tải chính là cứu cánh duy nhất giữ cho con đường không bị rừng cây xâm lấn. Jo chạy xe theo thật cẩn trọng, bởi con xe Honda của cô hết rung lắc lại ken két rít lên khi bánh xe trượt xuống dưới rãnh sâu. Cô đã nghe thấy tiếng sủa oang oang của Gấu Nhỏ trước khi thấy đôi mắt của nó sáng lên trước ánh đèn xe. Nó tiếp tục sủa nhặng, tíu tít chạy tới chạy lui giữa xe tải và chiếc SUV, trong khi màn đêm tăm tối của khu rừng đã bắt đầu bao phủ lên khoảng sân được chiếu sáng bằng ngọn đèn chuyên dụng.
Anh Bán Trứng nhảy ra khỏi xe và cố gắng ra hiệu cho chú chó im lặng.
“Tôi thấy anh kế thừa cả Gấu Nhỏ lẫn Gấu Lớn nhỉ?” Jo nói trong khi bước xuống xe.
“Tôi đã dặn Ursa không cho con chó ở trên đất của tôi.”
“Chúc anh may mắn nhé.”
“Tôi cũng biết vậy mà,” anh cười khổ. “Tôi để cô nhóc cho nó ăn.”
“Coi chừng nó quen đấy.”
“Đành chịu thôi. Tôi không muốn nó xách bụng đói đi loanh quanh đàn gà và đàn heo tôi nuôi.”
“Anh nuôi cả heo à?”
“Cô không ngửi thấy mùi hả?”
“Tôi còn chẳng phân biệt được mùi heo và mùi ngựa.”
“Đúng là dân thành đô.”
Cái từ dân thành đô lại bắt tai cô. “Anh có ăn thịt những con heo mình nuôi không?” Cô hỏi.
“Thật ra tôi còn đọc Shakespeare cho chúng nghe kìa.” Anh mỉm cười với cô. “Ừ, tôi ăn chúng chứ. Nhà tôi cố gắng tự cung tự cấp nhất có thể. Tôi ghét đi đến tiệm tạp hóa lắm.”
“Tại sao? Anh không thích vẽ chuyện à?”
“Cô không tưởng tượng nổi đâu,” anh nói, nhưng cô không hiểu ý anh muốn nói ở đây là gì.
Anh liếc qua ô cửa sổ còn sáng đèn trong nhà. “Vấn đề của Ursa là con bé sống ở đâu đó quanh vùng này, nhưng bố mẹ nó có trục trặc. Ấy là suy nghĩ của mẹ tôi, nhưng bà không bằng lòng lắm khi con bé ở đây.”
“Ursa có kể cho mẹ anh chuyện con bé là người ngoài hành tinh không?”
“Có, nhưng câu chuyện đó chỉ càng khiến mẹ tôi tội nghiệp con bé. Bà bảo Ursa bịa ra thế giới viễn tưởng ấy để trốn chạy thực tại.”
“Và đúng là như thế.”
“Không, không phải thế đâu,” anh phản đối. “Ursa không tin điều vớ vẩn đó.”
“Thế tại sao con bé cứ kể đi kể lại chuyện ấy?”
“Vì con bé rất thông minh.”
“Thông minh thế nào mà lại giả vờ rằng mình là người ngoài hành tinh chứ?”
“Sao tôi biết được. Tôi dốt đặc cán mai nên chưa hiểu ra.”
Ursa hào hứng lao qua cửa chính, chạy dọc hàng hiên, nhảy xuống ba bậc tam cấp như thể nó đã quen làm thế mấy năm nay. “Chú tìm ra cô rồi!” Con bé vòng tay ôm quanh người Jo và dụi đầu vào bụng cô. “Con nhớ cô quá, cô Jo ơi! Với cả cô biết gì không? Con thấy thêm một điều kỳ diệu rồi!”
“Cô có nghe, mèo con hả?” Jo hỏi.
“Con dẫn cô đi xem nhé?” Cô bé hỏi Gabe.
“Nửa đêm rồi nên chúng ta tốt nhất đừng làm chúng kinh động, với cả cô Jo phải ăn nữa.” Anh quay sang Jo. “Chúng tôi còn rất nhiều đồ ăn sau bữa tối.”
“Ồ… Cảm ơn anh,” cô đáp, “nhưng tôi…”
“Cô ăn là giúp chúng tôi đấy. Tôi lỡ tay nấu nhiều quá.”
“Sườn heo, xốt táo, đậu leo và khoai tây nghiền,” Ursa quảng cáo. “Chú Gabe trồng tất tần tật ở nhà đấy cô ạ. Chú ấy thậm chí còn làm cả xốt táo. Ở đây có cây táo nữa cô Jo ạ! Hôm nay con vừa mới trèo lên cây đấy!”
“Mèo con, heo con và cây táo, đúng là thế giới mà đứa trẻ nào cũng mơ đến,” Jo nhận xét.
“Kể ra con bé cũng thích thú lắm,” anh nói.
“Tôi thấy mà.”
Ursa dùng tay kéo Jo lên bậc thang phía dưới tấm biển gỗ đề NHÀ CỦA NASH. Hai cô cháu đi ngang qua một hàng ghế bập bênh dưới mái hiên rồi bước vào nhà. Nội thất bên trong căn nhà là một khoảng không gian rất bắt mắt, với tường gỗ, sàn gỗ, lò sưởi bằng đá và đồ đạc cũng tông xuyệt tông được làm từ gỗ. Căn nhà nhìn tươm tất hơn hẳn những gì Jo hình dung trong đầu, nhất là khi nhìn con đường nhếch nhác dẫn vào nhà cùng tấm biển CẤM VÀO cũ kĩ. Nhà bếp được trang bị đồ dùng hiện đại cùng mặt bếp bằng đá granite vô cùng trang nhã. Và nếu như căn Nhà Kinney cô đang ở thông gió bằng máy điều hòa không khí treo trên ô cửa sổ đã cũ kĩ thì nhà Nash sử dụng hệ thống điều hòa trung tâm.
Một phụ nữ khuôn mặt phúc hậu, tóc bạc như tơ mà cô đoán là bà của Gabe đang ngồi ở bàn bếp, bên cạnh là cây gậy bốn chân. “Ta là Katherine Nash,” bà giới thiệu, quan sát Jo bằng đôi mắt xanh da trời sắc lẹm. Bà chìa bàn tay run run của mình ra chào cô, có lẽ là do bệnh Parkinson [12] .
Jo nắm lấy tay bà. “Hân hạnh được gặp bà. Cháu là Joanna Teale, nhưng bà cứ gọi cháu là Jo.”
“Ursa đã kể về cháu suốt ngày hôm nay.”
“Cháu xin lỗi về điều đó,” Jo đáp, và bà Katherine mỉm cười.
Gabe nhanh tay bày ra đĩa thức ăn nóng sốt từ cơ man nồi niêu xoong chảo trên bếp. Anh đặt nó lên bàn và kéo ghế cho cô.
“Anh có chắc không đấy?” Jo nói với Gabe. “Đôi bốt của tôi sẽ khiến sàn nhà bẩn mất.”
“Cháu đừng lo,” bà Katherine nói. “Ngày trước, chồng ta hay nói nhà gỗ mà không có chút đất bẩn dính trên sàn thì không đúng điệu.”
“Một triết lý rất phù hợp cho một đứa nhóc lúc nào cũng lấm bẩn,” Gabe đế thêm.
Jo tự hỏi liệu có phải anh được ông bà cưu mang nhận nuôi từ nhỏ. Ban nãy anh có kể mẹ mình bị bệnh. Có lẽ, mẹ anh mắc một căn bệnh mãn tính, khiến bà mất khả năng chăm sóc con cái từ lúc anh còn bé.
Jo ngồi xuống, xắt miếng thịt được om nhừ, ăn một miếng sườn được nêm nếm vừa miệng. “Căn nhà đẹp quá,” cô cảm thán với bà Katherine. “Nó có sẵn lúc bà mua khu đất ư?”
“Arthur - chồng ta - và một vài người bạn đã cùng nhau xây dựng nó đấy,” bà kể. “George Kinney, chủ của khu đất cháu đang thuê, cũng giúp chúng ta một tay. Cháu không biết sao, ông ấy và chồng ta là bạn thân lắm.”
“Cháu không biết đấy,” Jo thật thà đáp.
“Họ quen nhau từ thời làm nghiên cứu sinh và ở chung phòng tại Đại học Illinois. Sau khi học xong tiến sĩ, họ rốt cuộc cùng ở lại Illinois. Chồng ta dạy Văn học Anh ở Đại học Chicago, và ta nghĩ chắc cháu biết ông George là một nhà côn trùng học ở Đại học Illinois.”
“Vâng, cháu biết ạ,” Jo trả lời. Cô liếc về phía Gabe, để ý anh vẫn đang dõi theo cô từ căn bếp. Giờ thì cô ngộ ra thêm một vài điều bí ẩn ở anh. Người ông nuôi lớn anh là một giáo sư văn học. Chẳng trách anh có mối liên hệ với Shakespeare và có lẽ đó cũng là lý do anh phản ứng trước câu hỏi liên quan đến văn bằng học vị của Ursa. Nhác thấy cô nhìn mình, Gabe vô thức quay đi, lấy chiếc hộp nhựa cất vào tủ lạnh. “Giữa Giáo sư Kinney và chồng bà, ai là người đầu tiên mua đất ở đây ạ?” Jo hỏi Katherine.
“Ông Arthur và ta mua trước. Chúng ta muốn tìm chốn ẩn cư, rời xa phồn hoa đô thị, và ông Arthur từ thuở ấu thơ đã luôn mơ ước xây một căn nhà gỗ. Vài năm sau, vợ chồng ông George cũng mua khu đất bên cạnh khi nó giảm giá. Ông ấy thích mê vì được nghiên cứu động vật dưới nước ở Turkey Creek, chỉ cách cửa nhà dăm bước chân.”
“Khi ông bà xây dựng căn nhà này, con cái của ông bà lớn chưa ạ?” Jo hỏi tiếp.
“Khi chúng ta xây xong thì Gabe chưa ra đời, nhưng chị gái của nó đã vào trung học rồi.” Bà mỉm cười trước sự bối rối của Jo. “Chắc cháu tưởng ta là bà của Gabe phải không?”
Jo ngượng chín mặt, không dám nói gì.
“Gabe là một đứa trẻ ‘lộc trời cho’ như người đời hay gọi đấy,” bà Katherine kể. “Ta sinh ra nó năm ta bốn mươi sáu tuổi, còn chồng ta lúc ấy bốn mươi tám. Chị gái hơn nó đến mười chín tuổi.”
“Bố của anh vẫn khỏe mạnh chứ?” Jo hỏi Gabe.
Trước khi người con trai kịp trả lời, bà Katherine đã lên tiếng, “Ông Arthur qua đời hai năm trước rồi.”
“Cháu rất tiếc,” Jo chia buồn.
“Ông ấy khỏe như vâm,” bà kể. “Nhưng chứng phình mạch máu não khiến ông ấy ra đi đột ngột.”
Ursa lắng nghe cuộc trò chuyện, nhưng con bé chạy qua phòng khác khi Jo bắt đầu dùng bữa. Con bé quay lại với một tờ giấy cầm trên tay. “Con nghĩ ra ba cái tên rồi,” nó khoe với Gabe. “Chú muốn nghe thử không ạ?”
“Tất nhiên rồi.” Anh ngồi trên ghế đối diện con bé.
“Một con sẽ mang tên Hamlet.”
“Thế thì mệnh nó sẽ buồn lắm,” Gabe nhận xét.
“Con biết. Con đọc về nhân vật này rồi,” Ursa giải thích. “Nhưng Hamlet là một người rất quan trọng.”
“Đúng là thế,” Gabe đồng tình. “Vậy chú mèo nào sẽ mang tên Hamlet?”
“Chú mèo xám, vì màu xám là một màu tương đối buồn.”
“Nghe cũng có lý đấy,” Gabe nhận định.
“Chú mèo trắng sẽ mang tên Juliet trong Romeo và Juliet. Con rất thích cái tên này.”
“Chú cũng vậy,” Gabe tán đồng. “Nhưng số phận của Juliet cũng rất hẩm hiu.”
“Chú đừng nói thế nữa! Chỉ là cái tên thôi mà!”
“Cháu nói đúng. Dù gì, Juliet cũng từng hỏi một câu rất nổi tiếng, ‘Có gì trong tên tôi?’. Thế cái tên còn lại là gì?”
“Macbeth.”
“Ờ rồi, chú sẽ không nhận xét gì về số phận nhân vật nữa. Thế Macbeth là cái tên cho chú mèo nào?”
“Chú mèo nhị thể trắng đen.”
“Chắc con bận rộn lắm nhỉ? Đây là ba vở kịch nổi tiếng nhất của Shakespeare đấy.”
“Con tra xem vở kịch nào quan trọng nhất mà. Tiếp theo là Julius Caesar. Nhưng chú có thấy ‘Julius’ nghe có vẻ giống ‘Juliet’ quá không?”
“Thì con gọi nó là Caesar thôi.”
“Cũng được. Nhưng trước nhất, con phải tìm hiểu về nhân vật này để xem chú mèo nào sẽ phù hợp với cái tên này đã.”
“Chú thấy không hay lắm… nếu xét về mặt số phận nhân vật.”
Ursa mắm môi mắm lợi đầy vẻ cáu tiết, còn Gabe bụm miệng nén cười.
Jo nhìn khung cảnh này với vẻ thích thú. Chưa gì hai chú cháu đã trông như đôi bạn lâu năm, đùa giỡn hết sức hồn nhiên.
“Có lẽ con nên chuyển qua mấy vở hài kịch xem sao,” Gabe gợi ý.
“Con bé nên chuyển qua việc về nhà,” bà Katherine ngắt lời. “Con sẽ đưa nó về hay để Jo đưa?”
Gabe liếc nhìn Jo bằng ánh mắt lo lắng. “Bọn con chưa bàn đến việc này.”
“Bố mẹ con bé chắc lo sốt vó lên rồi,” bà Katherine nói.
“Dạ không đâu ạ,” Ursa phản đối. “Bố mẹ con rất vui khi con đến đây, vì con sẽ có bằng tiến sĩ.”
Đôi mắt xanh sắc như dao của bà Katherine dán chặt vào con trai.
“Rồi rồi,” anh nói. “Để con bàn với Jo.”
“Bữa tối ngon lắm. Cảm ơn cả nhà,” Jo bày tỏ và đứng dậy khỏi ghế. Gabe ra hiệu gọi cô ra cửa, và khi Ursa định đi theo, anh nhanh trí nói, “Con giúp chú một chút được không? Bỏ chén đĩa của cô Jo vào bồn và tráng sơ giúp chú nhé.”
“Chú chỉ nói vậy để cô chú có cơ hội bàn về con phải không?” Ursa nói.
“Chú nói vậy bởi vì chú ghét rửa chén. Con đi đi.”
Anh dẫn Jo ra cửa chính, bước xuống hàng hiên cho thêm phần riêng tư. “Con bé không ở đây được. Mẹ tôi không biết đêm qua nó ngủ ở nhà tôi.”
“Sao bà ấy lại không biết?”
“Đến tôi còn không biết đây này. Khi tôi ra vắt sữa bò thì con chó nhảy xổ ra từ kho và sủa nhặng xị.”
“Con bé ngủ trong nhà kho à?”
“Tôi đoán vậy.”
“Rõ là tội nghiệp. Trước thì nó ngủ ở căn chòi Nhà Kinney.”
“Tôi linh cảm con bé còn trải qua nhiều chuyện tồi tệ hơn nữa,” anh trầm tư.
“Cảm ơn anh đã giúp cô bé nhé. Đêm nay trông nó như người khác vậy.”
“Ừ, nhưng nó không thể ở lại đây được. Mẹ tôi sẽ bắt tôi giao nộp con bé cho cảnh sát nếu bà phát hiện chúng ta không biết nó sống ở đâu.”
“Tôi nghĩ mình phải tìm cách xoay xở thôi. Khổ nỗi ngày mai tôi không nghỉ được. Tôi có rất nhiều tổ chim cần kiểm tra.”
“Chậc, cô đừng kỳ vọng gì ở tôi. Tôi không nhốt con bé như nhốt thú được.”
“Tôi hiểu. Mới hình dung đã thấy kinh khủng rồi.”
Anh đưa mắt nhìn Gấu Nhỏ, ngoan ngoãn như lần trước Jo thấy, nó đang vươn đầu liếm mấy ngón tay còn vương mùi sườn heo của cô. “Vậy nếu mình đợi thì sao?” Anh gợi ý.
“Đợi gì mới được?”
“Cô không thấy kỳ cục khi con bé đặt ra hạn định với năm điều kỳ diệu à? Tại sao nó lại làm thế cơ chứ?”
“Tất nhiên là để câu thêm thời gian rồi.”
“Nhưng khéo có nguyên nhân. Biết đâu nó đang đợi một người nó tin tưởng trở về nhà hoặc điều gì đó tương tự thì sao?”
“Sao tôi tưởng chúng ta đang dựng giả thiết con bé không sống gần đây cơ mà?”
“Thì có thể nó mới chuyển đến tuần trước.” Anh liếc mắt về phía cửa để đảm bảo Ursa không nghe thấy. “Biết đâu người bà hay chăm sóc con bé phải nằm viện thì sao? Có thể khi bà bệnh, nó phải chuyển vào sống với một người họ hàng bạo hành nên mới bỏ trốn.”
“Tôi cũng nghĩ tới những tình huống như thế.”
“Nghe nó hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh mà.”
“Nhỡ người bà của con bé không bao giờ khỏe lại thì sao?” Jo nói.
“Nhỡ bà ấy khỏe lại nhưng chúng ta lại vô tình đưa con bé vào viện trẻ cơ nhỡ thì sao?”
“Vậy chúng ta phải đợi bao lâu thì người bà trong câu chuyện kia mới xuất hiện?”
“Tôi chỉ đang gợi ý chúng ta tạm nghĩ về điều này vài hôm thôi. Có lẽ con bé sẽ từ từ tin tưởng chúng ta và mở lòng nói thật.”
Ursa ló đầu ra từ cửa chính. “Hai cô chú bàn tán về con xong chưa?”
“Chưa. Con bước vào trong đi,” anh đáp.
Cánh cửa đóng sập lại.
“Tôi sợ nếu đợi, chúng ta có thể sẽ vướng vào rắc rối đấy,” Jo e ngại.
“Chưa ai trình báo con bé mất tích cả. Không ai ngó ngàng đến nó, ngay cả viên cảnh sát cô trao đổi cũng thế. Và như anh ta nói, rủi may nó bị rơi vào một trại trẻ cơ nhỡ cặn bã thì khổ, nên tôi thấy không có lý do gì phải vội khi chúng ta có thể tìm được hướng giải quyết hay hơn.”
“Nếu chúng ta giao con bé cho cảnh sát, chúng ta có thể đảm bảo việc nó sẽ đến một nơi không cặn bã mà.”
“Bằng cách nào?”
Cô không có câu trả lời.
“Nếu cô muốn giao nộp con bé thì làm đi,” anh nói.
“Tôi không muốn.”
“Vậy đưa nó về Nhà Kinney đi.”
“Và để mặc nó ở nhà một mình khi tôi đi làm suốt buổi sáng sao?”
“Cứ thả con bé ở chỗ tôi khi cô lái xe ngang qua. Sáng ra, tôi hay chăm đàn gia súc gia cầm.”
“Nhưng tôi đi rất sớm.”
“Tôi biết. Tôi nghe tiếng xe của cô chạy ngang mà. Con bé sẽ phải học cách làm quen thôi.”
“Anh sẽ giải thích với mẹ anh thế nào về con bé?”
“Nhà con bé trong khu này, và con bé thích vui chơi trong nông trại nhà mình.”
“Tôi thấy nó cứ thế nào ấy,” cô đáp.
“Không lẽ cô thấy việc nhốt con bé trong tủ đồ, khóa nó lại rồi báo cảnh sát tới bắt nó thì tốt hơn à?”
“Khốn thật, không hề nhé.”