Chương 9
Jo và Gabe âm thầm lặng lẽ trao đổi về Ursa suốt bốn ngày liền. Thỉnh thoảng, có cảm giác bọn họ như là một cặp vợ chồng đã ly hôn, hết truyền tới lại đưa lui cô bé giữa hai căn nhà. Nhưng đa phần thời gian, cô cảm thấy họ như đang lén lút thực hiện giao dịch phi pháp nào đó, bởi họ trao nhau Ursa vào khung giờ oái oăm khi trời còn nhá nhem: trước bình minh và lúc chạng vạng. Đêm nào cũng vậy, vừa về tới nhà là Jo lại kiểm tra các trang web về trẻ em mất tích, cầu mong nhìn thấy đôi mắt nâu sâu thăm thẳm của Ursa trên mỗi lần lăn chuột. Nhưng hơn một tuần trôi qua, chưa thấy ai trình báo con bé mất tích cả.
Vào ngày thứ ba, Gabe đưa Ursa đến sân bán đồ giảm giá để mua quần áo, kết quả là tủ quần áo của cô nghiêng hẳn về tông màu tím cùng những hình ảnh động vật với đôi mắt to tướng. Sang ngày thứ tư, Ursa không còn vẻ ngoài như yêu tinh nữa: con bé mặc đồ đâu ra đấy, ăn uống đầy đủ, hoạt bát vui chơi ngoài trời suốt mấy tiếng liền. Bọng mắt thâm quầng của con bé cũng biến mất, da dẻ trở nên hồng hào hơn, và trộm vía, con bé cũng đã tăng được vài cân.
Mỗi tối, sau khi tắm rửa, Ursa lại kể cho Jo nghe những điều thú vị mà nó đã làm ở nhà Gabe, và thỉnh thoảng, Jo lại có cảm giác hơi ganh tị khi cô bé tỏ ra thích mê khi được vui chơi cùng Gabriel trong xứ sở thần tiên. Đó là những khoảnh khắc khiến cô cảm thấy họ giống cặp vợ chồng đã đường ai nấy đi, dù cô chẳng biết tí gì về Gabe.
Căng thẳng giữa hai “ông bố bà mẹ” lên đến đỉnh điểm vào đêm thứ năm, khi Ursa hớn hở khoe với cô sau khi về nhà, “Cô đoán xem hôm nay chú Gabe cho con làm gì?”
“Con vắt sữa bò à?”
“Con đã làm rồi.”
“Cưỡi kỳ lân hả?”
“Được thế thì còn gì bằng! Nhưng bắn súng của chú ấy cũng vui cỡ đó.”
Jo đặt chiếc nĩa đang cầm trên tay xuống bàn.
“Con bắn gần hồng tâm đến ba lần đấy nhé!”
Jo đứng dậy, đẩy ghế ra. “Con ngồi đây đợi cô. Vài phút nữa cô về.” Cô chộp lấy chùm chìa khóa và xỏ dép.
“Cô đi đâu vậy ạ?”
“Đi nói chuyện với chú Gabe.”
“Cô tức giận chuyện gì thế ạ?”
“Sao con lại nghĩ vậy?”
“Nhìn mắt cô như tóe sấm chớp ấy.”
“Cô không giận con. Con cứ ở nhà đi.”
Jo cho Gấu Nhỏ lên hiên nhà để nó không chạy theo. Cô lầm bầm chửi rủa Anh Bán Trứng mỗi lần chiếc Honda yêu quý của mẹ cô cào xuống mặt đường gồ ghề dẫn đến nhà anh.
Gabe mở cửa với chiếc tạp dề màu hồng đang mặc trên người, và nếu không phải đang tức điên người thì có lẽ cô đã phá ra cười lăn cười bò trước hình ảnh một anh thanh niên cao to bặm trợn đầy râu ria trong bộ dạng của Martha Stewart. “Anh lo mà sửa cái con đường sâu hoắm như Hẻm Núi Lớn kia đi,” cô nói.
“Cô qua tận đây chỉ để nói với tôi điều đó à?” Anh hỏi.
“Không.”
“Ursa ổn chứ?”
“Nó vui như Tết,” Jo đáp, “và tôi muốn con bé luôn vui vẻ như thế, nên anh làm ơn, từ nay về sau, đừng để nó rớ đến mớ súng đạn của anh thêm lần nào nữa.”
“Ai đến vậy?” Mẹ anh hỏi vọng ra từ trong nhà.
“Jo mẹ ạ. Cô ấy muốn xin chút đường. Cô đợi đây nhé,” anh nói với Jo. Chưa đầy một phút sau, anh quay lại, lần này không mang tạp dề nữa mà cầm theo một túi đường nho nhỏ trên tay. “Cô là sĩ quan kiểm soát súng đạn à?” Anh hỏi, nhe răng cười toe toét dưới bộ râu.
“Tôi phản đối việc để một đứa bé mới chín tuổi chơi đùa với súng, trong khi nó còn không hiểu được súng đạn nguy hiểm đến mức nào.”
“Con bé có đeo đồ bảo hộ tai và mắt mà, với lại tôi cũng đã dạy nó tất cả các quy tắc an toàn rồi.”
“Dù gì đi nữa thì nó vẫn chỉ là một đứa bé, mà con nít thì hay làm những trò khó đoán. Có đứa còn lỉnh vào tủ súng của bố nó và bắn đứa em trai đỏ hỏn đấy.”
“Con bé khôn ngoan hơn thế nhiều. Với lại, ai mà biết sau này nó sẽ gặp chuyện gì? Ngộ nhỡ một ngày nó cần đến kỹ năng đó thì sao?”
“Để tống tiễn bố mẹ nuôi về suối vàng nếu họ không ra gì chắc?”
“Tôi thì cho rằng cứ chuẩn bị trước chẳng bao giờ thừa,” anh thủng thẳng.
“Phải, chuẩn bị cho ngày tận thế.”
“Cũng có thể lắm chứ.”
“Anh là một trong những người lúc nào cũng phát cuồng khi nghĩ đến chuyện phải sống sót hả? Làm thế nào mà một người đọc Shakespeare lại tự thui chột não mình như thế chứ?”
“Vậy những ai sở hữu súng đều là những kẻ dốt đặc cán mai, không bao giờ rớ tới Shakespeare à? Quan điểm của cô là thế sao?”
“Tôi rất mệt, không có nhã hứng tranh cãi với anh. Anh cứ cất súng đi khuất tầm mắt của Ursa là được.” Cô dợm bước xuống bậc tam cấp, nhưng quay lại, chộp lấy túi đường từ tay anh. “Thật ra tôi cũng cần đường để pha cà phê. Tôi về đây.”
Mọi trăn trở cô từng có khi để Ursa ở lại với hai người bọn họ một lần nữa nổi lên trong lúc cô lái xe trở về nhà, nhất là những e ngại về Anh Bán Trứng. Thật lòng mà nói, cô chẳng biết chút gì về người đàn ông ấy.
Ursa đợi cô trên lối đi bộ. “Cô cãi nhau với chú Gabe ạ?” Con bé hỏi.
“Tất nhiên là không rồi,” Jo trấn an cô bé.
“Chú ấy có còn cho con qua nhà chơi nữa không?”
Xem ra con bé lo lắng về sự xích mích giữa hai người nhiều hơn cô tưởng. Jo ngồi xổm xuống trước mặt con bé và ôm chầm lấy nó. “Mọi chuyện vẫn ổn mà. Cô chỉ có chút bất đồng nho nhỏ với chú Gabe thôi.”
“Về chuyện bắn súng phải không ạ?” Con bé đoán.
“Ừ. Bố mẹ cô nuôi dạy cô khác với bố mẹ chú ấy. Cô chưa bao giờ xem súng đạn là vui thú cả. Mục đích duy nhất của súng mà cô được dạy là giết chóc.”
“Con và chú Gabe chỉ bắn vào bia ngắm thôi mà.”
“Vậy tại sao mọi người lại dùng những tấm bia đó? Để họ học cách nhắm đạn vào tim hay vào đầu. Chú ấy đang dạy con cách giết người đấy.”
“Con chưa bao giờ nghĩ như vậy.”
“Chà, súng đạn là thế, giết một con nai chẳng hạn, mà cô thì không thể hình dung nổi việc con làm như vậy.”
“Có nằm mơ con cũng không bao giờ giết nai đâu!”
“Tốt. Vậy từ giờ không được dùng súng nữa nhé?”
“Dạ.”
Jo hâm nóng đĩa thức ăn trong lò vi sóng, nhưng ngay khi cô vừa chuẩn bị dùng bữa thì Gấu Nhỏ ngoài hiên sủa nhặng lên. “Gì đây không biết?” Cô bước ra hiên, trông thấy xe tải của Gabe đậu xịch phía sau xe mình. “Thật không thể tưởng tượng nổi,” cô lên tiếng. “Anh đánh xe qua tận đây để tiếp tục tranh cãi nữa à?”
“Tôi không tranh cãi,” anh nói.
“Anh bảo vệ những điều mình đã làm.”
“Thế đâu phải là tranh cãi.”
“Tôi muốn ăn nốt bữa tối của mình.”
“Cô cứ ăn đi,” anh nói, thủng thẳng bước vào lối đi.
“Anh qua đây làm gì?”
“Để làm hòa với cô. Ngắm trăng sao là cách tốt nhất để cho thấy những cuộc cãi vã của chúng ta chỉ là vô nghĩa. Tôi có mang theo kính thiên văn của mình đây.”
“Thiên Hà Chong Chóng!” Ursa hét vang sau lưng Jo. “Chú đúng là biết giữ lời hứa! Hôm nọ, chú ấy bảo tối nào đấy sẽ chỉ cho cô cháu mình!”
“Và bây giờ là thiên thời địa lợi,” Gabe ôn tồn. “Hôm nay, trời không trăng, không khí trong lành, đèn đường tắt ngóm, chẳng khác nào mời gọi trộm vào vác cả căn nhà không súng không đạn của cô đi…”
Cô cố gắng giữ vẻ mặt bực bội, nhưng nụ cười của anh đã xóa tan nó.
“Cô lo ăn xong bữa tối đi, còn tôi sẽ chuẩn bị,” anh nói. “Con có muốn học cách dựng kính viễn vọng không?” Anh hỏi Ursa.
“Dạ có!”
Jo giữ cửa mở trong lúc con bé lao qua như tên bắn. “Con chỉ được phép ngắm qua một cái ống cùng chú Gabe trong trường hợp này. Con hiểu chứ?”
“Vâng ạ,” Ursa trả lời, còn Gabe giơ tay tuân lệnh.
Sau khi ăn xong và dọn rửa chén đĩa, Jo đến rìa khu đất tham gia cùng hai chú cháu, phát hiện hóa ra kính viễn vọng của Gabe hay ho hơn nhiều so với những gì cô tưởng tượng. Nó từng thuộc về bố anh, một người đam mê thiên văn học, nên ông đã dạy con mình cách xác định các vật thể trên bầu trời đêm. Gabe cũng mang theo ống nhòm, chỉ cho Ursa cách xác định vị trí của Thiên Hà Chong Chóng bằng cách sử dụng các ngôi sao trong chòm sao Bắc Đẩu. Jo ngồi trên chiếc ghế xếp, dỏng tai nghe, cô quá mệt mỏi sau một ngày dài quần quật làm việc trên khu thực địa, chẳng còn bói đâu ra sức để tìm vệt sáng mờ mịt của một thiên hà xa xôi.
Dù đã được trang bị chiếc kính viễn vọng ấn tượng nhưng công cuộc tìm kiếm Thiên Hà Chong Chóng vẫn tốn kha khá thời gian, bởi nó có “độ sáng bề mặt thấp”, theo như những gì Gabe giải thích. Jo nghe mà ù ù cạc cạc, sợ không khéo mình sẽ lăn ra ngủ trên ghế trước khi anh kịp tìm ra thiên hà.
“Đây, thấy rồi,” anh tuyên bố. “Messier 101, hay còn được biết đến với cái tên Thiên Hà Chong Chóng.”
Ursa đứng trên chiếc thùng gỗ mà anh mang theo và nhìn qua ống kính. “Con thấy rồi!” Cô bé reo lên rồi lặng thinh quan sát. “Cô có biết nó nhìn giống gì không cô Jo?”
“Chong chóng hả?”
“Nhìn nó như tổ chim sẻ đất màu chàm vậy. Và những ngôi sao trắng kia chính là những quả trứng.”
“Cho cô xem với nào!” Jo đứng dậy khỏi ghế và nhìn vào kính viễn vọng. Ursa nói đúng. Thiên hà uốn lượn đầy huyền ảo tựa hồ chiếc tổ chim trong vũ trụ với những quả trứng là muôn vàn tinh tú lấp lánh. “Cô phải công nhận đây đúng là điều tuyệt vời nhất mà cô từng thấy. Nó trông như tổ chim sẻ đất màu chàm nhìn từ trên cao xuống ấy. Tổ chim cũng có hình dáng hơi lộn xộn thế này ở phần rìa.”
Gabe thay phiên cô quan sát. “Tôi thấy rồi. Còn phần trung tâm của tổ chim xoáy vòng đến vô tận. Tôi thích cách hình dung này hơn là hình chong chóng. Tổ Chim Vô Tận. Kể từ giờ, tôi sẽ đặt tên nó như thế.”
“Đó là nơi con sống đấy,” Ursa tuyên bố. “Con sống ở Tổ Chim Vô Tận.”
“Nhất con rồi đấy,” Jo nói, đoạn đưa tay xoa đầu con bé.
Ursa nhảy loi choi đầy kích động, như thể con bé sắp phóng lên trăng sao đến nơi. “Con nướng kẹo dẻo được không ạ?”
“Ursa… Cô mệt lắm, không còn sức nhóm lửa đâu.”
“Để chú làm cho,” Gabe nói. “Con vào nhà lấy kẹo dẻo ra đi, Quý Cô Tổ Chim.”
Ursa chạy vụt về phía cửa sau.
“Thế có được không?” Anh hỏi.
“Tôi thức trắng từ bốn giờ rưỡi sáng đến giờ,” Jo kể. Ursa cũng vậy, nhưng chuyến viếng thăm bất ngờ của Gabe khiến con bé như được tiếp thêm năng lượng.
“Cô cứ ngồi nghỉ đi,” Gabe nói. “Tôi sẽ coi sóc vụ nướng kẹo dẻo với sự cân nhắc kỹ lưỡng hơn ban sáng.” Anh bắt đầu ném nhành cây vào trong bếp lửa. “Nhân tiện, đây là lời xin lỗi của tôi đấy.”
“Được rồi.” Cô quay lại chiếc ghế gấp. “Tôi cũng xin lỗi vì đã chê anh đọc Shakespeare mà không có đầu óc.”
“Tôi là một gã đọc Shakespeare bán trứng bên vệ đường - cũng na ná với điều cô nói mà.” Anh chăm chú nhìn khuôn mặt cô. “Chắc hẳn cô rất thắc mắc tại sao tôi lại bán trứng và không làm một công việc bình thường phải không?”
“Đó không phải là chuyện của tôi,” cô đáp, dù thật ra thỉnh thoảng cô cũng hơi băn khoăn.
“Tôi bán trứng vì mấy con gà mái tôi nuôi đẻ ra nhiều trứng hơn nhu cầu tôi sử dụng.” Anh quay mặt đi và rút thêm vài que từ đống củi. “Nhưng sạp bán trứng ấy là phương pháp trị liệu của tôi đấy.”
“Sao nó lại là phương pháp trị liệu của anh được?”
Anh lại quay sang nhìn cô. “Trị liệu rối loạn lo âu xã hội, trầm cảm và hội chứng sợ không gian rộng cấp độ nhẹ.”
Cô ngồi dậy khỏi ghế để nhìn xem anh nghiêm túc đến đâu khi thổ lộ điều vừa rồi.
“Cô đừng lo, tôi vẫn ổn với Ursa mà. Tôi sẽ không làm hại con bé hay gì đâu.”
Ursa chạy ra ngoài và thảy túi kẹo dẻo lên chiếc ghế xếp.
“Con lấy giúp chú hộp quẹt được không?” Gabe hỏi.
Con bé lại chạy như bay vào nhà.
“Tại sao anh lại cho rằng tôi nghĩ anh sẽ làm hại Ursa chỉ vì anh mắc chứng trầm cảm?” Jo hỏi.
Anh nhún vai. “Nhiều người không hiểu về bệnh tâm lý.”
“Hộp quẹt để đâu, cô Jo ơi?” Ursa hét toáng từ cửa sau.
“Ngăn kéo cạnh máy nướng bánh mì.”
“Con không thấy!”
“Vậy có nghĩa là thầy Shaw và mấy chú hôm nọ để nhầm chỗ rồi. Con chịu khó kiếm giúp cô nhé.” Cô quay lại với Gabe. “Điều trị có giúp anh đỡ không?” Cô hỏi thăm.
“Cứ bác sĩ nào tìm cách bắt tôi sử dụng thuốc tôi đều đánh bài chuồn hết.”
“Chuyện xảy ra từ khi nào thế?”
“Chừng vài năm trước. Khi ấy, tôi đang là sinh viên năm hai ở Đại học Chicago, trải qua một thời kỳ mà bố mẹ tôi đã đặt cho cái tên hay ho là ‘suy nhược thần kinh’. Kể từ đó, tôi chưa bao giờ gượng dậy được hoàn toàn.”
“Đại học Chicago? Nơi bố anh từng giảng dạy à?”
“Ừ, nghe thôi đã thấy tôi mang tiếng xấu cho gia đình, nhỉ? Và mọi ước mơ ông ấy dồn hết cho thằng con trai duy nhất đều thành công cốc hết.” Anh bẻ một cành cây bằng đầu gối và thảy chúng vào bếp lửa.
“Gabe, tôi rất tiếc.”
“Tại sao chứ? Đó đâu phải lỗi của ai. Chúng ta không có quyền được lựa chọn gen của mình mà.”
“Đúng là thế thật. Căn bệnh ung thư vú của tôi sinh ra là bởi đột biến gen BRCA [13] , nếu anh hiểu nó là gì.”
“Khốn thật, ừ, tôi hiểu.”
Ursa quay lại với chiếc bật lửa. “Cô biết họ cất ở đâu không? Trong ngăn kéo bàn làm việc của cô đấy.”
“Kỳ cục nhỉ?” Jo nhận xét. “Mong rằng đấy không phải là cách họ ngầm đánh giá bài nghiên cứu của cô.”
Gabe nhóm lửa và nhoẻn miệng cười. “Tôi hứa sẽ không xớ rớ lại gần đống tài liệu của cô.”
“Anh cứ liệu hồn,” Jo đáp.
Trong lúc Gabe nhóm củi trong lò, Ursa chạy lăng xăng kiếm que xiên kẹo dẻo.
“Tôi không nên khơi chuyện ung thư,” Jo nói. “Tôi không có ý xem những gì anh kể với tôi là tiểu tiết.”
“Cô cứ tùy nghi, xem nó là tiểu tiết cũng không sao mà, tôi ước gì nó đúng như vậy.”
“Trong mắt tôi, anh chẳng bao giờ lộ vẻ lo âu. Nhìn anh hòa nhã hơn rất nhiều người tôi biết.”
“Thế sao? Tôi đoán sạp trứng có tác dụng ra phết. Nhưng thử kéo tôi ra khỏi địa hạt này mà xem, khéo đất trời nổ tung đấy.”
“Đó là lý do anh ghét đến cửa hàng tạp hóa à?”
Gabe gật đầu. “Nếu phải xếp hàng quá lâu, nhiều khi tôi thà bỏ đi còn hơn.”
“Tại sao?”
“Đám đông như nghiền nát cõi lòng tôi. Cô chưa bao giờ cảm thấy điều đó à?”
“Tôi nghĩ là có, ở Walmart.”
“Đúng rồi! Nơi đó là tệ hại nhất!”
Ursa quay trở lại với một cái que và làm ba xiên kẹo dẻo.
“Tuyệt đấy,” Gabe nói. “Một cho chú, một cho cô Jo và một lại cho chú tiếp.”
“Tất cả là của con!” Ursa la oai oái.
Jo mơ màng ngủ trong lúc ngắm hai chú cháu nướng kẹo dẻo, lòng thầm nghĩ hai người bọn họ trông thật đáng yêu khi ở cạnh nhau. Cô tỉnh dậy khi cảm nhận những ngón tay của Gabe đang vuốt ve bờ má cô. “Có con muỗi đậu lên mặt cô,” anh khe khẽ nói.
“Chắc tôi làm mồi cho cả khu rừng rồi.”
“Không đâu. Tôi canh nãy giờ mà.”
Cô cố gắng vượt qua cơn ngái ngủ. “Canh tôi sao?”
“Canh cô.” Anh nhìn cô bằng ánh mắt dịu dàng như thể anh sắp sửa trao cho cô một nụ hôn, và adrenaline tăng lên sau giấc ngủ khiến cô có cảm giác thật lạ. Gần như là chếnh choáng. Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực, tựa hồ chỉ chực tìm cách xổ ra.
Cô ngồi dậy kiểm tra xem Ursa có chứng kiến cảnh anh chạm vào cô không. Con bé đang say sưa ngủ trên chiếc ghế xếp phía bên kia ngọn lửa, trên cằm vẫn còn dính kẹo dẻo.
Jo loạng choạng đứng dậy. “Đến lúc Ursa phải đi ngủ rồi. Con bé dậy sớm lắm.”
“Tôi biết,” anh nói, đứng dậy bên cạnh cô. “Tôi đã định đưa con bé vào trong nhà nhưng không biết nó ngủ ở đâu. Con bé ngủ trong giường của cô hay trên ghế sô pha?”
“Trên ghế sô pha.”
Anh bế Ursa lên khỏi ghế. “Chú Gabe?” Ursa lẩm bẩm.
“Cứ ngủ đi,” anh ôn tồn. “Để chú đưa con vào giường.”
Sau khi Gabe bế Ursa đi khuất vào trong ngôi nhà, Jo tưới nước để dập ngọn lửa.
“Cô cứ để đấy tôi làm cho,” Gabe nói vọng ra từ cửa bếp. Anh bước ra ngoài, nhận lấy ống nước từ tay cô và cuộn nó lại quanh vòi vặn.
“Kính viễn vọng đâu rồi?” Cô hỏi.
“Ban nãy tôi vừa mới cất rồi.”
“Tôi ngủ lâu chưa?”
“Khoảng mười lăm độ chuyển động sao [14] .” Anh đứng gần cô, khuôn mặt phản chiếu ánh đèn huỳnh quang ở bếp lò trong nhà. Cô thấy rõ mong muốn của anh. Anh muốn lên giường với cô.
Nhịp đập căng thẳng trong lồng ngực quay trở lại. Nguyên nhân là do hoóc-môn, một nhân tố gì đó liên quan đến cuộc phẫu thuật chăng? Tại sao việc một người đàn ông ngỏ ý với cô - một anh chàng tốt bụng và mặt mũi thanh tú, ít ra là thế - lại khiến cơ thể cô phản ứng như thể cô đang đối mặt với một con gấu gầm gừ lồng lộn?
Cô cố gắng nhớ lại cách mình ứng xử ra sao khi chàng trai cô có cảm tình tấn công cô vồ vập. Nếu là Jo của ngày xưa, cô có lẽ sẽ bông đùa một chút để khiến tình hình hạ nhiệt. Nét hài hước duyên dáng sẽ đến thật tự nhiên, bởi trước đây, cô tự tin và dạn dĩ. Và có khi cô sẽ thấy hơi rạo rực trước sự quan tâm ấy. Nhưng bây giờ, Jo tìm mãi mà chẳng thấy bản thân mình, chẳng thấy người phụ nữ rực rỡ như vầng dương ngày nào, và khi phát hiện con người ấy đã biến mất không chút tăm tích, cô run lẩy bẩy như thể phát sốt. Cô phải lấy tay ôm lấy cơ thể mình để cơn run ngừng lại.
Cô không rõ nỗi hoảng loạn của mình trông như thế nào dưới mắt Gabe. Cô chỉ biết là anh lùi lại, đôi mắt nhấp nháy dưới ánh đèn huỳnh quang, pha lẫn chút sợ hãi.
“Tôi nghĩ… anh nên đi đi,” cô nói.
Anh biến mất nhanh như gió, đến độ cô tưởng mình vừa mới nằm mơ thấy anh đang đứng trước mặt.