Chương 11
Jo đậu chiếc Honda dưới bóng cây sồi, ngay phía sau chiếc VW Bug màu đỏ của Tabby. Tabby bước ra khỏi xe trong đôi bốt Dr. Martens màu tím, mặc quần đùi jean rách cùng chiếc áo thun trường Đại học Illinois màu cam vốn là áo của Jo. Dù trên mũi Tabby vẫn còn đính khuyên thạch anh tím, mái tóc màu nâu điểm xuyết vài lọn xanh và tím, hiếm lắm Jo mới thấy bạn mình ăn mặc kín cổng cao tường như thế này. Cô gặp Tabby trên đường, ngay đoạn giữa hai chiếc xe và trao cho bạn mình một cái ôm.
“Nhìn bà tuyệt đấy, làn da rám nắng và các thứ,” Tabby nhận xét. “Nhưng quan trọng hơn, nhìn bà bình thường ra phết. Có khi cô chủ nhà sẽ muốn cho chúng mình thuê khi gặp bà đấy.”
“Đó là lý do bà mặc áo thun của tôi hả?”
“Tôi chỉ đang thể hiện tinh thần của trường mình thôi. Dù gì thì bố của cô chủ nhà ngày trước là giáo sư ở trường mình đấy.”
“Nhìn chẳng ăn rơ chút nào.”
“Đơn giản là vì bà biết tôi không phải tuýp người yêu trường yêu lớp thôi.” Tabby nhìn vào kính chắn gió của Jo. “Bà có để ý trong xe bà có một cô bé không thế?”
“Tôi biết chứ.”
Tabby nhìn chằm chằm Ursa. “Ôi trời đất ơi…” Cô quay sang Jo. “Đây có phải cô bé người đầy vết bầm tím mà không chịu về nhà không?”
“Phải. Mà bà khe khẽ thôi.”
“Tôi tưởng bà nói nó chạy trốn rồi?” Tabby thì thầm.
“Thì đấy, nó quay lại rồi.”
“Mà tại sao nó lại đi với bà?”
“Chuyện phức tạp lắm.”
“Nghĩa là sao?”
“Nghĩa là như những gì tôi nói.”
Tabby lại liếc nhìn Ursa. “Thế ở Vùng Đất Banjo người ta sống như vậy à? Nhặt trẻ em về nuôi là chuyện thường ngày ở huyện sao?”
“Đừng gọi nó như thế nữa. Vùng Đất Banjo nằm tít tận phía Nam Illinois.”
“Bà phải gọi cảnh sát chứ!” Tabby lầm bầm.
“Tôi kể với bà là tôi đã gọi mà! Nhưng con bé lại chuồn mất. Tôi đang cố tìm cách giải quyết đây.”
“Bà đã có đủ chuyện phải lo rồi!”
“Tôi biết, nhưng tôi không thể nhắm mắt làm ngơ được. Bà nhớ cư xử với con bé dịu dàng vào đấy.” Jo vòng qua trước xe và bước đến cánh cửa bên phía hành khách. Nếu là ngày thường, Ursa đã bước ra khỏi xe từ lâu, nhưng suốt buổi sáng hôm nay, con bé cứ trầm ngâm, có lẽ trông thấy căn nhà khiến nó lo sợ cho tương lai của mình. Jo mở cửa. “Ursa, đây là cô Tabby. Tabby, đây là Ursa, cô bé là bạn của tôi.”
“Ra đây nào, cô bé người thì nhỏ mà tên thì lớn,” Tabby nói, vươn tay vào trong xe và kéo Ursa ra ngoài. “Con may mắn lắm mới được đặt tên theo một chú gấu đấy!”
“Con biết mà,” Ursa trả lời. “Còn cô thì may mắn khi được đặt theo tên một con mèo [15] . Chú Gabe có một con mèo mướp, con gọi nó là Caesar.”
“Nghe tuyệt nhỉ, nhưng thật ra tên cô không được lấy từ mèo đâu. Bà mẹ đầu óc chẳng giống ai của cô đặt tên cô theo một nhân vật phù thủy trong phim truyền hình đấy.”
“Thật ạ?”
“Thật chứ, và đó chính là lý do nếu có người gọi tên cúng cơm của cô,” - Tabby cúi người xuống và thì thầm cái tên “Tabitha” vào tai con bé - “Cô sẽ đấm hắn một cú ngay mũi.”
Ursa mỉm cười, nụ cười đầu tiên trong ngày.
“Cô ấy nói thật đấy,” Jo nói. Cô ngắm nghía căn nhà, tự nhủ nó vẫn lộng lẫy như thuở nào. “Bao nhiêu? Bà chưa nói với tôi.”
“Tiền thuê nhà chỉ hơi nhỉnh hơn căn chung cư mình đang ở một chút thôi,” Tabby vòng vo tam quốc, “nhất là khi chúng mình không phải mua nội thất. Nhưng cô chủ nhà ấy muốn cho thuê ngay vì cô ấy sắp phải đi rồi.”
“Bây giờ sao? Vậy thì tụi mình phải trả tiền cho cả hai nơi đến tận tháng Tám à?”
Tabby quỳ xuống bên vệ đường và chắp tay cầu xin trước mặt Jo. “Tôi xin bà, tôi năn nỉ bà, bà hãy dùng một phần số tiền tuyệt vời mà bà thừa kế được để giúp tụi mình có căn nhà này đi. Tôi van xin nài nỉ bà đấy!”
Có lẽ trước giờ Ursa chưa từng thấy người lớn nào hành xử buồn cười như thế, nên con bé khoái chí ra mặt. Má trái của nó lúng liếng lúm đồng tiền với nụ cười rộng đến tận mang tai.
“Bà khùng quá, đứng lên đi!” Jo nói.
“Tôi năn nỉ bà mà!”
“Để tôi xem qua nhà một lượt và nói chuyện với chủ nhà đã.”
Taby bật dậy như lò xo. “Nó là căn nhà mơ ước của chúng mình! Ngày xưa, mỗi lần chạy bộ ngang qua, bọn mình lại xuýt xoa ước được sống ở căn nhà này đấy thôi. Bà nhớ chứ?”
Jo đi đến trước căn nhà nhỏ và nhìn lên lối dẫn vào nhà với cơ man nào là diên vĩ. “Bà thử tưởng tượng cảnh hai đứa chúng mình cùng nhâm nhi ly rượu và ngẫm nghĩ về những điều kỳ diệu trong vũ trụ trên cái xích đu kia mà xem,” Tabby mơ màng.
“Lúc ấy chúng mình còn tiền mà mua rượu không kia chứ?” Jo đá xéo.
“Thì mình cứ đặt thứ tự ưu tiên phù hợp lúc lên danh sách nhu yếu phẩm là được.”
Frances Ivey, chủ của căn nhà diên vĩ, một nhà vật lý trị liệu đã nghỉ hưu, đón họ ở cửa. Bà liếc ánh nhìn mệt mỏi về phía Ursa. “Cô bé kia là ai thế?” Bà hỏi.
“Hôm nay Jo trông cô bé ấy,” Tabby đáp.
“Tốt,” bà Ivey căn dặn. “Không con nít. Không chó. Không hút thuốc.”
“Nhưng mèo thì không sao,” Tabby nói thêm. “Cô Ivey nuôi hai con.”
Ursa ngồi xuống nựng con mèo tam thể lờn vờn dưới chân.
“Cô mong là hai cháu không bị dị ứng với mèo chứ?” Bà Ivey hỏi.
“Sinh viên thú y mà thế thì đi tong luôn cô ạ,” Tabby đáp.
“Đúng thật,” bà Ivey đồng tình với một nụ cười khẽ nở trên môi. “Tất nhiên là cô sẽ mang theo đám mèo về Maine.” Bà đóng cánh cửa chính lại. “Tabby kể với cô là cháu đang nghiên cứu luận án tiến sĩ ở Rừng Shawnee,” bà bắt chuyện với Jo. “Và cháu nghiên cứu chim phải không?”
“Dạ, cháu nghiên cứu sinh thái và bảo tồn các loài chim.”
“Cô rất thích chim. Cô để vài máng đựng thức ăn ở sau nhà. Nếu cháu quyết định thuê, cô sẽ rất cảm kích nếu cháu chăm đổ đầy đồ ăn vào đấy. Đàn chim quen được cô cho ăn suốt bao năm nay rồi.”
“Cháu cũng thích được cho chúng ăn ạ. Có chim chóc để ngắm thì quá tuyệt so với việc trước giờ bọn cháu chỉ ở chung cư.”
Bà Ivey dắt Jo đi tham quan một vòng quanh nhà. Đi hết cầu thang gỗ có tay vịn là ba phòng ngủ, một phòng nhỏ và hai phòng bé hơn, một nhà vệ sinh chung lát gạch kiểu cổ điển và bồn tắm có chân. Phòng khách nằm ở tầng dưới, lò sưởi vẫn còn hoạt động với bề mặt làm bằng gỗ sồi cũ nhưng rất đẹp. Bên cạnh là phòng ăn đã được tân trang thành phòng đọc sách, và nhà bếp với bộ bàn ghế con con. Nhà vệ sinh dưới lầu cũng mang nét đẹp cổ xưa như nhà tắm trên tầng. Thảm trải sàn và đồ dùng khá đơn giản, càng làm nổi bật nét duyên dáng của thế kỷ XIX trong những bộ đồ nội thất được chạm khắc bằng gỗ, sàn nhà bằng gỗ sồi bóng loáng và cửa sổ kính màu.
Phía bên kia cánh cửa nhà bếp kiểu Pháp là mái hiên được lợp bằng gỗ, nhìn ra khoảng sân ở phía sau và khu vườn điểm xuyết những luống hoa theo phong cách đồng quê, dàn cây hoa hạnh phúc, các bụi liên kiều và đỗ quyên. Cây bạch dương lớn phủ bóng xuống phía Tây của khu vườn, băng ghế được bao phủ bởi dương xỉ và hoa mã đề, cùng hoa lạc tân phụ đương độ mãn khai. Con chim hồng tước hót líu lo gần lồng chim và máng ăn.
“Cháu rất thích vẻ đẹp tự nhiên của khu vườn này,” Jo cảm thán.
“Cảm ơn cháu,” bà Ivey đáp. “Cháu có biết cách chăm hoa không?”
“Dạ có. Mẹ cháu có vườn hoa khá rộng.”
“Cháu không lớn lên với vườn tược nhưng cháu rất thích hoa,” Tabby trả lời. “Đó là lý do nhà cô luôn là một trong những địa điểm ưa thích nhất của chúng cháu mỗi khi chạy bộ.”
“Mình vào nhà bàn bạc xem hợp đồng thuê nhà thế nào nhé,” bà Ivey đề nghị.
“Cô sẽ cho chúng cháu thuê ạ?” Tabby hỏi.
“Nếu cả hai cháu đồng ý với các điều khoản.”
“Chúng cháu sẽ đồng ý tất tần tật,” Tabby hào hứng. “Thậm chí, cháu sẵn sàng trao luôn cho cô đứa con đầu lòng của mình.”
Bà Ivey mỉm cười. “Cô rất vui khi thấy cháu thích căn nhà đến vậy.”
Người phụ nữ luống tuổi mời hai cô gái dùng trà đá trong lúc bàn về hợp đồng thuê nhà ở phòng khách. Bà Ivey dẫn Ursa vào phòng bếp, cho cô bé uống sữa và ăn bánh quy. Bà thậm chí còn đưa cho cô bé màu sáp và giấy, tuy có thể hơi trẻ con so với tính cách của Ursa, nhưng cô bé vẫn ngoan ngoãn ngồi vẽ tranh trong lúc người lớn bàn chuyện trong một căn phòng khác.
Chẳng mấy chốc, cả ba người phát hiện hóa ra họ rất tâm đầu ý hợp, không chỉ về hoa cỏ, chim chóc và mèo, bà Ivey cởi mở bảo hai cô gái gọi mình là Frances. Cuối cùng, bà cũng trải lòng kể với họ lý do tại sao bà lại rời bỏ ngôi nhà yêu quý của mình. Bà từng có mối quan hệ tình cảm với một người phụ nữ tên Nancy, nhưng họ đã không còn sống chung với nhau kể từ khi chia tay hai năm trước. Bây giờ, bà Nancy gặp phải một tai nạn giao thông nghiêm trọng nhưng lại không có ai chăm nom. Một tay và một bên chân bà gãy nát, bàn chân còn lại phải cắt cụt. Đó là lý do bà Frances cần phải khăn gói lên đường ngay lập tức. Bà sẽ ở Maine ít nhất một năm để hợp đồng thuê nhà được đơn giản.
Dù tiền thuê nhà khá cao và Jo không ưng ý với việc phải trả tiền cho cả hai căn nhà đến tận tháng Tám, nhưng cô vẫn ký hợp đồng và trả phần tiền Tabby còn thiếu hụt. Đúng như lời Tabby nói, tại sao cô không dùng một phần tiền cô được thừa kế kia chứ? Hẳn mẹ cô mà còn sống, bà cũng sẽ thích mê căn nhà này. Mỗi lần ngồi trong sân vườn, Jo sẽ có cảm giác mình được kết nối với bà.
Tabby muốn ra ngoài ăn pizza để ăn mừng việc họ ký được hợp đồng thuê nhà. Jo chạy theo xe của Tabby đến nhà hàng. Trong lúc đậu xe ở khoảng trống bên cạnh xe của Tabby thì Jo nhìn thấy cô bạn leo ra khỏi chiếc VW, lột áo thun giữa bãi đậu xe đông đúc.
“Bà có thấy như vậy hơi khoe mẽ không?” Jo nói.
“Ai quan tâm kia chứ?” Tabby đáp. “Không đời nào tôi lại để thiên hạ thấy mình mặc chiếc áo gớm ghiếc kia.”
“Ờ, nói hay ghê.”
“Khiếp, bà làm như bà chất chứa nhiều kỷ niệm với cái áo này lắm không bằng.” Lúc này, Tabby mặc chiếc áo thun có hình lưỡi Rolling Stones bên ngoài áo ngực ren màu đen.
Lúm đồng tiền của Ursa hấp háy nụ cười. Con bé mang màu sáp mà bà Frances tặng vào nhà hàng để hoàn thành nốt bức tranh. Họ gọi pizza theo miếng, Tabby gọi bia. Jo uống nước suối và cho phép Ursa uống Sprite. Khi đồ ăn được mang ra, Tabby nâng bia để cả bọn uống mừng. “Uống vì căn nhà tuyệt nhất quả đất của chúng ta!” Jo và Ursa nâng ly lên cụng. “Bà có thấy điều này xảy ra là do định mệnh không?” Tabby nhận xét. “Ý tôi là, thật kỳ lạ hết sức, bọn mình thích mê căn nhà ấy và giờ sắp được ở đó rồi!”
“Là con khiến cho nó xảy ra đấy,” Ursa trả lời gọn lỏn.
“Con làm thế nào hay vậy?” Tabby hỏi.
“Con đến từ hành tinh khác. Người dân chỗ con có thể khiến những điều tốt đẹp xảy ra.”
“Thật à?” Tabby hỏi.
“Con bé hay đùa nghịch ấy mà,” Jo đáp.
“Con không đùa,” Ursa phản bác. “Bằng chứng chính là ngôi nhà đó.”
“Làm thế nào mà người dân chỗ con có thể khiến những điều tốt đẹp xảy ra?” Tabby thắc mắc.
“Khó giải thích lắm ạ,” Ursa phân trần. “Khi bọn con tìm thấy những người Địa Cầu mà bọn con yêu quý, những điều tốt đẹp sẽ tự nhiên xảy đến với họ. Đó là cách mà bọn con trả ơn vì họ đã đối xử tốt với bọn con.”
“Song như vậy có nghĩa là con làm cô Nancy gặp tai nạn xe hơi?” Tabby nói.
“Con không hề muốn vậy,” Ursa trả lời. “Nhưng đôi khi phải có điều xấu xảy ra thì điều tốt đẹp mới có dịp phát lộ.”
“Con biết cô mong điều gì xảy ra không?” Tabby nói. “Cô mong cô Nancy sẽ nhận ra mình vẫn yêu cô Frances, vì rõ ràng cô Frances còn yêu cô ấy như điên như dại.”
“Điều đó có thể sẽ xảy ra - vì con rất thích bác Frances,” Ursa đáp. “Mà bác Frances và bác Nancy là những người đồng tính nữ phải không ạ?”
Tabby nhoẻn miệng cười. “Phải, hai người bọn họ là người đồng tính nữ. Con có thấy ổn với chuyện đó không?”
“Con ủng hộ quyền người đồng tính mà,” Ursa thủng thẳng.
“Ồ,” Tabby quay sang nói với Jo, “và con bé này đến từ Vùng Đất Banjo đấy nhé.”
“Con đến từ Hetrayeh ạ,” Ursa sửa lời.
“Đó là hành tinh của con à?” Tabby hỏi.
Ursa gật đầu. “Nó nằm trong Tổ Chim Vô Tận.”
“Thôi, dù nó là gì thì cũng không quan trọng,” Tabby nói. “Làm thế nào mà con biết về quyền của người đồng tính nếu con là người ngoài hành tinh?”
“Con thấy trên Internet ở nhà của chú Gabe. Con phải học về Trái Đất, nôm na là để lấy bằng tiến sĩ ạ.”
“Nghe có vẻ tuyệt đấy,” Tabby nhận xét. “Thế cái chú Gabe mà con nhắc đến là ai thế?”
“Anh ấy là chủ khu đất cạnh căn nhà tôi thuê,” Jo giải thích.
“Đây là chú Gabe ạ,” Ursa nói, đẩy tờ giấy để bên dưới bức vẽ ngôi nhà.
Tabby săm soi bức tranh bằng màu sáp vẽ một người đàn ông râu ria với đôi mắt xanh. “Con vẽ đẹp đấy, Ursa. Thế con bao nhiêu tuổi rồi?”
“Người Địa Cầu không hiểu tuổi của con đâu ạ,” con bé đáp.
Tabby nhìn Jo. Cô chỉ biết nhún vai.
Sau khi cả ba ăn xong, Tabby lại uống thêm một ly bia, đoạn hai người thảo luận về thời gian khi nào sẽ dọn về nhà mới. Ursa vẽ thêm một bức tranh vẽ mặt tiền nhà bà Frances Ivey. Khi con bé đi vệ sinh, Tabby nhanh chóng hỏi, “Kể thêm về đứa bé cho tôi nghe đi.”
“Tôi cũng chỉ biết như bà mà thôi.”
“Bà có biết nó sống ở đâu không?”
“Tôi chịu.” Jo quan sát Ursa bước vào nhà vệ sinh nằm ở phía bên kia nhà hàng. “Và chưa có ai báo cáo con bé bị mất tích cả. Gần như hôm nào tôi cũng kiểm tra Internet đấy.”
Tabby nhoài người qua bàn và hạ giọng thì thầm. “Lý ra bà không nên đưa nó theo. Lỡ có chuyện gì xảy ra với nó trong lúc nó đi với bà thì sao?”
“Tôi không muốn để nó ở nhà một mình cả ngày.”
“Bà có thể vướng vào cả mớ rắc rối đấy, Jo à.”
“Chứ bà nghĩ tôi không biết tình hình bây giờ đang rối như mớ bòng bong à? Nhưng tôi chẳng còn biết phải làm gì ngoài việc trói gô nó lại và kéo con bé đến chỗ cảnh sát trưởng. Để rồi nó lại trở về với đám người hành hạ nó.”
“Khốn thật!”
“Tôi mong là trời đất run rủi thế nào đấy mà mọi sự thuận buồm xuôi gió.”
Tabby nuốt một ngụm bia. “Nó có… bình thường không? Bà nghĩ sao?”
“Sau những gì con bé phải chịu đựng thì quá là bình thường.”
“Nhưng nó thật sự tưởng nó là người ngoài hành tinh à?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
Tabby nhấc tờ giấy Ursa vẽ căn nhà lên. “Tấm hình này lạ quá.”
“Lạ chỗ nào?”
“Bà nhìn cách con bé vẽ chiều sâu và phương hướng trong bức tranh này đi. Nó chỉ được nhìn bên ngoài căn nhà trong vài phút thôi nhưng đã nắm bắt được mọi chi tiết. Thậm chí, con bé còn nhớ cả thiết kế của lớp cửa kính màu ngay phía trên cửa sổ phía trước.”
“Con bé sáng dạ lắm.”
“Mà sao Gabe lại dính dáng vào chuyện này vậy?”
“Con bé thích qua nông trại của anh ấy chơi.”
“Anh ta không thấy có vấn đề gì hả?”
“Ở đấy người ta xem việc cả làng cùng nuôi dạy con trẻ là chuyện bình thường.”
“Mà bà có biết rõ anh ta không? Bà chắc nhân vật ấy không có gì đáng ngờ chứ?”
“Tôi thấy anh ta cũng ổn.”
“Cũng?”
“Bố anh ta dạy Văn ở Đại học Chicago. Anh ta cũng từng theo học ở đấy một thời gian.”
“Nhỡ đâu anh ta là kẻ lòng lang dạ sói thì sao?”
“Nếu có, Ursa sẽ nói với tôi.”
“Từ khi nào mà Vùng Đất Banjo trở thành nơi các giáo sư văn học cư ngụ vậy?”
“Từ lúc bà trở nên vơ đũa cả nắm như vậy đấy.”
“Tôi có vơ đũa cả nắm gì đâu!”
“Nếu bà nghĩ ai sống ở miền quê nước Mỹ đều là những kẻ nửa mùa thì bà quá sức vơ đũa cả nắm.”
“Ờ rồi, thì không phải tất cả đều vậy.” Tabby cầm bức tranh vẽ Gabe lên. “Anh chàng này thì có thể không như vậy, dù có khi anh ta dùng bộ râu của mình để lau sạch chiếc đĩa sau khi ăn cháo bắp.”
“Anh ta đọc Shakespeare đấy.”
“Bà đùa à?”
“Tất cả đám mèo con trong nông trại nhà anh ta đều được đặt tên theo nhân vật trong các tác phẩm của Shakespeare.”
Tabby phá lên cười ngặt nghẽo.
“Thật hả trời?”
Cô cười ha hả, đưa tay chùi nước mắt.
Ursa ba chân bốn cẳng chạy lại bàn. “Có chuyện gì mà vui thế ạ?”
“Shakespeare,” Tabby nói.
“Cũng hiếm lắm ạ,” Ursa đáp. “Phần lớn các nhân vật trong các tác phẩm của ông ấy đều bạc phận.”
“Ôi trời ơi!” Tabby cảm thán. “Đến cả cô bé này cũng đọc Shakepeare à? Tôi xin rút lại tất cả những gì đã nói về Vùng Đất Banjo nhé!”
“Vùng Đất Banjo là gì ạ?” Ursa thắc mắc.
“Là nơi thu hoạch những đôi giày màu tím.” Tabby chìa đôi bốt màu tím mình đang mang từ dưới gầm bàn ra và sóng đôi cùng với đôi giày thể thao cũng màu tím của Ursa. “Cô cháu mình cùng chung sở thích về màu giày dép đấy.”
“Màu tím là màu ưa thích của con ạ,” Ursa nói.
“Cô cũng thấy thế,” Tabby gật gù nhìn chiếc áo thun tím in hình cún con và chiếc quần đùi cũng màu tím của con bé. Đoạn cô quay sang nhìn Jo. “Con bé phải nghe thứ đó.”
“Không được,” Jo phản đối.
“Nghe gì ạ?” Ursa hỏi.
“Cháu thấy món đồ đằng kia không, cô bé ngoài hành tinh?” Tabby đưa tay chỉ.
“Món đồ nào ạ?” Ursa tò mò.
“Chiếc máy lấp lánh đèn màu kia kìa.”
“Có vấn đề gì với nó thế ạ?” Ursa hỏi.
“Nó được gọi là máy hát bỏ tiền xu, chơi đủ mọi thể loại nhạc từ cổ chí kim, thậm chí phiên bản đời đầu của bài ‘Đi Bộ Như Người Ai Cập’ [16] cũng có.”
Ursa chăm chú dán mắt vào chiếc máy hát.
“Bài hát tuyệt vời nhất từng được sáng tác nằm trong cái máy này đấy,” Tabby tiếp tục quảng cáo.
“Bà thôi giùm tôi đi,” Jo chán nản.
“Bài gì thế ạ?” Ursa hỏi.
“‘Kẻ Ăn Thịt Người Màu Tím’ [17] . Con từng nghe bài đó chưa?”
“Con chưa nghe ạ,” Ursa thành thật.
“Nội dung bài hát viết về người ngoài hành tinh,” Tabby giải thích.
“Thật ạ?”
“Thật đấy,” Tabby nói, lục lọi trong túi tiền.
“Đang bữa trưa mà,” Jo cản.
“Thì sao chứ?”
“Chỉ có đám bợm nhậu say xỉn mới thấy việc này vui thôi.”
“Phải vui thì đời mới sinh động được.” Tabby dắt tay Ursa, dẫn con bé đến chỗ máy hát. Sau khi giải thích cách thức chiếc máy hoạt động, cô để Ursa bỏ tiền xu vào máy hát và chọn bài. Khi bài hát chẳng giống ai vang lên, Tabby ông ổng hát theo và nhảy múa trước mặt mọi người. Cô ấy có thói quen này từ lúc phát hiện ra bài hát này vào năm hai đại học, nhưng thường thì cô chỉ nhảy khi trong máu đã có hai chai bia. Các thực khách cười ồ khi Tabby nắm tay Ursa và chỉ con bé cách nhảy nhót theo điệu nhạc. “Nhìn người ngoài hành tinh nhảy này!” Cô gọi Jo thật to. “Jojo, qua đây nào!”
“Cô lại đây nhảy với bọn con đi!” Ursa hét toáng lên.
Mọi người nhìn Jo với nụ cười đầy mong đợi trên khuôn mặt, khiến việc cô cứ đóng đô trên chiếc ghế còn đáng xấu hổ hơn cả việc bước ra nhảy. Cô nắm lấy tay Tabby và cố lắc lư ra vẻ mình đang nhảy. Ursa cũng chẳng biết phải nhảy như thế nào, nhưng con bé chẳng buồn để tâm. Nó cười giòn tan, nhảy tới nhảy lui và đánh vai nhịp nhàng. Lần đầu tiên Jo thấy con bé tràn trề sức sống đến thế, tựa hồ ánh sao đang phát ra từ tâm hồn Hetrayeh của nó.