Chương 12
Lúc hai cô cháu chuẩn bị trở về phía Nam Illinois, Ursa lấy ra tờ giấy thứ ba, đồng thời là tờ giấy cuối cùng, để vẽ chân dung Tabby. Đã một tiếng trôi qua mà con bé vẫn chưa hoàn thành xong bức tranh ấy.
“Làm sao con có thể vẽ trong lúc xe chạy mà không bị say nhỉ?” Jo hỏi.
“Con đã quen làm mọi thứ với tốc độ các vì sao rồi cô ạ,” Ursa thủng thẳng.
“Ý con là tốc độ ánh sáng à?”
“Bọn con gọi đó là tốc độ các vì sao. Nó khác với tốc độ ánh sáng ạ.”
“Con thích vẽ tranh lắm đúng không?”
“Vâng.”
“Vậy để cô kiếm cho con bút chì màu nhé. Đường nét của sáp màu hơi to nên khó mà vẽ chi tiết lắm.”
“Con cũng thấy thế,” Ursa đáp. “Con vẽ viên đá khuyên mũi màu tím của cô ấy hơi to rồi.”
“Nghệ thuật đại diện cho góc nhìn của con về thế giới, chứ không phải thứ sao chép nguyên mẫu mà.”
“Con ước gì con có thể sao chép nguyên mẫu cô Tabby.”
“Sao lại thế?”
“Để con luôn có cô ấy bên cạnh.”
“Cô hiểu cảm giác ấy. Tabby là người có tâm hồn phóng khoáng nhất mà cô từng gặp đấy. Ngay cả khoảng thời gian cô bị bệnh, cô ấy còn làm cô cười lăn cười bò kia mà.”
“Con vẽ xong rồi!” Ursa nhoài người qua ghế, đưa bức tranh cho cho Jo xem.
Jo liếc nhìn bức tranh trong lúc lái xe. “Bức vẽ đẹp quá! Nhìn y chang cô Tabby vậy.”
“Cô Tabby là điều kỳ diệu thứ ba của con.”
“Thật ư? Tabby sánh ngang với cả chim con và mèo con cơ à?”
“Cô ấy vô tư như trẻ con ạ. Cô ấy không biết mình phải trưởng thành hơn, và chính điều đó khiến cô ấy trông vui tươi hơn rất nhiều so với những người lớn khác.”
“Con đánh giá nhanh nhạy đấy.”
Ursa nhìn ngã rẽ trước mặt. “Sao cô bỗng dưng lái chậm lại vậy ạ?”
“Cô cần đổ xăng.”
Con bé quay đầu nhìn bốn phương tám hướng. “Khoan đã… Đây là đâu vậy ạ?”
“Một thành phố mang tên Effingham. Cô hay dừng lại ở đây. Chỗ này có một trạm xăng khá rẻ.”
“Con không muốn dừng ở đây.”
“Nhưng xe hết xăng rồi. Cô buộc phải đổ.”
“Cô không đi chỗ khác được ạ?”
“Sao thế?”
“Con không thích chỗ này.”
Jo nhìn qua gương chiếu hậu. “Con đến đây bao giờ chưa?”
Ursa lặng thinh.
“Con đến đây bao giờ chưa?” Jo lặp lại.
“Con bảo là con không thích thành phố này vì nó xấu xí.”
“Có lẽ thành phố này xấu thật, nhưng mình chỉ ghé chừng mười phút thôi mà. Con tranh thủ dùng nhà vệ sinh đi. Cũng sạch sẽ lắm.”
“Con không buồn đi vệ sinh.”
“Con đã uống hai lon Sprite đấy.”
Ursa co người nằm xuống ghế. “Con ngủ đây.”
Jo đổ xăng và sau đó dùng nhà vệ sinh. Cô cũng mua hai thanh Necco, một loại kẹo hiếm hoi lắm cô mới thấy bán trong cửa hàng. Đây mới là lý do chính yếu cho việc cô dừng ở trạm xăng này.
Khi quay lại chiếc xe đã khóa, Jo tưởng Ursa vẫn còn say ngủ, nhưng khi chạy xe ra cao tốc được vài cây số thì con bé bỗng ngồi bật dậy. “Con muốn ăn Necco không?” Jo hỏi.
“Đó là gì ạ?”
“Một loại kẹo khoái khẩu của cô.” Cô đưa thanh kẹo đã bóc vỏ cho Ursa.
“Con ăn viên màu tím được không ạ?”
“Còn mấy viên?”
“Còn ba viên ạ.”
“Con cứ ăn hết đi, nhưng nếu con đang trông đợi viên màu tím có vị nho thì không phải đâu. Nó có vị đinh hương nên nhiều người không hợp.”
Ursa nhấm nháp thử viên kẹo màu tím rồi bỏ lên lưỡi. “Con thích vị này!”
Sau khi ăn hết nửa thanh kẹo Necco, cô bé nói mình muốn đi vệ sinh.
“Sao lúc ở Effingham con không đi?”
“Lúc đó con không buồn.”
Jo dừng ở Salem và dẫn cô bé vào nhà vệ sinh. Sau đó, hai cô cháu một mạch về đến Đường Turkey Creek mà không phải dừng trên đường để giải quyết nhu cầu thêm một lần nào nữa. Bon bon trên đường về nhà, Ursa đòi gặp đám mèo con. Sáng hôm đó, họ cũng tạt qua để báo với Gabe việc hai cô cháu lên đường đi Urbana, nhưng khi thấy chiếc SUV màu bạc đỗ trước nhà, Jo quyết định không làm phiền anh và mẹ anh trong lúc họ đang bận rộn tiếp khách.
Khi xe chạy gần đến đất nhà Nash, Ursa năn nỉ cô dừng xe. Lúc đó đang là bảy giờ mười phút tối, vẫn còn sớm để có thể ghé qua, mà đằng nào Jo cũng muốn chắc chắn rằng Gabe không hiểu lầm những gì xảy ra giữa hai người họ đêm hôm nọ. Nhưng chiếc SUV bạc vẫn đậu cuối con đường lởm chởm ổ gà. “Chắc mình về thôi con ạ,” Jo nói.
“Chú Gabe không để bụng đâu mà cô.” Trước khi Jo kịp ngăn lại, Ursa đã phóng ra khỏi cửa. Một người phụ nữ với túm tóc đuôi gà lấm tấm bạc bước ra cửa chính. Bà trạc tuổi tứ tuần, đường nét đô con và khá mập mạp, song tướng người to cao và áp đảo khiến người bà tuy quá khổ nhưng trông đầy quyền uy. Tuy nhiên, có lẽ chính đôi mắt xanh lạnh như tiền của bà là nguyên nhân khiến Ursa dè dặt bước xuống bậc thang và quay lại nắm lấy tay Jo. Người phụ nữ có vẻ tức giận với họ, dù Jo chẳng nghĩ ra lý do là gì.
“Bọn em ghé qua để gặp Gabe,” Jo lên tiếng. “Em là Joanna Teale, còn đây là Ursa. Em là người thuê miếng đất bên cạnh.”
“Tôi biết cô là ai,” người phụ nữ ngắt lời khi Jo chưa kịp nói hết câu.
“Chú Gabe đâu rồi ạ?” Ursa nôn nóng hỏi.
“Chú ấy không khỏe.”
“Chú ấy ốm ạ?” Ursa hỏi.
Người phụ nữ khó chịu ra mặt.
“Cháu gặp chú ấy được không ạ?” Ursa đề nghị.
“Không được.”
“Mà bác là ai vậy ạ?” Ursa tò mò.
Jo cũng đang nhủ thầm câu tương tự trong đầu: Chị nghĩ chị là ai vậy chứ?
“Tôi là chị của Gabriel.”
Jo không mảy may nghĩ đến điều đó. Nhìn người phụ nữ đó không có nét gì giống anh.
“Cháu vào thăm đám mèo con được không ạ?” Ursa hỏi.
“Tôi nghĩ tốt nhất hai người nên về đi,” người phụ nữ nói.
“Gabe ốm ra sao vậy chị? Có nghiêm trọng lắm không?” Jo hỏi.
Người phụ nữ không buồn nghe mà rảo bước vào nhà. “Tôi sẽ chuyển lời với Gabe rằng hai người đã ghé qua.” Nói đến đấy, cánh cửa đóng sập lại.
“Bác ấy xấu tính thật,” Ursa nhận xét khi hai cô cháu bước vào xe.
Hoặc có khi họ tưởng chị gái của Gabe xấu tính song thật ra chỉ là chị ấy đang rối trí. Không chừng chị ấy buồn bực vì bệnh tình của anh cũng nên.
Jo đưa Ursa đi thực địa cùng mình vào ngày hôm sau. Trời nóng như thiêu như đốt và hầu hết các công việc đều phải làm trên đường, nhưng Ursa không than thở lấy một lời. Con bé tìm được một tổ chim mới với hai quả trứng chim hồng y giáo chủ bên trong. Jo đùa rằng khéo cô phải trả lương cho trợ lý thực địa của mình.
Sau khi kiểm tra xong tổ chim trên Đường Turkey Creek, Jo lái xe vào phần đất nhà Nash rồi đậu bên cạnh chiếc SUV bạc. Cô và Ursa gõ cửa, rồi lại gõ to hơn khi không thấy ai ra mở. Mãi sau, mẹ của Gabe mới chậm rãi mở cánh cửa gỗ ra, một tay bà nắm gậy bốn chân.
“Chúng cháu ghé thăm Gabe ạ,” Jo nói vọng qua cánh cửa chắn ngoài hiên.
“Lacey có nói với bác tối qua cháu cũng ghé.”
Lacey hẳn là chị gái của Gabe, cái tên đầy nữ tính ấy hoàn toàn không ăn nhập gì với vẻ ngoài bặm trợn kia.
“Anh ấy thế nào rồi ạ?” Jo hỏi thăm.
“Không khỏe lắm,” bà Katherine đáp.
“Cháu rất tiếc khi nghe bác nói vậy. Hai chúng cháu vào thăm được không ạ? Chỉ vài phút thôi?”
“Nó không muốn đâu,” bà từ chối.
“Bác hỏi anh ấy thử xem ạ? Có khi chúng cháu lại có thể giúp anh ấy vui vẻ hơn.”
“Bác không nghĩ các cháu làm vậy được đâu,” bà trả lời thẳng thừng. “Bác rất tiếc.”
Jo và Ursa đứng nhìn bà đóng sập cánh cửa với đôi tay run lập cập. Lacey xuất hiện từ con đường dẫn ra nông trại, mặc bộ đồ lao động lấm lem bùn đất và đôi bốt nhoe nhoét phân. Có lẽ chị ấy đang làm công việc thường ngày thay Gabe.
“Hai người cần gì à?” Lacey cục cằn lên tiếng.
“Bọn em mong được gặp Gabe,” Jo trả lời.
“Mẹ tôi có ra mở cửa không?”
“Có, em vừa nói chuyện với bác.”
“Khốn thật,” bà lầm bầm.
“Em xin lỗi. Nếu biết chị đang ở ngoài làm việc, bọn em đã…”
“Tốt nhất các người đừng đến đây. Tôi có đủ chuyện cứt đái phải lo rồi, và tôi đang nói theo nghĩa đen đấy.” Bà đi thẳng một mạch đến nông trại.
Jo định phản pháo lại gì đó, nhưng những lời cô muốn nói đều có vẻ quá gai góc. Cô bèn quay trở vào xe với Ursa.
“Sao họ không cho mình gặp chú Gabe nhỉ?” Ursa thắc mắc.
“Cô không biết. Chuyện này kỳ cục thật đấy.” Trên đường lái xe về Nhà Kinney, Jo không tài nào gạt bỏ được những suy nghĩ đáng sợ ra khỏi đầu mình. Nhỡ đâu Gabe lại bị suy nhược thần kinh thì sao? Hoặc tệ hơn, cô lo lắng chính cách cô đối xử đầy khiên cưỡng với anh đêm hôm đó là yếu tố châm ngòi.
Ngày hôm sau, trong lúc hai cô cháu kiểm tra các tổ chim, Jo lên tinh thần và tự nhủ đêm nay cô phải cương quyết với Lacey hơn. Họ hoàn thành công việc thực địa sớm hơn chút đỉnh và về đến khu đất nhà Nash tầm một tiếng trước lúc hoàng hôn. “Lần này mình sẽ không chấp nhận lời từ chối nhé?” Jo nói với Ursa.
“Dạ phải,” Ursa đồng tình.
Ursa gõ cửa căn nhà gỗ. Người mở cửa là Lacey, đang chùi tay lên chiếc khăn lau đĩa. “Hai người không biết đâu là điểm dừng thì phải?”
“Gabe là bạn bọn em và hai cô cháu đều rất lo lắng cho tình hình của anh ấy,” Jo giải thích.
“Nó sẽ là bạn của cô bao lâu khi hết mùa hè này cô sẽ rời khỏi đây?”
Jo ngây ra như phỗng vì sốc. Cô ước giá mà mình đã ú ớ thêm được đôi ba câu đáp lại khi Lacey đế thêm, “Cô làm ơn làm phước cho nó bằng cách quên nó ngay và luôn đi.” Nói đoạn, chị gái của Gabe đóng sầm cửa lại.
Rõ ràng, chị ta lầm tưởng Jo và Gabe đang quen nhau. Chưa hết, chị ta còn rút ra kết luận rằng Jo sẽ sớm dứt áo ra đi. Jo đoán Gabe không phải là người gieo vào đầu chị ta những suy nghĩ ấy, điều này có nghĩa Lacey đã đi quá giới hạn máu mủ ruột rà trong nhà. Jo từng nghe nói đến dạng chị gái kiểm soát - một tuýp người căm ghét đối tượng hẹn hò của em trai mình - nhưng thế này thì hết sức quá quắt. Lacey đang cố gắng phá bĩnh một mối quan hệ thậm chí còn chưa kịp bắt đầu.
Đến tận lúc quay trở lại xe, Jo không hề để ý Ursa vẫn còn đứng ở trên hiên. “Ursa, đi thôi.” Cô gọi với ra ngoài cửa xe.
Ursa bước lên bậc tam cấp ở hàng hiên. “Cô bảo mình không chấp nhận lời từ chối cơ mà?”
“Cô chỉ nói thế thôi.”
“Không, không phải.”
“Chú ấy không muốn gặp cô cháu mình.”
“Có khi chú ấy muốn nhưng họ ngăn cản,” Ursa đáp.
“Cô biết, nhưng mình cũng chẳng thể làm gì cả.”
“Có chứ ạ.”
“Gì cơ?”
“Bác ấy không khóa cửa, và con biết phòng chú ấy ở đâu.”
“Ôi trời ơi! Ursa, con xuống đây ngay lập tức cho cô!” Jo rít lên.
“Con không việc gì phải nghe cô cả vì con không phải người hành tinh này. Chúng con có luật riêng của mình.” Nói đoạn, con bé ba chân bốn cẳng phóng thẳng đến cửa.
“Ursa!”
Ursa đẩy hé cánh cửa bên trong và lách qua khe hở. Jo cân nhắc xem mình có nên đi theo hay không, và cô kết luận mình không thể để con bé một thân một mình đối đầu với Lacey được. Cô bước vào vừa kịp lúc Ursa biến mất phía sau bức tường được dựng bằng gỗ. Lacey đang đứng rửa chén trong bếp, còn bà Katherine thì đang ngồi ở bàn và trò chuyện với con gái. Cả hai người họ đều quay lưng về hướng cửa chính, tiếng nói chuyện cùng tiếng nước chảy khiến họ không thể nghe thấy tiếng bước chân của Ursa.
Jo rón rén băng qua phòng khách, cúi người thật thấp để tránh bị phát hiện. Cô trườn qua lối đi và thấy Ursa mở cánh cửa cuối hành lang. “Con phải gõ cửa đã chứ!” Jo thì thầm, nhưng đã quá trễ để có thể cản con bé tự tiện xộc vào.
Jo và Ursa đứng ngay cửa, quan sát Gabe. Anh mặc quần ngủ màu xám cùng chiếc áo thun màu xanh nhạt, co người trên chiếc giường bằng gỗ, quay lưng về phía họ. Những cuốn sách được xếp thành chồng, nằm la liệt trong phòng. Món đồ trang trí duy nhất là một bản đồ sao được gắn trên tường.
“Chú Gabe ơi?” Ursa lên tiếng. “Chú ổn chứ ạ?”
Anh quay người lại, đôi mắt sưng tấy lộ vẻ kinh ngạc. “Ursa à?”
“Chú bị bệnh ạ?” Con bé hỏi.
“Ai bảo con thế?”
“Chị gái xấu tính của chú.”
Anh phì cười và ngồi dậy, đưa tay gạt những sợi tóc lòa xòa trước mặt. Đôi mắt xanh biếc của anh lấy lại vẻ tinh tường thường thấy khi nhìn thấy Jo. “Chị ấy để hai người vào đây à?”
“Thật ra là… không,” Jo đáp.
“Thế chắc là mẹ tôi?”
“Nôm na là bọn tôi tổ chức một buổi tìm kiếm cứu nạn cho anh,” Jo đáp.
“Cô đùa sao?”
“Tôi không hề đùa.”
“Hai người bọn họ không biết hai cô cháu đang ở đây ư?” Jo lắc đầu. “Cô bé ngoài hành tinh này bắt tôi làm đấy.” Nụ cười trên khuôn mặt anh tắt ngúm. “Trời ạ, chắc trông tôi tàn tạ lắm,” anh nói, đưa tay lên mân mê bộ râu và mái tóc.
“Nhìn chú ổn mà,” Ursa đáp. “Trông chú không có vẻ bệnh tật tí nào cả.”
“Phải, chậc, có nhiều cách bị bệnh lắm.” Anh đưa chân ra mép giường, dễ thấy đã lâu rồi anh không đi lại. Đôi mắt anh nhìn chằm chằm vào cô. “Điều gì khiến cô nghĩ tôi cần được giải cứu?”
“Họ không để chúng tôi gặp anh.”
“Tại sao hai người muốn gặp tôi?”
“Chúng tôi cần mua trứng.”
Anh mỉm cười.
“Anh không đem trứng ra bán trên đường buổi sáng nữa. Việc đó đang gây ra một cuộc khủng hoảng trên toàn hạt đấy.”
“Không phải khủng hoảng toàn quốc à?”
“Trí tưởng tượng của anh bay cao bay xa thật,” cô nói.
“Chắc vậy.”
“Con thăm đám mèo con được không ạ?” Ursa hỏi.
Anh đứng dậy, thoáng loạng choạng. “Người sẽ được thăm đám mèo Shakespeare, thưa tiểu thư.”
“Anh không cần đứng dậy đâu,” Jo ngăn lại. “Chúng tôi chỉ muốn xác nhận anh vẫn ổn thôi.”
“Tôi phải đứng dậy chứ. Tôi phải chiêm ngưỡng gương mặt chị Lacey khi chị ấy đưa cô vào tầm ngắm.”
“Anh nói vậy làm tôi hơi sợ đấy,” Jo nói.
“Tôi sẽ đứng ra cản. Nhưng tôi báo trước, chị ấy không xem thằng em tàn tạ như tôi ra gì đâu.”
“Tàn tạ như một quả trứng vỡ ạ?” Ursa lên tiếng.
“Chà, so sánh hay đấy.” Anh thọc chân vào đôi giày lười màu nâu đã cũ. “Mình đi thăm đám mèo con nào!”
“Chúng mở mắt chưa ạ?” Ursa hỏi.
“ Chú không rõ nữa. Mấy hôm nay chú chưa thăm chúng.” Anh dẫn hai người họ ra hành lang. Khi cả ba đi ngang qua không gian mở giữa nhà bếp và phòng khách, anh đưa tay chào chị và mẹ mình. “Không cần để ý,” anh nói. “Tụi con chỉ đi ngang qua thôi.”
“Gabe!” Lacey kinh ngạc.
“Sao vậy chị?”
“Làm sao họ vào được đây?”
“Ai kia?”
“Hai người họ!”
“Khoan đã… Chị thấy họ à? Em tưởng họ chỉ là ảo giác của em thôi chứ.”
Lacey bước thẳng đến chỗ Jo. “Cô ăn gan hùm nên mới dám lẻn vào nhà chúng tôi thì phải?”
“Em không có,” Jo đáp. “Một trăm phần trăm gan đến từ nguồn khác.”
“Và người lớn ai lại nỡ lòng nào mắng mỏ một đứa bé, đúng không chị Lace?” Gabe nói.
“Thế cậu thấy ổn rồi à? Chỉ có vậy thôi sao?” Lacey chất vấn. “Sao trước khi tôi lặn lội xuống đây làm thay công việc của cậu, cậu không như thế đi cho tôi nhờ?”
“Em không hề yêu cầu chị đến.”
“Vậy ai sẽ là người chăm sóc mẹ?”
“Chúng ta đợi lát nữa hẵng tua đi tua lại phần thu âm này được không? Bạn em không muốn nghe đâu. Mình đi thôi,” đoạn anh nói với Jo và Ursa.
“Cậu đi đâu?” Lacey hỏi.
“Ursa muốn thăm đám mèo con,” anh đáp.
“Hay nhỉ, thế cơ đấy. Tôi đã bảo không mèo mả gì nữa cơ mà.”
“Mèo của em thiến hết cả rồi. Con mèo mẹ này đã mang thai trước khi đến đây.”
“Chà, may là tôi chưa phát hiện ra chúng đấy, không thì coi chừng tôi đem cả đám vứt hết xuống sông.”
Gabe quay lại nhìn chị gái mình với ánh mắt đầy vẻ đe dọa, khiến chị ta lùi lại cho đến lúc đụng mông vào chiếc ghế trong bếp. “Chị đụng một ngón tay lên đám mèo thử xem, người ta sẽ thấy xác chị trên sông đấy! Tôi không đùa đâu, Lacey!”
“Cậu điên rồi!” Lacey rít lên.
“Ừ tôi đang điên đấy, nên chị liệu hồn, đừng có mà chọc giận tôi! Từ nay, tôi cấm chị nói những lời như vậy trước mặt đứa trẻ này!”
Ánh nhìn gay gắt của Lacey hướng về Ursa. “Con bé đó là ai? Mẹ bảo hôm nào cậu cũng cho nó ăn nhờ ở đậu ở đây.”
Để Ursa không phải nghe thêm lời nào nữa, Gabe bế cô bé lên tay và nhanh chân bước ra cửa. “Chú xin lỗi,” anh thì thầm vào tai con bé. “Đừng để tâm đến những lời vừa rồi nhé.”
Jo hối hả đẩy lưng anh để bước ra ngoài. Họ cùng nhau rảo bước trên con đường trải sỏi mạn phía Tây của căn nhà. Đi được nửa đường đến nhà kho, Gabe để Ursa xuống đất. “Chú xin lỗi,” anh nói. “Con lớn rồi, chắc khó chịu vì bị bế đi lắm nhỉ?”
“Không sao ạ,” Ursa đáp.
Jo liếc về phía sau lưng để kiểm tra xem Lacey có đi theo hay không. May là không, và căn nhà gỗ khuất dần sau hàng cây um tùm xung quanh.
“Tôi rất xin lỗi khi để hai người phải chứng kiến cảnh vừa rồi,” Gabe nói khi cả ba bước đến nhà kho. “Chị tôi… Hai chị em tôi trước giờ như nước với lửa. Lúc tôi sinh ra, chị ấy đang học đại học, và xưa nay chị ấy vốn giống một bà mẹ kế xấu tính hơn là một người chị.”
“Anh không việc gì phải xin lỗi đâu,” Jo đáp.
“Con đi thăm đám mèo con được không ạ?” Ursa hỏi.
“Con đi đi,” anh đáp.
Ursa chạy vào trong. Gabe và Jo đi theo con bé đến đống rơm đằng sau nhà kho. “Con mèo mẹ lành tính đến lạ,” Gabe nhận xét, nhấc chú mèo mướp màu cam vừa bước đến meo meo chào anh lên tay. Anh bế nó vào lòng, gãi sau tai khiến chú mèo nũng nịu dụi đầu vào ngón tay anh.
“Rõ ràng con này không phải mèo hoang,” Jo nói.
“Tôi cũng thấy vậy. Tôi đoán ai đó đã vứt nó lên khu đất nhà tôi lúc phát hiện nó có thai. Người vùng này biết tôi nuôi mèo trong nông trại mà.”
Jo vuốt ve chú mèo trong tay anh.
“Nó đẻ đứa đầu tiên ngay bên cạnh kho dụng cụ của tôi, nhưng nó vẫn để tôi chuyển nó vào nhà kho này. Ở đây, đám mèo con an toàn hơn, tránh được thú săn mồi, vì đêm đến mọi cửa nẻo tôi đều đóng chặt cả.”
“Thú săn mồi giống chị anh à?” Jo nhận xét.
“Ừ, còn tệ hơn cả rắn với chuột nhỉ?”
“Mình có nên giấu chúng kỹ hơn không ạ?” Ursa hỏi.
Gabe ngồi xổm xuống trước mặt cô bé. “Chú sẽ không để bất kì ai làm hại chúng đâu.”
“Nhưng bác ấy bảo…”
“Chú nghĩ mai là bác ấy đi rồi. Bác ấy ghét công việc đồng áng lắm.”
Ursa nắm lấy tay Jo và dẫn cô đến ổ một đám mèo rực rỡ màu sắc giữa hai ụ rơm to. “Tôi cá là có hơn một ông bố đấy,” Jo nói.
“Cô ấy phát hiện ra bí mật đen tối và sâu nhất của mày rồi kìa,” Gabe thì thầm vào tai con mèo mẹ.
Jo mỉm cười trước sự hài hước của anh. Ban đầu, lúc mới chạm mặt trong căn phòng, trông anh có vẻ hốc hác, nhưng mười phút vừa qua, trông anh có vẻ đã lấy lại được sức sống kha khá. Rõ ràng là cô bé ngoài hành tinh kia có cảm quan tốt hơn nhiều so với Jo.
“Chúng mở mắt rồi!” Ursa reo lên, trên tay ôm một chú mèo trắng. Nó khẽ kêu meo meo, đôi mắt nheo lại cố gắng quan sát khuôn mặt con người trước mặt. “Đây là Juliet,” Ursa giới thiệu. “Cô muốn bế nó không ạ?”
Jo ôm chú mèo con vào lòng.
“Con mèo xám kia là Hamlet,” Ursa tiếp tục chỉ vào một chú mèo khác. “Mèo mướp nâu là Caesar. Mèo nhị thể trắng đen là Macbeth và chú mèo cam là Olivia…”
“Những nhân vật ấy từ vở kịch nào thế?” Jo hỏi.
“Đêm thứ mười hai,” Gabe trả lời.
“Cuối cùng cũng có một vở hài kịch.”
“Và chú mèo đen là Othello,” Ursa chốt hạ. “Cái tên đó là ý tưởng của chú Gabe đấy ạ, vì Othello là một người Moor [18] .”
Ursa nắm lấy tay Jo. “Juliet và Hamlet là hai chú mèo con thích nhất.” Con bé nhấc Hamlet ra khỏi đám mèo con rồi tựa vào ụ rơm với hai chú mèo trên ngực.
Gabe một tay giữ mèo mẹ, tay còn lại nhấc Olivia lên đưa cho Jo. “Cô kiếm chút hài kịch đi. Mình cần nó đấy.”
Jo ôm chú mèo màu cam nhỏ xíu trên tay cho đến khi nó thôi ngọ nguậy. Gabe nhìn cô và mỉm cười. “Anh thấy thế nào rồi?” Cô hỏi, nhưng lời nói chưa kịp kết thúc thì cô đã hối hận với câu hỏi lúc nào cũng đeo bám cô kể từ lúc bác sĩ chẩn đoán cô mắc bệnh. “Anh muốn dùng bữa tối với hai chúng tôi không?”
Anh tìm cách đọc ẩn ý trong câu nói vừa rồi của cô.
“Ursa và tôi sẽ làm bánh mì kẹp, khoai tây chiên và salad. Nhưng tôi nói trước, tôi làm bánh mì kẹp thịt gà tây đấy. Tôi không ăn thịt đỏ nhiều.”
“Tôi không ngại ăn bánh mì kẹp gà tây đâu,” anh đáp.
“Anh từng ăn chưa?”
“Chưa.”
“Vậy anh qua ăn tối cùng chúng tôi nhé.”
“Để tôi về tắm trước đã.”
“Chúng tôi sẽ tranh thủ nấu nướng trong lúc anh tắm.”
“Vậy có phiền cô không?”
“Có gì đâu mà phiền chứ.”
“Cô chú ơi, cô chú biết gì không?” Ursa ríu rít hỏi.
“Sao thế, Ursa?” Gabe hỏi cô bé.
Ursa ngồi thẳng dậy, trên tay ôm hai chú mèo trắng và xám. “Con sẽ viết một vở kịch về Juliet và Hamlet.”
“Vở kịch về mèo hay người cơ?” Anh hỏi.
“Về người ạ. Juliet và Hamlet gặp nhau trong một khu rừng ma thuật trước khi biến cố tồi tệ nhất xảy ra, từ đó vận mệnh của họ thay đổi. Con viết hài kịch, và kết truyện ai cũng hạnh phúc cả.”
“Chú thích vở hài kịch này đấy,” Gabe nhận xét.
“Cô siêu thích luôn,” Jo hùa theo. “Cô mua vé trước từ bây giờ luôn được không nhỉ?”