← Quay lại trang sách

Chương 13

Ursa dùng đèn pin khám phá rìa đồng cỏ trong lúc Jo nhóm lửa nướng bánh mì.

“Con đang làm gì thế?” Jo hỏi.

“Con hái hoa để trưng bàn ạ.”

“Cô tưởng mình sẽ ăn bên ngoài như những lần mình hay làm món nướng chứ?”

“Không được! Chú Gabe đến ăn tối là một dịp đặc biệt mà.”

Jo không muốn như thế. Cùng ăn tối ở bàn bếp, dưới ánh đèn huỳnh quang, chỉ tổ khiến mọi thứ trở nên tồi tệ hơn mà thôi, khéo cô và Gabe sẽ lại cảm thấy ngượng ngùng. Khi bước vào trong nhà để kiểm tra khoai tây, Jo phát hiện hóa ra bọn họ sẽ không dùng bữa tối dưới ánh đèn huỳnh quang sáng quắc. Ursa đã tắt hết đèn và đặt trên bàn hai cây nến đốt dở bên cạnh bó hoa của con bé. Khung cảnh nhìn lãng mạn quá sức, nhưng trước khi Jo kịp có động thái gì thì Gấu Nhỏ đã sủa váng lên, báo hiệu Gabe đến. Cô vội vàng bước ra để kìm chú chó im lặng.

“Chú chó canh nhà tốt đấy,” Gabe nói, tay đóng cửa xe tải.

“Không tốt tí nào. Phiền toái lắm.”

Gabe vỗ đầu chú chó và bước lên lối đi. Anh chìa ra một vỉ trứng. “Cô cần chúng không?”

“Có chứ. Cảm ơn anh.” Cô nhận vỉ trứng từ tay anh, mùi xà phòng ấm nồng trên làn da anh phảng phất. “Nói trước để anh đỡ bất ngờ. Ursa đã tự biến một bữa tối dân dã thành một buổi thưởng thức ẩm thực cao cấp.”

“Con bé tìm được trứng cá tầm ở suối à?”

“Thực đơn thì vẫn thế, nhưng con bé đã cố gắng tạo ra một không gian như trong nhà hàng cao cấp vậy.”

“Nghe thú vị đấy chứ. Tôi hy vọng tôi ăn mặc phù hợp để có thể dùng bữa trong nhà hàng.”

Dưới ngọn đèn vàng trên hiên nhà, Jo quan sát trang phục anh khoác trên mình: một chiếc áo sơ mi xanh cùng quần màu nhạt, tươm tất hơn rất nhiều so với áo thun và quần bò bạc thếch anh hay mang. Trông anh như thể đang diện để đi hẹn hò. Cô cố gắng đè nén nỗi hoảng loạn vừa trào lên trong lòng mình. “Hoàn hảo,” cô lên tiếng. “Chứ mặc tuxedo [19] thì hơi lố.”

Cô dẫn anh vào nhà, lúc đó Ursa đang ngồi ở bàn bếp gấp giấy ăn thành kiểu. “Tôi cứ lo chị Lacey không để anh đến,” cô nói.

“Chị ấy làm hết cách để ngăn cản tôi, nhưng tôi đã tháo tung hết xiềng xích,” anh đáp.

Có lẽ điều này cũng không khác xa thực tế là mấy.

“Cô cần tôi giúp gì với bữa tối không?” Anh hỏi.

“Cảm ơn anh, nhưng xong hết rồi, chỉ còn mỗi việc nướng bánh thôi ấy mà,” Jo đáp. “Anh cứ ngồi điều hòa đi, nếu anh chấp nhận gọi nó như vậy.” Khi Ursa nhất nhất đòi ăn ở bên trong, Jo đã chọn chế độ cao nhất cho điều hòa trong phòng khách, khổ nỗi nó quá cổ lỗ sĩ nên chẳng có tác dụng giảm nhiệt là bao.

Jo ở bên ngoài nướng bốn miếng thịt gà và bánh mì. Khi mang đồ ăn vào trong, cô phát hiện đèn phòng khách đã được bật lên. Gabe ngồi cùng Ursa trên sô pha, nhìn những bức tranh Ursa đã vẽ anh, Tabby và căn nhà của Frances Ivey bằng màu sáp.

“Ursa kể hôm kia cô lái xe lên tận Urbana để thuê nhà à?” Gabe hỏi.

“Phải. Xin lỗi đã không báo cho anh một tiếng trước khi đi. Nhưng nếu Tabby và tôi không nhanh tay thì căn nhà sẽ vào tay người khác.”

“Không sao.” Anh đáp lại ánh nhìn sắc bén của cô. Anh hiểu lời xin lỗi của cô mang ngụ ý nhiều hơn thế. “Tabby hẳn là một người rất hay ho khi đủ sức để trở thành điều kỳ diệu thứ ba của Ursa đúng không?”

“Tabby là một điều kỳ diệu ở nhiều khía cạnh đến độ tôi không liệt kê hết được,” Jo bộc bạch. “Tôi biết cô ấy từ năm thứ hai đại học, và chúng tôi ở chung với nhau từ năm thứ ba.”

“Ursa kể cô ấy sắp sửa trở thành một bác sĩ thú y.”

“Và tên của cô ấy là tên mèo nữa chứ!” Ursa reo lên. “Chú có thấy điều đó rất ngộ không?”

“Ngộ thật,” anh đồng tình.

Jo để tô khoai lang chiên lên trên bàn bên cạnh đĩa bánh mì. “Bữa tối xong rồi đây.”

Nghe thấy vậy, Ursa liền tắt hết đèn trong phòng khách và nhà bếp. “Chà, có vẻ hơi ma mị đấy nhỉ?” Gabe nói để vơi bớt phần nào không khí căng thẳng. Chiếc bàn lấp ánh ánh nến, Ursa ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Gabe, còn Jo ngồi đối diện.

“Con làm salad đó,” cô bé khoe.

“Giỏi lắm,” anh khen.

“Cái bánh không phô mai là phần thêm cho anh đấy,” Jo nói.

“Không chắc tôi có đủ bụng để xử lý hết chúng hay không,” anh đáp. “Mấy hôm nay, tôi hầu như chẳng ăn gì.”

“Vì chú nôn ra hết ạ?” Ursa hỏi.

“Không, đơn giản là chú không cảm thấy đói thôi.”

Jo cũng đã nghĩ tới tình huống này, nhưng cô vẫn bỏ miếng thịt thứ tư lên vỉ nướng. Giống như những bữa ăn cô hay mua cho mẹ mình khi bà đang gần đất xa trời - lúc nào cô cũng no mắt hơn bụng - tựa hồ cô có thể cho bà ăn thật nhiều để bà có thể khỏe lại. Thỉnh thoảng, cô cũng bâng quơ lo lắng tương tự về bản thân, sợ rằng căn bệnh ung thư sẽ trở lại nếu cô không còn hứng thú ăn uống.

May mà cô chưa bao giờ có những lo lắng đó với Ursa. Con bé ăn như chết đói, giọng điệu líu lo của nó đang tạm ngừng lại vì miệng ngồn ngộn bánh mì kẹp thịt.

“Tôi nghe kể Ursa sắp thành nhà điểu học rồi à?” Gabe khơi chuyện.

“Phải,” Jo đáp. “Con bé tìm được hai tổ chim rồi đấy.”

Anh giơ tay lên để Ursa đập tay ăn mừng. Anh cố làm ra vẻ mình vẫn khỏe như vâm nhưng ăn chưa được nửa cái bánh thì anh đã thôi, và trong lúc đợi hai cô cháu dùng xong bữa, anh nhấm nháp chút salad cho đỡ buồn tay. “Việc nghiên cứu của cô thế nào rồi?” Anh hỏi.

“Tốt hơn nhiều so với kỳ vọng của tôi cho mùa thực địa đầu tiên của mình.”

“Cô còn bao nhiêu mùa nữa?”

“Ít nhất một mùa nữa.”

“Mùa hè năm sau cô cũng dự tính sống ở đây à?”

“Ấy là tôi dự định thế.”

Anh liếc xuống chiếc nĩa mình đang xiên salad trước khi đưa mắt trở lại nhìn cô. “Tại sao cô lại chọn nghiên cứu chim sẻ đất vậy?”

“Tôi nghiên cứu tập tính làm tổ của chim, và tổ chim sẻ đất thì vừa nhiều vừa dễ kiếm. Ngày trước, chúng hay làm tổ trong những khu rừng chịu sự tàn phá của cháy rừng và lụt lội. Bây giờ, chúng kéo về làm tổ ở rìa đường và những cánh đồng, nhưng đáng tiếc là các môi trường ấy không phù hợp với chúng. Rất nhiều loài chim làm tổ ở những nơi bờ bụi như vậy cũng đang bị thu hẹp về số lượng.”

“Thú vị thật,” anh nhận xét.

“Vì thế, tôi so sánh tỷ lệ làm tổ thành công của chim sẻ đất giữa các môi trường sống khác nhau được hình thành do sự xâm hại của thiên nhiên và con người.”

Anh gật gù. “Ban đầu, mối cơ duyên nào đưa cô bước vào thế giới của các loài chim vậy?”

“Thành thật mà nói, lý do chính là bố mẹ tôi,” cô kể. “Trước kia, bố tôi là một nhà địa chất, còn mẹ tôi là một nhà sinh vật học. Hồi tôi còn bé, gia đình tôi thường đi cắm trại và trèo đèo lội suối đến mọi vùng trên nước Mỹ. Đó là khoảng thời gian tôi thu nhặt các kiến thức về những chú chim đầu tiên, đa phần đều có mẹ đồng hành.”

“Bố mẹ của cô Jo qua đời rồi chú ạ,” Ursa thông báo.

Gabe không tỏ ra quá kinh ngạc, bởi Jo chỉ dùng chuyện quá khứ khi miêu tả về bố mẹ mình. Nhưng không giống như những người khác, anh không hỏi nguyên nhân hai người qua đời.

“Bố tôi thực hiện nghiên cứu ở dãy núi Andes,” Jo tiếp tục kể. “Năm tôi lên mười lăm, chuyến bay chở ông va vào vách núi. Ông qua đời cùng hai nhà địa chất khác và một phi công người Peru.”

“Trời ạ. Bác ấy hưởng dương bao lâu?”

“Năm bốn mươi mốt tuổi.”

“Lúc ấy, mẹ cô có ở đó nghiên cứu cùng ông ấy không?”

“Không, lúc ấy bà ở nhà chăm tôi và em trai. Sau khi em tôi ra đời, mẹ tôi đã bỏ ngang bằng tiến sĩ Sinh học. Bố tôi hay xa nhà vì các buổi nghiên cứu dài kỳ, nhưng mẹ tôi không muốn gửi đứa con còn thơ của mình vào nhà trẻ để đi học cao lên.”

“Mẹ của cô Jo qua đời vì bệnh ung thư vú,” Ursa kể. “Bác ấy đã cứu sống cô Jo.”

“Như anh thấy đấy,” Jo tiếp tục, “Ursa rất tò mò về gia đình tôi.” Cô quay sang nhìn con bé và đế thêm, “Phải chi con bé cũng kể cho tôi nhiều như tôi kể cho nó.”

“Dù con có kể cho cô về gia đình ở Hetrayeh của con, cô cũng không hiểu,” con bé đáp.

“Hiểu chứ. Con biết cô sẽ hiểu mà.”

“Cô kể cho chú Gabe nghe mẹ cô đã cứu sống cô như thế nào đi ạ!”

“Đánh trống lảng không có tác dụng đâu,” Jo chặn lời.

“Cô đánh trống lảng thì có,” Ursa phản pháo. “Vì cô không muốn kể cho chú Gabe nghe về mẹ của mình.” Con bé đẩy ghế ra và rời khỏi bàn ăn, đi về phía nhà vệ sinh.

“Tôi lại bị dắt mũi rồi,” Jo nói.

Anh mỉm cười.

Cô đẩy chiếc đĩa sạch trơn của mình về phía trước. “Có lẽ anh đang tự hỏi Ursa có ý gì khi nói mẹ tôi đã cứu mạng tôi.”

“Tôi đoán việc bà mắc ung thư khiến cô phát hiện ra mình cũng bị.”

Jo gật đầu.

“Chuyện xảy ra lâu chưa?”

“Khoảng hai năm trước. Mẹ tôi qua đời vào mùa đông năm ngoái.”

“Tất cả ập đến trong lúc cô đang vật lộn với căn bệnh ung thư của chính mình ư? Lúc phát hiện ra nó, cô đang học lên tiến sĩ phải không?”

“Phải, và tôi đã mất hai năm, vừa để chăm sóc mẹ, vừa chữa trị và phẫu thuật cho mình.”

“Không chỉ một lần phẫu thuật à?”

Việc cô cắt bỏ ngực thì quá rõ ràng, nhưng cô không muốn nhắc tới việc mình phải cắt bỏ buồng trứng. Nhất là với một người khác giới trạc tuổi mình. Song, cô phải vượt qua tất tần tật chuyện đó.

“Lúc phát hiện, căn bệnh ung thư của tôi vẫn còn ở giai đoạn đầu,” cô kể, “nhưng tôi vẫn phải trải qua phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ vú và buồng trứng, vì khả năng tôi tái phát ung thư vú và ung thư buồng trứng rất cao.”

Anh hơi chúi người về phía cô, khuôn mặt chói trong ánh nến.

“Anh không cần phải nói gì cả.”

Anh tựa lưng vào ghế. “Tôi sẽ không nói gì. Khi ta cần nói điều đúng nhất thì đó cũng chính là lúc ngôn từ phản bội ta nhất.”

“Mọi người đều nghĩ họ phải nói gì đó như thể để an ủi tôi, nhưng làm vậy chẳng bao giờ khiến tôi cảm thấy khá hơn cả.”

“Tôi hiểu. Tôi đã đưa đến kết luận rằng ngôn ngữ không ưu việt như chúng ta tưởng. Chúng ta vẫn chỉ là một đám tinh tinh tìm cách biểu lộ suy nghĩ của mình thông qua những tiếng kêu eng éc, trong khi phần lớn những gì ta muốn truyền đạt lại mắc kẹt trong não.”

“Con trai một giáo sư văn học mà lại nói như thế sao?”

“Có lẽ tôi không được thừa hưởng gen văn học từ ông ấy.”

Jo đứng dậy thu dọn chén bát để anh không cảm thấy phải ăn nốt phần thức ăn còn lại. Anh giúp cô một tay, lấy đĩa mình đặt lên đĩa của Ursa.

“Mẹ anh làm gì?” Cô hỏi.

“Mẹ tôi làm giáo viên tiểu học một thời gian, nhưng bà ấy cũng tương tự như mẹ của cô: bà nghỉ làm khi chị Lacey ra đời. Mẹ tôi còn là một nhà thơ nữa,” anh nói, theo chân Jo vào nhà bếp. “Bà có hai tập thơ được xuất bản.”

“Thật à? Giờ bà có còn viết nữa không?”

“Không. Căn bệnh Parkinson khiến tay bà run nhiều quá, không viết hay đánh máy được nữa.”

“Bà có thể đọc để anh ghi lại mà.”

“Tôi cũng đã đề nghị như vậy, nhưng bà bảo như thế sẽ phá vỡ quá trình sáng tác.”

“Tôi đoán mình có thể hiểu phần nào.”

“Căn bệnh Parkinson cũng khiến bà mất cảm hứng thơ văn rồi.”

“Nghe buồn nhỉ?”

“Ừ.”

Ursa quay trở lại với túi kẹo dẻo trên tay.

“Con ăn kẹo dẻo mãi mà không chán à?” Jo hỏi.

“Mình chẳng có gì để tráng miệng cả, trong khi lửa còn đang cháy. Con năn nỉ mà?”

“Con nướng đi.”

“Chú có muốn ăn không ạ?” Con bé hỏi Gabe.

Anh nhìn Jo. “Chắc tôi nên về nhà thôi.”

“Anh cứ ở lại chơi đã,” Jo nói.

“Cô chắc chứ?”

“Anh né được xiềng xích lâu chừng nào thì hay chừng đó mà, đúng không?”