← Quay lại trang sách

Chương 15

“Này, Jo…”

Gabe đứng cách cô hơn ba chục mét, giữa đám cây cối cao ngang ngực. “Gì thế?” Cô hô vang trả lời.

“Tôi nghĩ chiếc tổ đằng này mất tem đánh dấu rồi.”

Cô vạch qua bụi cỏ tiến về phía anh. “Thật không thể tin nổi, chưa tới một tiếng đồng hồ mà anh đã tìm ra tổ chim rồi à?”

“Trong tổ có ba quả trứng trắng.”

“Đó là tổ chim sẻ đất màu chàm đấy!”

Nghe thấy hai người trao đổi, Ursa ba chân bốn cẳng chạy lại. Con bé và Jo đến chỗ Gabe cùng lúc, nhìn xuống tổ chim được xây trong bụi mía. “Chúc mừng anh tìm được tổ chim đầu tiên nhé,” Jo cảm thán. “Nhưng chết thật, giờ khéo tôi phải trả lương cho anh làm trợ lý thực địa mất rồi.”

“Chắc hẳn có thể thu nhập hơn xa việc bán trứng,” anh hùa theo.

“Giờ cả ba chúng ta đều là nhà điểu học cả rồi!” Ursa hào hứng reo lên.

Gabe khẽ lấy tay chạm vào quả trứng bé xíu.

“Có vẻ khá nhanh, phải không?” Jo nói.

“Tôi từng thấy nhiều tổ chim khác nhau rồi, nhưng việc tìm ra tổ chim khi có chủ đích như thế này đem lại cảm giác thỏa mãn hơn nhiều.”

“Đừng có coi thường nhé, tìm kiếm tổ chim là một việc có thể gây nghiện đấy. Nó ẩn chứa điều rất đặc biệt… như thể ta đang khám phá những bí mật nho nhỏ của thiên nhiên hoang dã.”

Anh mỉm cười.

“Lời tôi nói nghe hâm dở quá à?”

“Không. Tôi hoàn toàn hiểu mà.”

Anh nhìn Ursa ghi lại địa điểm, ngày tháng và tình trạng tổ chim vào tờ thông tin mới theo lời của Jo. Con bé cẩn thận ghi chữ Gabriel Nash ở dòng Người phát hiện.

“Tôi vừa mới cống hiến một điểm dữ liệu cho khoa học. Sự tồn tại của tôi không còn vô nghĩa nữa rồi,” anh nói.

Jo thích câu nói đùa này của anh. “Mình về thôi,” cô kêu gọi. “Các ông bố bà mẹ khéo phát khùng mất, mà mình thì không muốn mang thú săn mồi về nhà.”

“Không con thú nào được phép chạm vào tổ của tôi,” Gabe hô thật to về phía khu rừng khi họ quay lưng rời đi.

“Có lẽ lời chú nói sẽ là ma thuật bảo vệ nó,” Usa lên tiếng.

“Khéo nó sẽ trở thành một nhánh khoa học mới ấy chứ,” anh đáp. “ Ứng Dụng Ma Thuật Để Ngăn Chặn Thú Săn Mồi Tấn Công Tổ Chim.”

“Tôi dám chắc anh sẽ được Tổ chức Khoa học Quốc gia tài trợ đấy.”

“Ursa Major sẽ là đồng tác giả với tôi.”

“Nếu thế thì chắc chắn nhận được trợ cấp rồi.”

May mắn ban đầu của Gabe không được tiếp tục ở khu thực địa tiếp theo, nhưng còn nước còn tát, anh vẫn khấp khởi kỳ vọng vào khu vực thực địa cuối, khu rừng ma thuật của Ursa. Họ đến Summers Creek vào đầu giờ chiều. Vừa đến nơi, Gabe ngay lập tức đã bị hớp hồn bởi khe núi giữa rừng, thác nước xanh rêu và những tảng đá bám đầy dương xỉ giữa con suối róc rách. Anh bảo với Ursa anh hiểu thế nào là diệu kỳ rồi, và thỉnh thoảng, anh lại nói mình trông thấy một yêu tinh, tiên nữ hay kỳ lân. Ursa cũng bắt chước Gabe, khoe mình nhìn thấy những bóng hình ảo ảnh, và chẳng mấy chốc, hai người đua nhau sáng tạo ra sinh vật viễn tưởng hơn là tìm tổ chim. Jo thấy vậy cũng vui, tuy hai người họ có hơi khiến cô mất tập trung.

Sau khi công việc được hòm hòm, ba người đến chỗ cái hồ to trong vắt quen thuộc để ăn nốt phần còn lại của bữa trưa. Trước khi Jo kịp an tọa lên tảng đá bằng phẳng ưa thích để dùng bữa thì Ursa đã nhào xuống nước với chân trần, tay mò bắt cá. “Con ăn nốt bánh mì của mình đi chứ!” Jo nói vọng ra với con bé.

“Con không muốn,” con bé đáp, quăng mình xuống phần nước sâu nhất.

“Bao nhiêu kỷ luật của tôi cũng chẳng quản được con bé,” Jo than thở và đưa cho Gabe bánh mì kẹp gà tây kèm phô mai.

“Con bé ngoan mà. Nó không cần tới kỷ luật đâu.”

“Ngoan thì ngoan đấy, trừ việc không chịu kể cho tôi nó đến từ đâu dù tôi ngọt nhạt thế nào.”

Anh ngồi xuống tảng đá bên cạnh cô. “Con bé có kể với cô nó đến từ đâu rồi mà.”

“Phải, đến từ một tổ chim khổng lồ trên trời.”

“Thỉnh thoảng, tôi suýt chút nữa đã tin lời con bé đấy,” anh thành thật. “Nó chẳng giống bất cứ đứa trẻ nào mà tôi biết.”

“Tôi hiểu. Thế mà vẫn chưa có ai tìm kiếm nó.”

“Cô vẫn kiểm tra trên mạng à?”

“Ừ, nhưng càng lúc càng day dứt. Tôi sợ một ngày nào đó mình sẽ nhìn thấy hình ảnh con bé xuất hiện trên những trang thông báo ấy, và rồi con bé sẽ phải trở về với đám người bao lâu nay không buồn báo nó mất tích.”

“Họ sẽ không cướp được con bé đâu. Con bé sẽ vào trại trẻ.”

Jo quay sang, mặt đối mặt với anh. “Chúng ta phải đợi bao lâu nữa mới lôi cảnh sát trưởng vào cuộc? Đã hai tuần trôi qua rồi đấy.”

Tay anh buông thõng miếng bánh mì, tựa hồ chẳng còn hứng thú ăn nữa. “Mấy hôm nay tôi cũng nghĩ rất nhiều về chuyện đó.”

“Tôi nghĩ về chuyện đó suốt. Ta phải tìm cách để đưa con bé đến chỗ cảnh sát trưởng thôi.”

“Ừ.”

Họ ăn nốt phần bánh mì còn lại trong im lặng, đưa mắt dõi theo Ursa vui đùa trong nước. Jo đưa Gabe chai Nalgene đầy nước và mở thêm một chai khác cho bản thân mình. “Chị gái và mẹ anh phản ứng thế nào lúc anh trở về nhà để thay đồ vào sáng nay?”

“Chị Lacey nổi đóa lên vì chị ấy muốn về lại Saint Louis.”

“Mẹ anh có nói gì không?”

“Mẹ tôi bất ngờ quá, nên chẳng nói được gì.”

“Sao bác ấy lại bất ngờ?”

“Cô biết lý do mà.”

“Không, tôi không biết gì cả. Tóm lại, anh bị suy nhược thần kinh khi đối mặt với môi trường áp lực hồi học đại học. Hà cớ gì điều đó lại khiến cuộc đời của anh phải lép vế trước cuộc đời của chị ấy? Tại sao anh không được phép nghỉ ngơi một ngày và dành thời gian cùng bạn bè chứ? Họ cố tình không để anh đứng dậy và bước tiếp cuộc đời của mình vì họ đã quen với việc anh chăm sóc họ ngày này qua tháng nọ.”

“Chuyện không đơn giản như vậy đâu.”

“Tôi không nghĩ còn ẩn tình nào khác.”

Anh nhìn thẳng vào mắt cô. “Tôi là một kẻ bệnh tật. Tôi không đủ khả năng ‘đứng dậy và bước tiếp’.”

“Nếu anh nghĩ thế thì anh không làm được là phải.”

“Giống như những người chưa bao giờ trải qua điều này, góc nhìn của cô về bệnh trầm cảm lệch lạc và vẫn còn màu hồng lắm.” Anh đặt chai nước dưới chân Jo rồi bước về phía Ursa. Con bé đang đứng gần suối, nước ngang đầu gối, cố gắng bắt thứ gì đó trong bộ rễ ngoằn ngoèo của cây sung dâu.

“Cô chú có thấy không?” Con bé hỏi. “Con suýt bắt được một con ếch bự lắm, nhưng lại để nó chạy thoát mất rồi.”

“Thế là con đã làm sổng mất một hoàng tử ếch tuấn tú rồi đấy,” anh đáp.

“Ai mà thèm một hoàng tử ếch tuấn tú nhưng não phẳng chứ?”

“Thế hoàng tử ếch tuấn tú mà thông minh thì sao?”

“Chẳng có hoàng tử nào trong khu rừng ma thuật này cả,” con bé hùng hồn tuyên bố.

“Tư tưởng hiện đại đấy.”

Con bé bước xuống vùng nước sâu hơn. “Chú có muốn xuống đây không ạ?”

“Chắc là có,” anh cân nhắc. “Người chú dính toàn gai.”

“Là gai từ cây tầm ma đấy.”

“Chú biết. Giờ chú mới thực sự hiểu thế nào là bị tầm ma đâm vào người.” Anh tháo bốt và cởi chiếc áo thun Đại học Chicago tay dài, nhưng vẫn mặc quần. Jo không tài nào rời mắt khỏi phần cơ thể đang lộ ra của anh, gọn gàng và săn chắc nhờ công việc đồng áng. Anh lội xuống hồ, tới vùng nước sâu, rồi lặn xuống mất dạng. Một lúc sau, anh trồi lên, lắc đầu tới lui để rũ nước trên tóc và hô lớn. “Lạnh khủng khiếp!” Anh gọi với lên chỗ Jo. “Cô cũng xuống đây cho vui.”

“Cô Jo không muốn hồ sơ dữ liệu bị ướt ạ,” Ursa giải thích.

Jo bước đến mép hồ.

“Cô có xuống không ạ?”

“Con đã nói vậy thì cô phải xuống thôi.”

“Con nói gì cơ?”

“Rằng cô không muốn hồ sơ dữ liệu bị ướt. Nó khiến cô như một kẻ quái dị ấy.”

Ursa hú hét ầm ĩ và nhảy lên lưng Gabe, đu lên người anh như một chú khỉ con.

Jo tháo bốt đi bộ và xắn quần lên đầu gối. Vấn đề là, cô không muốn sau khi trở lại làm việc, các tờ dữ liệu bị dính nước và hai lớp áo để ngăn tầm ma và muỗi tiếp xúc với làn da của cô còn khuya mới khô.

Cô gỡ hàng nút phía trên và cởi áo tay dài và áo cộc. Có lẽ, cô làm thế là bởi cô đã nói với Tanner rằng mình hài lòng với vẻ ngoài hiện tại. Hoặc vì mẹ cô đã nói: “Hãy yêu đời thay cả phần của mẹ.” Có lẽ, cô cởi hết áo là bởi cô muốn thể hiện cho Gabe thấy rằng cô cũng biết chút gì đó về cách “đứng dậy và bước tiếp”. Bất kể lý do là gì, giờ đây cô không còn mặc áo nữa, và cô cảm thấy thật dễ chịu khi làn nước mát lạnh chạm vào khuôn ngực nóng bừng của mình.

Ursa chẳng mấy để tâm. Con bé đã thấy ngực của Jo vài lần lúc thay đồ. Song rõ ràng, Gabe bối rối không biết phải làm gì. Đầu tiên, anh nhìn những vết sẹo của cô, đoạn quay đi. Rồi anh lại nhìn cô, nhưng ánh mắt chỉ nương nơi khuôn mặt.

“Chẳng may kiểm lâm viên đi ngang thì không biết tôi có bị thộp cổ vì tội xúc phạm thuần phong mỹ tục không nhỉ?” Jo nói. “Không có gì để khoe thì có gọi là khoe hàng không?”

“Câu hỏi hay đấy,” anh trả lời, như trút được gánh nặng trước câu nói bông đùa của cô.

Đây là lần đầu tiên cô để một người đàn ông thấy ngực của mình tại một hồ nước giữa rừng, và cô vui vì điều đó. Không giường chiếu. Không áp lực. Đắm mình trong khu rừng, cô nhẹ đầu và cảm thấy trọn vẹn hơn bao giờ hết. Cô thả cả hai tay trôi theo dòng nước và lướt dọc theo hồ. Cô xoay người lại, lặn xuống nước rồi ngoi lên ngay giữa hồ. Ursa chuyển từ lưng Gabe sang lưng cô, con bé quàng hai tay quanh cổ cô. “Cô có vui khi được xuống nước như thế này không ạ?”

“Cô vui lắm.”

Ursa áp đôi môi lạnh toát và ướt đẫm của con bé lên tai Jo. “Mình tát nước lên người chú Gabe nhé,” con bé thì thầm.

“Được,” Jo khẽ đáp lại. “Một, hai, ba…” Ursa nhảy khỏi lưng cô đánh ùm xuống hồ, hất nước vào người Gabe. Jo cũng góp một tay, nhưng không tràn trề năng lượng như con bé.

“Bất công quá. Hai đánh một!” Anh la oai oái.

“Nhưng chú bự con hơn mà,” Ursa nói.

Anh dùng hai tay cật lực hất nước đáp trả. Ursa chộp lấy vai Jo và quẫy chân tứ tung.

“Chú đầu hàng! Chú đầu hàng!” Anh chịu thua.

“Phe nữ tất thắng!” Ursa hét vang.

“Thì tất nhiên là thế rồi. Chú làm gì có chút cơ hội nào.”

“Này, mọi người nghe thấy gì không?” Jo cắt ngang. Họ im lặng lắng nghe tiếng sấm rền vang từ phía Tây Nam.

“Vẫn còn xa lắm,” Gabe nhận xét.

“Nhưng đoạn đường từ đây đến chỗ đậu xe xa phết.” Jo bước ra khỏi hồ. Cô không thích tiếng đì đùng từ xa vọng lại, tần số của nó cùng chớp sáng báo hiệu một cơn bão đang manh nha tiến tới.

“Con ăn phần bánh mì của con được không ạ?” Ursa hỏi.

“Tranh thủ ăn trong lúc chú Gabe và cô thay đồ nhé,” Jo nói.

Vào lúc hai người họ chỉnh tề quần áo và Ursa đánh chén xong phần bánh mì của mình, khu rừng đã nhập nhoạng tối và tiếng sấm chớp to hơn hẳn.

“Cơn bão di chuyển nhanh quá,” Gabe nói.

“Những cơn bão kiểu này là tệ nhất,” Jo lo lắng.

Họ tìm cách men theo rìa sông lởm chởm đá để tránh cây cỏ um tùm ven sông, nhưng càng lên thượng nguồn, nước càng chảy siết, thành thử họ phải đổi hướng vào rừng. Gió rít vù vù trên ngọn cây, và nhiệt độ hạ xuống chục độ là ít. Bầu trời chuyển hẳn sang màu tối xanh.

“Cứ như ban đêm ấy!” Ursa thốt lên.

“Ngồi thụp xuống hay chạy đây?” Gabe hỏi Jo.

“Tôi cũng không biết nữa.”

“Chạy thôi!” Ursa quyết định. “Sợ quá, trời ơi!” Con bé vừa chạy vừa la hét ỏm tỏi, nhưng Jo cảm nhận được sự thích thú của nó trước sấm chớp đì đùng và cơn mưa bất chợt xối xả trút xuống. Gió chớp ngày càng đáng sợ. Khi nhận thấy cành cây bắt đầu răng rắc, Jo quanh quất tìm chỗ trú nhưng chẳng thấy đâu.

“Gần đến rồi,” Gabe la to trong màn sấm chớp kèm gió giật. “Jo!”

Jo dừng chân và quay lại. Gabe đang quỳ trên đất, phía dưới là Ursa. Jo ngay lập tức chạy về phía họ, tim đập loạn xạ trong lồng ngực trước cảnh Ursa thõng thượt trong đám cỏ, khuôn mặt vô hồn, mắt nhắm nghiền. “Con bé trượt chân à?”

Anh đưa tay lên vén mái tóc ướt của Ursa và cho Jo xem vết máu.

“Nhành cây quật phải con bé.”

Nhành cây ấy to bằng bắp tay cô. Jo quỳ xuống cạnh Ursa và lay hai má con bé. “Ursa? Ursa? Con nghe thấy cô nói không?”

Con bé mở mắt nhưng vô định.

“Mình phải đưa cô bé đến bệnh viện thôi,” Gabe nói. Anh vòng tay qua người con bé và bế nó lên. Jo chạy trước mở cửa xe.

Anh để Ursa nằm trên băng ghế sau. “Cô ngồi với cô bé đi. Tôi biết bệnh viện gần nhất nằm ở đâu.”

“Ở đâu cơ?”

“Marion. Tôi từng đến đó cùng bố mẹ mình.” Anh lấy chìa khóa và đưa Jo chiếc áo thun dư trong ba lô của mình. “Dùng chiếc áo này chèn lên vết thương nhé.”

Jo đặt đầu Ursa gối lên đùi mình và dùng chiếc áo bịt lên miệng vết thương trên đầu cô bé trong lúc Gabe lái xe. Cần gạt nước điên cuồng dao động dưới màn mưa, sấm chớp thi nhau tấn công chiếc xe. Tất cả tựa hồ như nỗi sợ hãi trong cô đang phát lộ thành hình ảnh.

Ursa cố gắng tìm cách ngồi dậy. “Con đang bị thương,” Jo nói. “Đừng ngồi dậy.”

“Con không sao. Cây quật vào người con.” Con bé nhỏm đầu dậy và nhìn Gabe. “Sao chú Gabe lại lái xe của cô vậy?”

“Vì chú biết bệnh viện ở đâu,” anh giải thích.

“Con không muốn đến viện!” Jo không tài nào giữ con bé lại. “Con muốn về nhà! Con không muốn đến bệnh viện!”

“Con đã bất tỉnh ít nhất mười giây đấy,” Gabe nói. “Có thể não con đã bị chấn động, chưa kể có khi mình phải khâu vết thương nữa.”

“Con chỉ đùa thôi mà! Con không bất tỉnh thật đâu!”

“Đừng nói dối,” Jo đáp.

“Mọi thứ sẽ ổn thôi mà,” Gabe trấn an.

“Không có gì ổn hết!”

Con bé nói đúng. Sẽ không có gì là ổn khi họ đến bệnh viện. Họ biết giải thích lý do tại sao Ursa lại ở trong rừng với họ thế nào đây? Trường hợp tệ hơn, con bé đã sống ở Nhà Kinney gần hai tuần. Nếu phía trường đại học phát hiện, Jo xem như lên đoạn đầu đài.

“Cảnh sát có đến không ạ?” Ursa hỏi. Con bé cũng nghĩ những điều tương tự như cô.

“Ừ, có lẽ cảnh sát sẽ đến,” Gabe nói.

“Họ sẽ bắt con rời xa mọi người!” Ursa bù lu bù loa. “Con không chịu đâu!”

Jo cố gắng ôm con bé dỗ dành nhưng nó đẩy cô ra.

“Chú xin lỗi,” Gabe ôn tồn. “Nhưng cô chú phải làm điều tốt nhất cho con, dù con không muốn đi chăng nữa.”

Ursa lặng thinh không đáp, nước mắt lã chã rơi trên má. Mưa và sấm chớp đã ngớt, âm thanh duy nhất vang vọng trong chiếc xe là tiếng cần gạt nước trên kính chắn gió thỉnh thoảng xoèn xoẹt. Đến ngoại ô Marion, Gabe dần giảm tốc sau một chiếc xe ở dưới biển báo dừng đỗ. Trước khi chiếc Honda kịp dừng hẳn, Ursa tháo dây an toàn, gạt khóa xe và đóng sầm cửa lại khi nó vọt chạy ra ngoài. Jo vội vàng nhào qua ghế nhưng cô bé đã kịp ào vào rìa khu rừng rậm rạp. Đến lúc Jo chạy đến hàng cây um tùm, Ursa đã biến mất dạng. “Ursa!” Cô hét lên. “Ursa, con quay lại đây đi!”

Gabe bước vào bụi cây, tìm kiếm xung quanh. “Chắc chắn con bé đang trốn ở đâu đó quanh đây thôi. Nó chưa đi xa được.” Anh tiến một đoạn vào rừng rồi dừng lại. “Ursa, chú biết con nghe thấy chú!” Anh hô vang. “Con ra đây đi và chúng ta cùng bàn về chuyện này, được không?”

“Ursa, cô xin con!” Jo la lớn. “Con ra đây đi!”

Hai người bọn họ tìm kiếm phía sau những thân cây đủ to để con bé có thể ẩn nấp.

“Kiểu này thì con bé vẫn đang chạy rồi,” Jo lo lắng. “Còn lâu mình mới tìm được nó!”

“Ursa!” Gabe vận hết sức bình sinh hét to. “Nếu con ra đây, chúng ta sẽ không đi bệnh viện nữa.”

Họ chờ đợi. Mưa từng hạt tí tách rơi từ trên những tán cây. Một chú chim sơn cước cất tiếng hót vang.

“Con bé đi rồi,” Jo buông thõng.

“Có lẽ vậy.” Anh thấy Jo như chực khóc. “Mình sẽ tìm ra con bé thôi. Giờ ta lái xe theo hướng nó đi là được.”

“Chú có hứa không ạ?” Ursa lên tiếng từ sau lưng họ.

Cả hai giật mình quay người lại. Con bé đang đứng ngay mép bụi cây ven đường.

“Con sẽ bỏ chạy tiếp nếu cô chú không hứa đưa con về nhà,” con bé đe dọa.

“Nhưng… nhà của con ở đâu?” Gabe hỏi.

“Nhà của con ở trên Trái Đất là chỗ của cô Jo!” Con bé la lớn.

“Ursa…”

“Cô chú không phải bạn bè của con nếu cô chú chỉ hứa lèo! Chú bảo mình không đi bệnh viện cơ mà!”

“Mình sẽ không đi nữa,” Jo nói.

“Cô hứa chứ?”

“Ừ, cô hứa.” Jo chậm rãi tiến về phía con bé để nó bình tĩnh trở lại. “Đầu con sao rồi?”

“Ổn rồi ạ.”

Khi Jo đến chỗ con bé, cô vạch tóc nó ra để kiểm tra vết thương. “Anh nhìn này, con bé hết chảy máu rồi,” cô bảo Gabe.

“Vì con bé có cái đầu cứng nhất mà tôi từng thấy. Ban nãy con chạy đi đâu vậy?”

“Trong ống sắt ạ,” Ursa thành thật. “Ở đằng này.” Ursa dẫn Jo và Gabe vào bụi cây và chỉ vào đầu một ống cống thép lượn sóng, nước mưa đang xối xả tuôn ra. Họ có lên trời cũng không thể tìm thấy con bé ở đó.

“Tôi đầu hàng rồi,” Gabe chịu thua. “Cô bé ngoài hành tinh này hơn tôi một cái đầu rồi.”

“Bây giờ mình về nhà được không ạ?” Ursa năn nỉ.

“Ừ, giờ mình về thôi,” Jo nhẹ nhàng đáp.