Chương 16
Jo còn chưa kịp dừng chiếc Honda của mình thì Ursa đã nhảy bổ ra ngoài, chộp lấy một que củi ném cho Gấu Nhỏ. Suốt chặng đường về nhà, con bé cứ líu lo mãi không thôi, cố gắng chứng tỏ vết thương trên đầu chỉ là chuyện bé như mắt muỗi.
Jo mở khóa cửa ra vào. “Ursa, con vào bồn tắm đi.”
“Ý cô là tắm vòi sen ạ?” Ursa hỏi lại.
“Không, cô không muốn con tắm đứng.”
“Con vẫn ổn mà.”
“Chắc chắn đầu con vẫn đang đau. Cứ làm như cô bảo đi. Cô sẽ tắm cho con.”
“Không cần phải thế đâu ạ,” Ursa đáp, nhưng con bé vẫn ngoan ngoãn bước vào trong.
Gabe vẫn mặc trên người chiếc áo dính máu, cất ba lô của anh ra sau xe tải. “Con bé nhìn không đến nỗi nào.”
“Tôi nghĩ nó cố gồng như vậy thôi,” Jo e ngại.
Anh để chiếc áo đầy máu Jo dùng để chèn vết thương cho Ursa bên cạnh ba lô.
“Anh có quay lại sau khi tắm rửa không?” Cô hỏi.
“Cô có muốn vậy không?”
“Có. Nhỡ đâu nửa đêm tôi không thể đánh thức con bé hay điều gì đó tương tự thì sao?”
“Đó là rủi ro chúng ta phải chịu khi chiều theo ý con bé.”
“Trời ơi… Tôi đang lo đến đứng ngồi không yên đây.”
Anh nhẹ nhàng chạm lên tay cô. “Lát nữa tôi quay lại.”
“Anh cứ ở lại dùng bữa tối với chúng tôi đi,” cô mở lời.
“Cô có chắc nhà còn đủ đồ ăn không đấy? Hôm qua, lúc tôi cất dọn đồ, tủ lạnh nhà cô nhìn trống trơn lắm.”
“Tôi biết. Nên chúng ta sẽ đem trứng hôm qua anh mang qua ra chiên.”
“Tôi sẽ mang thứ gì đó qua nấu. Để tôi lo bữa tối cho. Nhìn cô rã rời lắm rồi.”
“Anh cũng vậy chứ có khác gì tôi đâu.”
Nụ cười mệt mỏi của anh xác nhận lời cô nói. “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. Lát gặp lại nhé.”
Jo cởi đồ của Ursa ra và cho con bé ngâm mình trong bồn nước ấm. Sau khi rửa sạch vết thương trên đầu, cô đưa nó chiếc khăn được thấm xà phòng và để con bé tự rửa ráy người. Ursa bước ra khỏi nhà tắm với bộ đồ ngủ Hello Kitty màu hồng mà nó và Gabe đã mua ở sân bán đồ giảm giá. Con bé không chịu nằm yên trên sô pha trong lúc Jo tắm nhưng cô bắt nó phải nghe theo bằng được.
Jo tắm rửa, thay quần đùi áo thun. Lúc cô ra khỏi phòng tắm, Gabe đã có mặt trong nhà bếp để nấu ăn. “Mong rằng cô không phiền khi Ursa cho tôi vào,” anh nói. “Tôi muốn chuẩn bị bữa tối càng sớm càng tốt.” Anh đang nêm nếm món gà nướng trong chảo, ngoài ra, anh còn mang theo bánh mì trộn [20] để nướng trên lò.
“Trông có vẻ rất ngon đấy,” Jo nhận xét.
“Con bảo con muốn làm bánh mì trộn nhưng chú không chịu,” Ursa nói.
“Vì con cần nghỉ ngơi cho khỏe mà,” Gabe dặn dò. “Quay lại ghế sô pha đi.”
“Con có phải người tàn phế đâu chứ,” con bé lẩm bẩm trong lúc quay trở lại phòng khách.
“Tàn phế,” Gabe lặp lại. “Đến cả chị gái tôi cũng ít dùng từ này, trong khi chị ấy viết sách đấy.”
“Chị Lacey thế nào rồi?”
“Khạc ra lửa, như cách thỉnh thoảng mà người dân ở đây vẫn hay nói.” Anh đổ phần nhân đã được nhồi vào hỗn hợp nước và bơ tan chảy. “Tôi nghĩ chị ấy nghi ngờ tôi đã sát hại ai đó.”
“Ừ nhỉ, áo anh dính máu. Thế anh giải thích với chị ấy ra sao?”
“Tôi bảo Ursa bị thương. Và tiếp theo là một bài giảng về lý do tôi không nên lang thang với con cái nhà người khác. Chị ấy dọa sẽ báo cảnh sát.”
“Chị ấy có làm vậy không?”
“Có trời mới biết được chị Lacey nghĩ gì.”
“Chị anh có nói gì lúc anh rời khỏi nhà không?”
“Chị ấy yêu cầu tôi chấm dứt trò bồng bột non trẻ, chị ấy gọi như vậy, và ngoan ngoãn ở nhà. Rồi chị ấy đế thêm việc ngày mai khi sáng ra, dù trời long đất lở thế nào cũng sẽ rời khỏi đây cho bằng được.”
“Tối nay anh có phải về nhà không?”
Anh ngừng khuấy và quay sang nhìn thẳng vào cô. “Cô bảo tôi ở lại đêm nay, nên tôi sẽ ở lại.”
“Đó là trong trường hợp anh muốn vậy.”
“Tôi muốn vậy mà. Tôi cũng lo cho Ursa.”
“Để tôi giúp anh chuẩn bị bữa tối. Chắc mình cần thêm chút rau.”
“Tôi chuẩn bị rồi đây. Chị Lacey và mẹ tôi có món đậu Hà Lan với bắp còn dư trong tủ lạnh. Chỉ cần hâm nóng là được.”
Một tiếng sau, ba người họ ngồi vào bàn ăn tối với món gà nướng, bánh mì trộn và rau. Gabe mang theo hộp kem vị sô-cô-la đã ăn dở làm món tráng miệng. Jo no đến mức không ăn nổi nhưng Ursa và Gabe mỗi người vẫn ăn thêm một tô kem đầy. “Hóa ra cú đánh vào đầu không ảnh hưởng gì đến khẩu vị của con nhỉ?” Gabe nói với Ursa.
“Con đã bảo con không cần đi bệnh viện rồi mà,” con bé đáp.
“Trời, con đã hù cô chú một phen xanh mặt đấy. Rừng ma thuật thật đáng sợ.”
“Không phải lỗi của khu rừng đâu,” Ursa chữa lại. “Con đã khiến nó xảy ra mà.”
“Con đã khiến cho một cành cây rơi trúng vào đầu mình và suýt chút nữa thì tiễn con về trời ư?”
“Điều này không giết được con đâu. Nhưng như những gì con nói với cô Tabby và cô Jo ấy, thỉnh thoảng họa phải đến thì phúc mới vào được.”
“Thế phúc ở đây là gì?” Gabe hỏi.
“Là đêm nay chú ở lại đây.”
“Con biết chú sẽ ở lại nếu con bị thương sao?”
“Con không biết cách thức chính xác ra sao. Mọi chuyện cứ xảy ra như vậy thôi. Người Hetrayeh phát ra những hạt vô hình, giống như hạt quark [21] nhưng khác nhau về bản chất, khiến điều tốt đẹp xảy ra khi bọn con gặp những sinh vật Địa Cầu mà bọn con có cảm tình.”
Anh đặt muỗng xuống cái đĩa sạch trơn trước mặt. “Vậy chắc hạt quark này phát ra năng lượng tích cực hay gì đó.”
“Chúng có thể thay đổi số phận con người.”
“Có gì tốt về việc chú ở đây qua đêm chứ?”
“Cô Jo và con đều thích chú.” Con bé nhấc tô lên, húp cạn phần kem chảy. “Chú cũng đâu muốn ở cùng một mái nhà với người chị gái xấu tính của chú đúng không ạ? Thế nên lợi cả đôi đường.”
“Cô nghĩ thế nào, thưa nhà khoa học?” Anh hỏi Jo.
“Tại sao không chứ? Chúng ta không thể thấy được trọng lực, nhưng nó vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta đấy thôi.”
“Đúng thật.” Anh đứng dậy và chồng tô kem của Ursa lên tô mình. “Khéo ngày mai chú lại tìm thấy một triệu đô-la dưới gối ấy chứ.”
“Chắc không đâu ạ,” Ursa nói.
“Vì sao thế?”
“Vì hạt quark biết điều chú thật sự muốn là gì.”
“Vậy có nghĩa là chú không ham một triệu đô à?”
“Con không nghĩ thế.”
“Chán thật.” Anh bước đến bồn và rửa nốt hai chiếc tô.
“Cô có thứ thuốc mà người Trái Đất gọi là Motrin không ạ?” Ursa hỏi Jo.
“Con bị đau đầu à?”
“Hơi hơi thôi ạ.”
“Đừng nói dối cô. Có đau lắm không?”
“Cũng khá đau ạ.” Con bé thấy Jo và Gabe đưa mắt nhìn nhau. “Con sẽ khỏe lại ngay mà. Con nghe nói một chiếc khăn lạnh với Motrin là đủ.”
Có lẽ trong quá khứ, con bé từng được chữa như vậy. Ai đã chăm sóc con bé lúc nó bị bệnh? Và tại sao người đó lại không trình báo nó mất tích?
Hai người bọn họ đưa Ursa ra ghế sô pha, cho con bé uống Motrin, đặt nó nằm xuống, đắp khăn lạnh lên mắt và trán. Họ tắt đèn rồi đốt hai cây nến của Ursa. Trong chớp mắt, con bé đã ngủ say. Jo ngồi trên ghế nhìn nó thở phập phồng.
“Cô không thể cứ ngồi đấy cả đêm được,” Gabe lên tiếng.
“Tôi phải ở bên cạnh con bé.”
“Để tôi bế nó vào giường cô.” Anh đưa con bé vào phòng ngủ đầu tiên và nhẹ nhàng đặt xuống tấm nệm đôi trên sàn gỗ. Anh kéo chăn đắp cho con bé, cẩn thận phủ kín vai. Anh lùa những lọn tóc lơ thơ phủ xuống mặt đứa trẻ. Khi ngẩng đầu lên, anh bắt gặp nụ cười của Jo. “Cô có tính đi ngủ luôn không?” Anh hỏi.
“Tôi sẽ thức lâu nhất có thể để canh con bé.”
“Cô có phiền nếu tôi ngồi cạnh giường không?”
“Không phiền đâu.” Cô lấy hai cây nến và để một cây lên nóc tủ, cây còn lại đặt lên chiếc bàn được kê phía đầu giường. Cô ngồi trên nệm, đối diện với Ursa, còn Gabe ngồi trên sàn, phía bên kia con bé.
“Ngày hôm nay của tôi rất vui,” anh lên tiếng. “Tất nhiên là trước khi Ursa bị thương.”
“Anh chịu đựng thời tiết nóng bức, côn trùng và cây cối rậm rạp rất tốt.”
“Chưa kể đến đám tầm ma tua tủa nữa.”
“Ôi, chúng thì khỏi phải nói.”
Họ rơi vào im lặng. Anh cầm cuốn sách bên cạnh Ursa lên xem. Lò sát sinh số năm, anh đọc tên cuốn sách và lật nó ra trong tay. “Tôi chưa bao giờ thấy bản bìa cứng. Cuốn sách này có từ khi nào vậy?”
“In năm 1969, năm phát hành lần đầu.”
Anh ngước lên nhìn cô. “Với bìa nguyên gốc sao? Cuốn sách này trị giá cả kho tài đấy!”
“Tuy không còn ở tình trạng tốt nhất, nhưng cuốn sách này vẫn là vô giá. Nó là đồ vật cha truyền con nối đấy, từ đời ông tôi, đến bố tôi, anh trai tôi rồi lại được trao cho tôi. Mẹ tôi cũng đọc cuốn sách này nhiều hơn một lần.” Cô với qua người Ursa, lấy cuốn sách để lên chân. “Cuốn sách này rất hay xuất hiện trong các cuộc nói chuyện của gia đình chúng tôi,” cô hoài niệm, vuốt ve bìa sách. “Nhà tôi ai cũng thích.”
“Bố tôi chắc ngưỡng mộ lắm.”
“Ngưỡng mộ gì?”
“Việc anh em cô có thể kết nối với bố mẹ thông qua sách vở.”
Phải, và mối dây gắn kết không chỉ có ở cuốn sách này. Cô thừa hưởng hầu hết sách vở ngày xưa từng thuộc về bố mẹ cô, và tối nào cô cũng lôi chúng ra đọc dăm ba đoạn trước khi đi ngủ hoặc những lúc cảm thấy khó vào giấc. Lúc đọc, ngón tay cô chạm nhẹ lên những trang giấy mà ngày trước bố mẹ cô từng chạm vào, khiến cô cảm giác hai người họ tựa hồ đang ở bên cạnh.
“Nhà cô có vẻ thú vị, bởi mọi người đều thích một cuốn sách dị thường như thế này.”
“Gia đình tôi thú vị lắm,” cô đồng tình. “Thành thật mà nói thì có đôi phần lập dị, nên điều đó thỉnh thoảng khiến anh em tôi khó hòa đồng với bạn bè đồng trang lứa.”
“Tại sao?”
Cô ngẫm nghĩ vài giây. “Trước khi tham gia ngành sinh học thực địa, tôi để ý thấy rằng hầu hết những nhà khoa học làm việc ngoài môi trường tự nhiên đều có chút gì đó khác người. Có thể nguyên nhân là vì họ đã quay lưng với những tiện nghi xã hội trong khoảng thời gian quá lâu. Nhưng không phải họ chối bỏ xã hội, mà là họ cần như thế. Đối với những người như vậy, thế giới thiên nhiên là trải nghiệm tinh thần thiết yếu.”
Đôi mắt lấp lánh dưới ánh nến của anh nhìn cô thật lung.
“Ba mẹ tôi là một trong số đó. Họ hiếm khi tạo điều kiện cho anh em tôi làm những điều con nít hay làm, ví dụ như đi công viên giải trí hay đi du lịch ở biển. Cuối tuần, gia đình chúng tôi đi bộ đường dài, chèo thuyền kayak, đi tìm kỳ nhông hoặc tìm hóa thạch. Chúng tôi thường đi cắm trại vào kỳ nghỉ, thỉnh thoảng đến những nơi xa xôi như Maine để ngắm hải âu rụt cổ hoặc đến Utah chiêm ngưỡng cột đá. Và đến bất cứ nơi nào, chúng tôi cũng đều đào bới đất đá để tìm khoáng thạch và đá quý.”
“Tuyệt quá!” Anh thích thú.
“Thú vị lắm. Anh phải thấy bộ sưu tập của gia đình chúng tôi cơ. Lòng đam mê địa chất học của bố tôi truyền sang cả nhà, ông gần như phát cuồng với nó. Thấy khung cảnh nào xung quanh là y như rằng ông lại hào hứng phân tích địa chất. Nghe có vẻ tẻ nhạt, nhưng thực ra vô cùng thú vị. Cái cách ông mô tả các nguồn lực của tự nhiên tạc nên dáng hình Trái Đất thi vị chẳng kém gì thơ ca.”
“Bố cô thú vị thật đấy.”
“Đúng thế. Còn mẹ tôi cũng là một nguồn lực của tự nhiên, nhưng bà tựa như một con suối lăn tăn êm ả. Nếu tôi gặp chuyện không vui trên trường hoặc với bạn bè, bà luôn biết cách giúp tôi cảm thấy mọi thứ chỉ là chuyện cỏn con và giúp tôi có một ánh nhìn tích cực. Còn khu vườn của bà… Nó đẹp đến vô ngần, là tuyệt cảnh hòa quyện giữa hoa, hồ nước và cây cối ở vùng ngoại ô. Nó đẹp đến độ cô bạn Tabby của tôi phải thốt lên rằng cô ấy dám cá trong vườn nhà tôi có thần tiên trú ngụ.”
“Gia đình cô sống ở đâu?” Anh hỏi.
“Evanston. Bố tôi dạy học gần mạn Tây Bắc.”
“Thật sao? Không xa chỗ bố tôi dạy học cho lắm.”
“Với dân Chicago, thế là xa rồi,” cô đáp. “Anh có sống trong thành phố thời bố anh còn dạy ở Đại học Chicago không?”
“Chúng tôi sống ở Brookfield, trong căn nhà mà bố tôi lớn lên. Cô có biết vùng đó không?”
“Có. Tôi từng đến Sở thú Brookfield vài lần.”
“Nhà tôi cách sở thú chưa tới một cây số.”
Cô nhìn xuống cuốn sách đang đặt trong lòng mình. “Lạ thật đấy…”
“Cái gì lạ?”
“Lần đầu tiên mua trứng ở chỗ anh, có nằm mơ tôi cũng không tưởng tượng nổi chúng ta lại có nhiều điểm chung đến thế.”
“Chứ cô nghĩ tôi chỉ là một kẻ đầu óc ngu si xách súng ra hù à?”
“Tôi không biết anh là người ra sao cả.”
Họ không biết nói gì thêm, nhưng sự im lặng không khiến họ cảm thấy ngột ngạt. Jo đứng dậy, cất sách lên đầu giường. Cô mang chăn gối từ ghế sô pha trong phòng khách để lên giường cạnh Ursa. “Nhìn anh mệt rồi,” cô nói. “Anh nằm nghỉ chút nhé?”
“Cô chắc chứ?”
“Hai ta cùng ở đây sẽ dễ chăm sóc con bé hơn. Bất cứ khi nào tỉnh dậy, anh có thể kiểm tra tình hình của nó, tôi cũng vậy.”
“Tôi nghĩ con bé không sao.”
“Nó thiếp đi nhanh quá, và nãy giờ, trong suốt lúc chúng ta nói chuyện, con bé không động đậy gì.”
“Vì con bé mệt lử rồi.”
“Đúng thế. Vậy thôi, tôi sẽ để nó ngủ yên.”
“Tôi đồng ý.”
Jo đặt đồng hồ báo thức lúc bảy giờ sáng và thổi tắt hai cây nến. Cô ngả lưng xuống nệm và nghe tiếng anh sột soạt tương tự phía bên kia Ursa.
“Anh nằm có thoải mái không?” Cô hỏi.
“Đủ để ngủ say.”
Tiếng máy lạnh chạy ro ro bên ngoài cửa sổ. Cô mong âm thanh đó không làm anh thức giấc. Cô thích tiếng đồng cỏ cùng rừng cây ban đêm, nhưng không gian nóng nực và ẩm thấp thì cô lại đâm khó ngủ.
“Tôi xin lỗi vì đã kể tràng giang đại hải về gia đình mình,” cô lên tiếng.
“Có gì mà xin lỗi chứ. Tôi thích nghe mà,” anh đáp.
“Khi nào anh kể thêm cho tôi nghe về bố mẹ của anh nhé. Lớn lên với một thi sĩ và một giáo sư văn học trong một căn nhà gỗ ở rừng hẳn là thú vị lắm.”
Sau một khoảng im lặng, anh lên tiếng, “Ừ, cũng vui đấy, nhưng không theo cách cô nghĩ đâu.”
Jo nhỏm dậy trên khuỷu tay và căng mắt nhìn anh trong bóng tối. “Ý anh là?”
“Không có gì.” Anh xoay lưng về phía cô.