← Quay lại trang sách

Chương 17

Có tiếng cành cạch vang lên ngoài cửa sổ. Jo mở mắt, cố truy ra tiếng động mình vừa nghe thấy cho đến khi tiếng sấm rền vang tiếp tục làm khung cửa rung lên bần bật. Cô đặt tay lên người Ursa để chắc chắn con bé vẫn thở đều và nhấc điện thoại lên. Sáu giờ ba phút. Đợi thêm vài phút, điện thoại cô có đủ tín hiệu để kiểm tra thời tiết. Tàn dư của cơn bão nhiệt đới trong Vịnh đang đánh vào phía Nam Illinois, và dự báo cơn mưa còn kéo dài ít nhất đến trưa. Sấm chớp đì đùng đằng xa.

“Đúng thứ ta cần, lại một cơn bão nữa,” Gabe lên tiếng.

“Đúng thứ ta cần. Thế này thì chôn chân trong giường thôi. Vậy cũng tốt cho Ursa.” Cô tắt báo thức trên điện thoại của mình.

“Cô không làm việc khi trời mưa à?”

“Đang mưa gió bão bùng mà lôi chim ra khỏi tổ của chúng thì không hay lắm.”

“Cũng có lý.”

“Chú Gabe ơi?” Ursa ngái ngủ. Con bé ngồi dậy, nhìn anh với vẻ mặt mệt mỏi.

“Con ngủ thêm đi,” Jo khẽ nói. “Trời đang mưa. Chúng ta không đi thực địa nữa.”

“Tốt quá.” Con bé xoay người, vòng tay ôm lấy Gabe và lại nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

“Chà, kiểu này tôi không dậy được rồi,” anh nhận xét.

“Đúng thế,” Jo đồng tình. “Sáng ngày ra mà mưa là tuyệt nhất.”

Họ ngủ vùi thêm hai tiếng. Ursa thức dậy đầu tiên, một tay đặt lên Jo, tay còn lại đặt lên Gabe. “Cứ như tổ chim ấy. Con cảm thấy mình như một chú chim non.”

“Chắc con cũng đang cảm thấy đói như chim non đúng không?” Jo hỏi.

“Dạ phải, nhưng con không muốn rời tổ.”

Gabe nhỏm dậy. “Nửa tổ chim của con sẽ đi vệ sinh.”

“Chú Gabe!”

“Xin lỗi chim non nhé. Tôi đi pha chút cà phê. Cô cứ ngủ thêm đi,” anh nói với Jo.

“Thôi,” cô đáp. “Tôi cũng có ý định tương tự mà.”

Tổ chim của Ursa dịch chuyển vào nhà bếp, và chú chim non được thỏa thích ăn bữa sáng với trứng chiên, nửa chiếc bánh muffin kiểu Anh và thêm vài lát cam. Dọn dẹp bữa sáng xong xuôi, Gabe tận dụng đồ nghề có sẵn trong xe tải để sửa bồn bếp bị nghẹt. Cuối cùng, anh tháo tung tất tần tật đường ống. Lúc anh bắt đầu lắp lại thì Gấu Nhỏ sủa nhặng ở bên ngoài. Đứng từ hiên nhà, Jo nhìn thấy Lacey đậu chiếc SUV màu bạc của mình bên cạnh xe tải của Gabe. Chị ta bước đến trước hiên, mặc mưa tí tách rơi và Gấu Nhỏ gầm gừ đầy đe dọa. “Tôi cần gặp Gabe,” bà tuyên bố rồi sải bước vào nhà.

“Chị vào đi,” Jo nói với bóng lưng của bà. Lacey dừng chân ở lối vào căn bếp. Bà nhìn cảnh Gabe đang bò lăn bò toài trên sàn gắn ống nước, còn Ursa đang ngồi ở bàn vẽ chim sẻ đất màu chàm bằng những cây bút chì màu mới. “Trông cứ như bức tranh gia đình đoàn viên ấy nhỉ?” Lacey lên tiếng.

Vẻ mặt của Ursa như thể vừa trông thấy quỷ núi vừa bước vào phòng, còn Gabe vội vã đứng bật dậy.

“Hóa ra đối với cậu, bồn bếp nhà cô này bị hỏng còn quan trọng hơn chuyện tôi sắp rời đi phải không?” Lacey gằn giọng.

“Chắc vậy chị ạ,” anh chỏng lỏn.

Lacey quay sang Ursa. “Nghe bảo hôm qua con bị thương đúng không?”

Cô bé khẽ gật đầu.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?”

Ursa nhìn Jo đầy lo lắng. “Cơn bão kéo đến. Cành cây rơi xuống…”

“Bố mẹ con có nói gì về chuyện đó không? Chắc họ lo lắm.”

“Đó là lý do chị đến đây à?” Gabe cắt ngang.

“Có vài lý do đấy,” Lacey đáp. “Nhờ ơn cậu càn quét căn bếp đêm qua, bây giờ chúng ta phải mua thêm thực phẩm.”

“Trong tủ đông to tướng còn ê hề thức ăn,” anh đáp.

“Chậc, nhưng trong tủ đông không có giấy vệ sinh, mà ta thì cần, được chưa? Hơn nữa, mẹ hết kem bôi eczema rồi. Bà đang bực mình vì cậu chưa mua cho bà kia kìa.”

“Khi nào xong việc ở đây, em sẽ đi mua,” anh trả lời.

“Quá trễ rồi. Giờ tôi đang đi đây.”

“Em tưởng chị sẽ rời đi?”

“Tôi cũng định thế, nhưng nhà cửa còn biết bao thứ phải lo trong khi cậu lo chuyện bao đồng ở Nhà Kinney.” Hất đầu về phía bồn rửa, Lacey nói, “Ông George sẽ rất biết ơn khi cậu sửa nó đấy. Sao cậu không đăng tuyển vị trí cánh tay phải của ông ta luôn đi?”

Lacey hừ mũi trước khi rời khỏi căn phòng, và chẳng hiểu sao, ánh mắt Gabe trở nên vô hồn đến lạ. Anh quay đi, nhìn trân trân ra bên ngoài cửa sổ, tay siết chặt mép bồn rửa. Gấu Nhỏ sủa oang oang khi Lacey bước qua, để rồi sau đó, khi Gabe quay mặt lại, tất cả những dấu vết của sự tức giận, hoặc bất cứ cảm xúc nào, đã bốc hơi khỏi đôi mắt của anh.

“Chị ấy lôi chuyện cánh tay phải của thầy George Kinney ra nói là có ý gì thế?” Jo hỏi anh.

“Chị ấy độc mồm độc miệng thôi ấy mà.” Anh ngồi xuống sàn, tiếp tục sửa ống nước.

Trong suốt khoảng thời gian hai tiếng sau đó, Jo nhập dữ liệu thông số về tổ chim vào laptop, còn Gabe chỉ Ursa cách chơi tú lơ khơ bằng bộ bài cũ. Hai giờ rưỡi, trời vẫn mưa xối xả, Jo đành từ bỏ buổi thực địa. Cô cần tận dụng thật tốt ngày nghỉ này để đến tiệm giặt ủi và cửa hàng bách hóa.

Jo hỏi Gabe xem liệu anh có thể trông Ursa không. Cô không muốn đưa con bé bén mảng đến gần trạm cảnh sát trưởng Vienna, chẳng may chạm mặt cảnh sát Dean thì chẳng khác nào tình ngay lý gian. Nếu Ursa bị cảnh sát đưa đi, họ phải đáp ứng đúng yêu cầu của cô. Mặc dù vậy, cô ý thức rất rõ việc cô bé ngoài hành tinh kia không bằng lòng thì còn lâu mới xong.

Jo nhét hai chiếc khăn lau bếp bẩn vào túi đồ giặt chưa gì đã căng đầy cùng với quần áo của Ursa. Gabe ngồi cùng con bé ở bàn bếp, đợi canh cà chua sôi. Anh dạy con bé cách chơi bài xì phé, hai chú cháu dùng bánh quy mặn làm phỉnh cá cược.

“Đầu tiên là súng ống, giờ là bài bạc,” Jo lên tiếng. “Đúng là gần mực thì đen.”

“Không lâu đâu,” anh đủng đỉnh. “Chúng tôi buồn mồm ăn gần hết tiền rồi.”

“Tôi xin lỗi về việc nhà không còn gì để ăn nhé,” cô nói. “Tôi sẽ đi mua thật nhiều nguyên liệu về.”

“Cô đừng quên nui và phô mai nhé!” Ursa reo lên. Con bé trải năm lá bài trong tay lên bàn. “Con có ba con át. Con thắng chú rồi!”

“Đừng ăn gian bằng hạt quark nữa mà!” Anh than vãn.

Khi vào đến thị trấn, Jo gọi salad trứng và thịt ở một quán cà phê gần tiệm giặt ủi. Cô bâng quơ nhìn nhịp sống rộn ràng có phần thong dong của thị trấn nhỏ, cảm thấy thật thư giãn khi ngồi một mình. Suốt năm vừa rồi, vào những phút giây trầm lắng, cô thường dằn vặt về những người đã ra đi, bố cô, mẹ cô hay thậm chí là bản thân cô trước lúc phẫu thuật. Còn hôm nay, cô hướng dòng suy tư của mình về những người tràn đầy nhựa sống, Ursa và Gabe. Cô như trút được hòn đá tảng nặng nề khi đầu của Ursa dần bình phục, cảm giác an tâm ấy lan tỏa khắp người. Jo tự hỏi liệu điều gì sẽ xảy ra nếu bọn họ đưa con bé đến bệnh viện, còn cô và Gabe sẽ bị cảnh sát tra hỏi như thế nào. Dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, cô chắc chắn một điều rằng: Ursa sẽ không còn cơ hội ở bên cạnh cô nữa. Cô thật sự không muốn tưởng tượng đến phút giây Ursa bị ép phải rời khỏi cô và Gabe. May thay, cô chìm vào dòng suy tưởng chưa lâu thì món ăn được mang ra.

Cô gấp lớp trứng trên cùng vào giữa món salad. Mới vài tuần trước, có nằm mơ cô cũng chẳng thể tưởng tượng nổi Anh Bán Trứng bí ẩn kia sẽ trở thành một phần thường nhật của mình. Điều hãn hữu như thế ắt hẳn phải do bàn tay của cô bé ngoài hành tinh kia mới xảy ra được. Cô mỉm cười, nhớ lại cảnh Ursa rúc vào người Gabe sáng nay, hoàn toàn tin tưởng vào nét hiền lành của anh.

Một cảm giác bất ngờ trỗi dậy khiến cô ngừng ăn. Ấy là sự ấm áp lan tỏa từ bên trong khi có một người đàn ông khiến trái tim cô rung rinh. Cô thấy mừng bởi cơ thể mình còn cảm nhận được điều đó. Nhưng có khi đó chẳng phải là cảm nhận của cơ thể cô mà chỉ là do đống hoóc-môn thay thế.

Sự ấm áp bị vùi dập bằng lời nhận xét như gáo nước lạnh dội thẳng vào cô. Cuộc đời đa đoan của một kẻ thừa hưởng lượng gen phân tích gấp đôi người thường. Hơn thế nữa, phải lòng Gabe chẳng khác nào cô tự làm khó mình. Nghiên cứu cô đang thực hiện là một dự án quy mô, bình thường cần ít nhất một trợ tá. Dại gì đem sự hồi phục về mặt tinh thần của mình ra đánh cược trong khi anh chẳng mảy may thể hiện chút hứng thú gì ngoài tình bạn kia chứ? Anh đã ngủ lại nhà cô những hai lần mà chẳng có động thái gì, dù là nhỏ nhất.

Không một hành động gì. Có lẽ anh không có hứng thú với cơ thể cô. Hoặc đơn giản là do căn bệnh ung thư của cô. Dù tình cảm đến đâu, có lẽ anh cũng không ham thích một người phụ nữ khuyết thiếu bộ phận bình thường. Cô đặt chiếc nĩa chỏng chơ trên miếng salad cuối cùng, trả tiền rồi rời đi.

Khi cô về đến nhà, những đám mây đen trĩu nước cuối cùng cũng đã biến mất. Khu rừng xung quanh Nhà Kinney rực rỡ, từng chiếc lá, nhành cây đều đọng nước mưa, lấp lánh tựa hồ châu báu dưới vầng dương vàng ruộm.

Gabe và Ursa không có ở nhà. Mảnh giấy anh để lại ghi lời nhắn:

Chúng tôi ra sông bắt cá bằng tấm lưới rách như tổ đỉa. Thành thử sẽ tốn kha khá thời gian. Nếu cô thích bực mình thì đến tham gia cùng chúng tôi cho vui.

Ursa cũng để lại một mảnh giấy bên cạnh với dòng chữ:

Con hy vọng cô mua bánh!!!!

Quả thật, Jo có mua một chiếc bánh táo kiểu Hà Lan cùng kem vanilla để ăn kèm. Sau khi cất đồ đạc và quần áo, cô quyết định bắt tay vào nấu mì Ý cho bữa tối thay vì ra sông. Đến khoảng bảy giờ, Ursa ào ào phi qua cánh cửa chính và hét toáng lên, “Cô có mua bánh không ạ? Con và chú Gabe bắt được những con cá rất đẹp tên là Darter đấy! Chú Gabe còn chỉ cho con đám bọ nước nữa! Chúng mang theo bóng khí dưới cơ thể để có oxy trong lúc ở trong nước.”

“Nghe tuyệt quá nhỉ?” Jo nói.

“Bọn con còn tìm thấy ấu trùng của ruồi Caddis biết xây nhà di động! Chúng tạo ra một đường ống mềm rồi đính đất cát, đá nhỏ và gỗ lên trên. Chúng dùng thứ này để bảo vệ cơ thể khỏi kẻ thù.”

“Cô từng thấy chúng rồi,” Jo đáp. “Công nhận hay thật.”

Gabe bước vào bếp và bỏ hai cái lọ đầy đất cát vào bồn, quần áo anh ướt sũng và lấm lem bùn đất, chẳng khác nào Ursa. Jo cố gạt bỏ khỏi đầu ý nghĩ rừng núi và con suối ấy hợp với anh đến mức nào. “Tôi không hề biết anh là chuyên gia nghiên cứu côn trùng dưới nước đấy,” cô cảm thán.

“Thì tôi có phải đâu,” anh đáp.

“Phải mà,” Ursa kể. “Chú ấy biết tên của tất tần tật mọi thứ cô ạ!”

“Anh tự nghiên cứu hay có ai chỉ dẫn thế?” Jo hỏi.

“Ông George Kinney dạy tôi. Mùi thơm quá. Cô nấu gì thế?” Anh nhấc nắp chảo lên.

“Xốt mì Ý với xúc xích gà tây,” Jo nhẹ nhàng đáp.

“Yay, có bánh!” Ursa reo vang, nhấc chiếc bánh lên.

“Cất bánh đi đã,” Jo dặn. “Đó là món tráng miệng. Và con chỉ được ăn khi đã ăn hết rau xanh thôi.”

Gấu Nhỏ bỗng dưng sủa loạn lên.

“Khốn thật. Lại là chị Lacey,” Gabe gằn giọng. Ba người bọn họ bước ra cửa sổ chính, và khi nhác thấy bóng dáng xe cảnh sát chạy xuống con đường trải sỏi, Ursa ngay lập tức biến mất. Jo cảm thấy câu chuyện trước kia như được tua lại khi cửa chắn ngoài hiên mở ra rồi đóng sập lại.

“Chị ta thật sự khốn nạn!” Gabe tức giận. “Tôi biết ngay mà, chị ấy ắt hẳn phải toan tính gì đó mới đích thân sang tận đây.”

“Chúng ta biết nói gì đây?”

“Nói thật, càng nhiều sự thật càng tốt.”

Jo bước ra ngoài và nạt Gấu Nhỏ thôi sủa viên cảnh sát. Gabe vẫn đứng trên lối đi phía trước. Viên cảnh sát lần này không phải K. Dean. Người này già hơn, áng chừng tuổi tứ tuần, nhưng nom thân người chắc chắn và khỏe khoắn hơn đám thanh niên đôi mươi. Đôi mắt nâu đen của ông phát ra ánh nhìn đáng ngại, sắc như dao, đầy vẻ cáo buộc.

“Cô có phải Joanne Teale không?” Viên cảnh sát hỏi.

“Phải, tôi là Joanna,” Jo đáp. “Tôi giúp gì được cho ông?”

Viên cảnh sát tiến đến gần, chẳng buồn quan tâm đến con chó nhỏ sủa ầm ĩ dưới chân, ánh mắt ông ta xoáy vào Gabe.

“Có vấn đề gì không?” Jo hỏi.

“Có lẽ tôi cần cô trình bày một việc,” tay cảnh sát lè nhè. “Tôi được trình báo trên khu đất này có một bé gái bị thương.”

“Ai đã trình báo vậy?”

“Cô cần biết để làm gì? Chỉ cần trả lời tôi trình báo đó sai hay đúng sự thật?”

“Có một cô bé hay đến khu này,” cô từ tốn trả lời. “Vài tuần trước, tôi đã báo cảnh sát về trường hợp ấy.”

Viên cảnh sát khá bất ngờ khi nghe cô trình bày như vậy.

“Một viên cảnh sát tên Dean đã đến đây,” cô nói thêm.

Ông gật đầu, vẻ mặt nặng như chì giãn ra. Rõ ràng, ông ta biết Dean.

“Nhưng cô bé nhìn thấy anh ta liền chạy mất.”

“Tại sao cô bé lại làm vậy?”

“Có thể nó sợ bị cảnh sát đưa về nhà. Trên người nó đầy vết bầm tím.”

“Cô có báo với Kyle, ý tôi là cảnh sát Dean, về việc đó không?

“Có.”

“Bé gái đó còn tới đây không?” Ông hỏi.

“Có. Đã có ai trình báo nó mất tích chưa?”

“Có người trình báo con bé gặp nguy hiểm. Lần cuối cùng cô gặp nó, nó có bị thương ở đâu không?”

“Hôm qua, con bé bị thương ở đầu. Tôi đã sơ cứu cho con bé xong rồi.”

“Vết thương đó có phải do bị bạo hành không?”

“Không. Do một cành cây rơi trúng đầu con bé trong bão.” Bụng Jo quặn lại. Hình như cô đang ba hoa quá nhiều. Nếu viên cảnh sát hỏi chuyện đó xảy ra ở đâu thì cô biết trả lời thế nào đây?

“Cô đã gặp gia đình đứa bé chưa?” Ông hỏi.

“Chưa. Tôi không biết con bé sống ở đâu, mà nó cũng không chịu nói.”

Viên cảnh sát quay sang nhìn Gabe.

“Đây là bạn tôi. Anh ấy sống cạnh khu này,” Jo giới thiệu.

“Còn cô là chủ khu đất này à?” Ông hỏi Jo.

“Tôi chỉ là người thuê thôi. Tôi đang thực hiện một bài nghiên cứu tại nơi này.”

“Nghiên cứu gì vậy?”

“Về các loài chim.”

“Chà,” ông đáp và tự mỉm cười. Đoạn ông bước đến chỗ Gabe. “Anh có gặp bé gái này chưa?”

“Rồi,” anh đáp. “Cô bé cũng đến khu đất nhà tôi,” anh giải thích, bởi anh thừa biết chính Lacey là người báo tin.

“Cô bé muốn gì?” Viên cảnh sát nói.

“Cô bé rất thích động vật.”

“Anh có biết hiện giờ đứa bé đó ở đâu không?”

“Chắc ở đâu đó quanh đây thôi,” Gabe đáp.

“Tức là có hay không?” Viên cảnh sát hỏi lại, nhìn thẳng vào mắt anh.

“Mới ban nãy cô bé còn ở đây nhưng đi mất rồi. Mà chúng tôi chịu, không biết con bé đi đâu.”

Ông gật đầu. “Cô có phiền nếu tôi vào nhà không?” Ông quay sang hỏi Jo.

Yêu cầu này nằm ngoài những gì Jo kỳ vọng. Trước giờ, cô vẫn nghĩ cảnh sát cần giấy khám xét mới được phép vào nhà người dân. Nhưng Gabe gật đầu, ý nói cô nên để ông ta vào trong. “Không vấn đề gì,” cô trả lời và mở cánh cửa ngoài hiên.

Jo và Gabe theo sau viên cảnh sát đi vào bên trong. May thay, Jo đã cất quần áo mới giặt của Ursa vào ngăn kéo. Nhưng nhỡ đâu ông ấy khám cả ngăn kéo thì sao?

Viên cảnh sát đi hết phòng này sang phòng khác, săm soi từng thứ một. Khi bước vào nhà bếp, ông chỉ vào bức tranh Ursa vẽ chim sẻ đất màu chàm được gắn bên ngoài tủ lạnh bởi nam châm. “Ai vẽ đây?” Ông hỏi.

“Đứa bé đó,” Jo đáp.

“Cô có hay cho nó vào nhà mình không?”

“Tôi hiếm khi ở nhà. Tôi thường xuyên ở bên ngoài thực hiện nghiên cứu cả ngày.”

“Tôi hỏi cô có cho nó vào nhà mình hay không?”

“Có, vì tôi thấy con bé rất tội nghiệp. Tôi nghĩ rằng gia đình con bé không chăm lo cho nó tới nơi tới chốn.”

“Cô có biết tên đứa bé đó không?”

“Nó tự xưng là Ursa Major, nhưng tôi nghĩ cái tên ấy do con bé tự nghĩ ra… vì đó là tên của một chòm sao.”

“Tôi biết nghĩa của từ đó,” viên cảnh sát đáp. Ông bước ra cửa sau và nhìn quanh khu đất trước khi bước đến cái chòi tồi tàn. Jo và Gabe đứng ở sân trước, dưới cây hồ đào, trong lúc ông loanh quanh tìm kiếm bên ngoài. Ông đi đến đâu, Gấu Nhỏ bắng nhắng đi theo đến đấy. “Chà, tôi không thấy cô bé nào cả,” viên cảnh sát chốt hạ. “Nhưng tình hình đứa trẻ đó tương đối đáng ngại, thành thử tôi mong cô sẽ gọi cho cảnh sát trưởng nếu cô gặp lại nó.” Ông đưa cho Jo tấm danh thiếp. “Hai người ngủ ngon.”

“Ông cũng vậy,” Jo và Gabe đồng thanh đáp.

Họ dõi theo viên cảnh sát bước lên xe rồi rời đi, Gấu Nhỏ tiễn ông với tràng sủa đinh tai nhức óc.

Đến khi bóng ông đã hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt, Gabe mới lên tiếng, “Tôi phải về nhà thôi. Tôi sẽ tống tiễn chị Lacey về Saint Louis cho đỡ sinh chuyện.”

“Đừng làm chị ta nổi khùng lên. Chỉ tổ đổ thêm dầu vào lửa thôi.”

“Được rồi. Chỉ cần tôi về nhà, chị ấy sẽ rời khỏi đây.”

“Đó là lý do chị ta làm vậy. Tôi thật không tin nổi anh lại là máu mủ ruột rà với người phụ nữ đầy toan tính đó!”

Gabe quay đi. “Trước khi đi, tôi muốn tìm Ursa đã.”

Jo theo anh ra sau nhà. “Lần trước xảy ra chuyện tương tự, con bé không đi xa cho lắm. Nhưng lúc đó đang là ban đêm.”

Họ đi ra cánh đồng cỏ gọi tên Ursa, nhưng không dám hô to, phòng trường hợp viên cảnh sát dừng lại ở khu đất nhà Nash trên đường đi. Lần theo đám cây đổ rạp, họ đến rìa xa tít của cánh đồng có con dốc dẫn vào rừng. Họ loanh quanh tìm một hồi, nhưng mặt trời đang từ từ khuất bóng mà họ chẳng có đèn pin.

Gabe đứng ở cửa sau, đưa mắt nhìn ra khu đất nhá nhem tối. “Có lẽ con bé nấp ở đâu đó rồi. Đêm đến, nó sẽ trở lại sau khi chắc chắn xe cảnh sát đã đi mất.”

Jo và Gabe nấu mì Ý cho bữa tối nhưng chẳng còn bụng dạ nào nuốt nổi. Họ cũng không buồn cắt bánh. Mười giờ, hai người nhóm lửa trong chiếc lò sau nhà để báo cho Ursa biết đường mà quay lại. An tọa trên ghế xếp, họ sốt ruột chờ đợi con bé, chẳng biết phải nói gì. Đến mười giờ rưỡi, Gabe lên tiếng, “Khéo con bé đi lạc thật hoặc không quay lại đây nữa. Cô nghĩ thế nào?”

“Con bé tin tưởng tôi nên hai lần trước nó vẫn quay lại, với cả con bé rất thông minh, thành thử tôi không nghĩ nó bị lạc. Nó biết cách lần theo Turkey Creek, với cả mặt trăng vẫn đủ sáng để có thể thấy đường.”

“Tôi có một giả thuyết thế này.” Anh đứng trông ra đồng cỏ. “Sau khi chạy ra ngoài bằng cửa sau, có lẽ con bé đã đi thẳng về phía Bắc giữa những bụi cỏ cao ngất để tránh bị viên cảnh sát thộp cổ. Nếu con bé đi xuống cái dốc đằng kia, nó sẽ đến Guthrie Creek.” Anh nói, tay chỉ về hướng Đông, “Turkey Creek được chia thành hai ngả trên đồi. Nếu con bé băng qua Guthrie trên đường đi và quay về lúc trời đã tối, có thể con bé sẽ không thấy đoạn Turkey Creek bị chia tách. Nó sẽ men theo nhầm con suối trong lúc cố gắng tìm về với chúng ta.”

“Anh nói đúng! Chỗ Turkey Creek chia nhánh um tùm cây cối. Trông chẳng giống một con suối chút nào.”

“Con bé có biết địa hình khu đất đó ra sao không?”

“Tôi nghĩ nó không biết. Con bé chỉ đi loanh quanh gần nhà và gần chòi thôi.”

Anh nhìn chằm chằm về phía khu đất tối thui, tay mân mê bộ râu.

“Chắc điều này khiến anh nhớ lại cái ngày mà chị Lacey đã bỏ mặc anh ở trong rừng phải không?” Jo ôn tồn.

Anh tỏ ra ngạc nhiên, chừng như không ngờ cô lại có thể đi guốc trong bụng mình đến thế. “Đó chính là điều mà tôi đang nhớ lại,” anh đáp. “Cô có đèn pin nào còn tốt không? Để tôi đi xuống Guthrie tìm con bé xem sao.”

Jo lục lọi một hồi, tìm được một chiếc đèn pin đeo trán cho anh và một đèn pin cầm tay cho cô. Họ gọi Gấu Nhỏ và thúc nó đi theo với hy vọng nó có thể nghe tiếng hay ngửi thấy mùi của Ursa.

Trải qua cả tuổi thơ thám hiểm hang cùng ngõ hẻm của khu đất Kinney, Gabe biết lối nào dễ đi nhất từ ngọn đồi dẫn đến Guthrie Creek. Vừa đi, thỉnh thoảng họ lại vừa cất tiếng gọi Ursa. Đêm đã xuống, chưa kể còn ở cạnh suối, họ chỉ có thể lần dò từng bước, thế mà vẫn không tránh khỏi nhiều lần vấp đá và rễ cây. Gấu Nhỏ thích chuyến đi dạo, nó cứ hào hứng vùng chạy vào khu rừng tối mịt để thám hiểm, cũng may nó vẫn biết khi nào nên quay lại.

“Nếu con bé đi xa đến mức này, nó sẽ biết mình đi chệch hướng. Chắc chắn con bé sẽ vòng lại,” Jo nói sau khoảng bốn mươi phút tìm kiếm.

“Tôi cũng nghĩ thế. Hay mình quay về nhé?”

“Thôi, mình thử đi xa thêm một chút nữa xem sao. Từ bỏ lúc này không được.”

Anh gật đầu và tiếp tục đi cạnh cô. “Ursa, cô Jo đây! Con ra đây đi!” Cô hô vang. Sau chừng mười lăm phút tiếp tục tìm kiếm, họ quyết định quay về. Jo cố ngăn không cho nước mắt rơi xuống.

Gabe bất giác vòng tay ôm lấy vai cô. “Không sao đâu,” anh trấn an. “Con bé thông minh lắm. Nó sẽ ổn thôi.” Kể từ lúc xuống suối với Ursa, áo thun của anh giờ đã khô, nhưng người anh vẫn vương mùi nước suối, cát ướt và cá tuế. Jo nhắm mắt, lòng dịu êm trước hành động ân cần ấy. Anh siết chặt cô hơn. Chừng như anh cũng muốn nương tựa nơi cô.

Gấu Nhỏ sủa nhặng ở phần suối xuôi về khu đất Nhà Kinney. Jo và Gabe vội tách nhau ra, chạy về phía chú chó. Tiếng chó sủa bỗng dưng ngưng bặt, và khi hai người vòng qua khúc quanh, đèn pin của họ chiếu vào Ursa, con bé đang quỳ trên bờ suối, tay ôm chầm lấy Gấu Nhỏ. “Cô Jo!” Con bé reo lên. Ursa chạy ngang qua vùng nước nông và nhào người về phía Jo, nước mắt ướt nhòe trên má. “Cảnh sát sẽ bắt con đi đúng không ạ?”

“Cảnh sát đi rồi,” Gabe lên tiếng.

Ursa vòng tay ôm quanh người anh.

“Con đã đi đâu vậy? Cô chú đi qua mà con không nghe thấy tiếng à?” Anh hỏi.

“Con bị lạc!” Con bé vỡ òa. “Con cố tìm lối dẫn ra đường lộ nhưng không thấy. Trời tối như hũ nút, mọi thứ trông khác hẳn! Con quay lại và đi bộ một lúc lâu mà vẫn không tìm ra.”

“Rồi con quay ngược lại lần nữa?” Anh nói.

Ursa gật đầu, đưa tay chùi hai hàng nước mắt giàn giụa đầy đất cát.

“Con bé ở phía Tây Nam trong khi ta lại vòng lên hướng Đông Bắc để tìm nó,” anh kết luận.

“Con rất thông minh khi men theo con suối,” Jo khen. “Nhưng con đã đi nhầm suối rồi. Đây là Guthrie Creek chứ không phải Turkey Creek.”

“Đó là lý do mà mọi thứ nhìn khác hẳn,” Gabe giải thích.

“Con sợ lắm,” Ursa thút thít, nước mắt rơi lã chã. “Con cứ tưởng mình sẽ không bao giờ được gặp lại cô chú nữa.”

Gabe ngồi xuống. “Leo lên lưng chú đi. Chú sẽ cõng con một đoạn.” Ursa vụng về trèo lên và quàng tay qua cổ anh. Anh giữ chân con bé rồi đứng dậy.

“Con có nặng không ạ?” Nó hỏi.

“Chú bọ đá bé tí xíu trên lưng tôi vừa nói gì phải không Jo?”

“Chắc nó vừa mới kêu.”

“Hôm nay chú Gabe và con đã tìm thấy ấu trùng bọ đá đấy,” Ursa khoe. “Chúng ăn mạt vụn.”

“Dùng từ hay lắm,” Jo khen.

“Con mới học được từ đó hôm nay thôi. Nó chỉ những thứ nhầy nhụa sinh ra từ trái cây và động vật đang thối rữa.”

“Nghe ngon nhỉ?” Jo đùa.

“Cô chú ăn bánh chưa ạ?”

“Chưa, cô chú vẫn đợi con.”

Khi cả ba về đến Nhà Kinney, Gabe đặt Ursa xuống ở khoảng đất gần xe tải của mình. “Tôi phải đi đây,” anh nói rồi tháo chiếc đèn pin trên trán trả Jo. “Tôi sẽ bắt chị Lacey soạn đồ về ngay trong đêm nay.”

“Con đoán bác ấy là người báo cảnh sát,” Ursa nói.

“Chú cũng nghĩ vậy.” Anh quay sang Jo. “Cô cẩn thận đừng để Ursa lộ mặt. Đừng đưa con bé ra ngoài ngắm tổ chim một thời gian nhé.”

“Ngày mai tôi không làm việc ở Turkey Creek.”

“Thế thì tốt.” Anh dợm quay người bước về chiếc xe tải. “Tôi đoán tôi sẽ gặp lại cô…”

“Khi nào?”

“Tôi cũng chưa rõ. Tôi phải giải quyết xong vụ này đã.”

Jo tiến về phía anh. Cô cứ tưởng họ sẽ trao nhau một cái ôm, nhưng anh lại leo thẳng lên xe và lái đi.