← Quay lại trang sách

Chương 18

Sáng hôm sau, Jo để Ursa ngủ nướng thêm vài tiếng để bù lại đêm qua ngủ thiếu giấc. Song điều này khiến tiến độ kiểm tra tổ chim của cô càng chậm trễ sau ngày mưa vừa rồi. Hai cô cháu phải làm việc bù, đến tận lúc mặt trời khuất bóng mới trở về Đường Turkey Creek, đã quá trễ nên không kịp gặp Gabe ở chỗ anh hay bán trứng vào mỗi tối thứ Hai. “Mình tạt qua nhà chú Gabe được không ạ?” Ursa hỏi.

“Không được. Bác Lacey có thể vẫn còn ở đó.”

“Con có thể lẻn vào xem xe bác ấy còn đậu ở đó hay không mà.”

“Chúng ta sẽ không làm bất kỳ trò thậm thụt lén lút gì nữa.”

Đoạn đối thoại này được tua đi tua lại suốt hai ngày liền. Đã ba ngày trôi qua mà cô không nghe được tin tức gì từ Gabe. Jo hối hận vì đã không hỏi anh có dùng điện thoại di động hay không. Nhưng phần nhiều, cô vẫn cảm thấy mừng vì họ không nhắn tin qua lại. Chẳng biết vì lý do gì, song cô không tài nào tưởng tượng nổi việc mình tiếp xúc với anh theo cách đó.

Sáng hôm sau, Jo để Ursa ngủ đến khi bình minh. “Trời mưa ạ?” Con bé ngái ngủ mở mắt và thấy ánh sáng mờ xám phía bên ngoài.

“Cô để con ngủ thêm một lúc đấy. Hôm nay cô cháu mình sẽ bắt đầu làm việc ở Đường Turkey Creek.”

“Như thế thì thích quá ạ!” Con bé ngồi vào bàn bếp và mắt nhắm mắt mở ăn bánh quế.

Thường ngày, họ sẽ rời nhà khi trời còn chưa tờ mờ sáng. Nhưng khi bắt đầu công việc trên Đường Turkey Creek, họ được đón chào bởi dàn hòa ca ban mai, tiếng chim ríu rít bảo vệ lãnh thổ của mình sau một đêm dài. Như thường lệ, họ cho Gấu Nhỏ ăn ở sau nhà rồi mới rời đi. “Cô bỏ qua tổ chim đầu tiên rồi,” Ursa nói, tay chỉ vào lá cờ màu cam bên ngoài cửa sổ.

“Cô sẽ đậu xe giữa các tổ chim mình phải kiểm tra. Trước tiên, mình sẽ đi bộ dọc theo con đường và tìm kiếm các tổ chim xem sao.”

Sáng sớm tinh mơ là thời điểm tuyệt vời nhất để tìm kiếm các tổ chim. Sau một đêm dài, chim con thường đói ngấu, chim bố chim mẹ tíu tít bay đến thăm con nên đôi khi chúng trực tiếp dẫn Jo về tổ. Cô dừng xe cách con đường dẫn vào nhà Gabe chừng bốn trăm mét, nhưng không đậu ngay mặt đường mà lái xe vào đám cỏ. Ursa nhảy bổ khỏi xe, trên cổ đeo bộ ống nhòm dư và rẻ tiền mà Jo đưa cho. Con bé buồn rầu nhìn về hướng nhà Gabe. “Hôm nay mình có thể gặp chú Gabe không ạ?”

“Mình sắp được gặp chú ấy rồi,” Jo đáp. “Hôm nay là thứ Năm và chú ấy bán trứng vào buổi sáng.”

“Trừ khi chú ấy lại đổ bệnh lần nữa,” Ursa nhận xét.

Jo không thừa nhận đó là một phần lý do khiến cô muốn làm việc gần nhà anh vào những buổi sáng anh bán trứng. Cô muốn đảm bảo rằng anh vẫn ổn.

Trên đường, Ursa ngẩng đầu nhìn Jo. “Điều gì khiến chú Gabe bị bệnh ạ?”

“Cô cũng không rõ,” Jo trả lời.

“Con nghĩ bác Lacey làm chú ấy bệnh.”

“Còn nhiều lý do khác lắm. Cơ thể con người rất phức tạp. Bên trong chúng ta có vô vàn loại gen, hoóc-môn và các chất hóa học khác nhau có thể ảnh hưởng đến tâm trạng; khi đủ các yếu tố quy tụ, một số người sẽ cảm thấy buồn vô hạn.”

“Lúc nào cũng thế ạ?”

“Thường thì không phải lúc nào cũng thế.”

“Trước lúc bác Lacey đến, chú Gabe không hề buồn.”

“Môi trường ta sống, tức những thứ xảy ra xung quanh chúng ta ảnh hưởng đến chất hóa học trong cơ thể ta mà.”

“Bác Lacey khiến chất hóa học trong người con cảm thấy tệ hại lắm,” Ursa nói.

“Cô cũng thế,” Jo đồng tình.

Hai cô cháu kiểm tra tổ chim ở cuối đường Turkey Creek rồi quay trở lại con đường dẫn về phía nhà Nash. Trên đường kiểm tra tổ chim hồng y giáo chủ, lúc băng qua đám cây cối phủ đầy bụi đá vôi, họ nghe thấy tiếng xe tải của Gabe. “Chú Gabe! Chú Gabe ơi!” Ursa hét vang, cuống quýt vẫy tay.

Gabe giảm tốc độ, mỉm cười vẫy tay lại với con bé nhưng vẫn tiếp tục lái xe đi.

“Sao chú ấy không dừng lại nhỉ?” Urrsa thắc mắc.

“Cô nghĩ chắc chú ấy không muốn làm phiền cô cháu mình làm việc. Chú ấy cũng có công chuyện của mình mà.”

“Nhưng chú ấy chỉ cần dừng một phút thôi cũng được mà!”

Con bé nói đúng.

Một tiếng sau, họ hoàn thành công việc và lái xe đến ngã tư nơi Gabe ngồi phía dưới chiếc dù xanh và đằng sau tấm biển đề TRỨNG SẠCH. Jo đậu xe trong đường mương phía sau chiếc xe tải. Ursa lao ra khỏi xe và nhào đến chỗ anh. “Con và cô Jo nhớ chú quá chừng!” Con bé hét toáng lên. “Sao chú không qua chơi ạ?”

“Chú nghĩ tốt nhất nên để mọi chuyện lắng xuống,” anh trả lời, ánh mắt dừng nơi Jo lúc cô tiến lại.

Jo bước đến, đứng cạnh Ursa. “Chị Lacey đi chưa?”

“Chị ấy đi hôm kia rồi.”

Điều này có nghĩa là chị ta đã ở lại thêm một ngày. “Mấy hôm nay anh sao rồi?”

“Cũng tốt,” anh trả lời ngắn gọn, đủ để hiểu được hàm ý phía sau câu nói.

“Hôm nay con có thể ở nông trại nhà chú Gabe như trước không ạ?” Ursa hỏi. “Được không ạ? Con xin cô?”

“Điều này tùy thuộc vào chú Gabe,” Jo đáp.

“Không được con ạ,” anh thẳng thừng.

“Sao lại thế ạ?” Ursa thảng thốt.

“Con biết lý do tại sao mà. Nếu mẹ chú nói với bác Lacey con vẫn lảng vảng cả ngày ở nông trại nhà chú, bác ấy sẽ lại báo cảnh sát cho mà xem.”

“Con có thể ở những chỗ mẹ chú không thấy mà.”

“Không được,” anh từ chối, mắt dõi theo chiếc xe dừng lại trước quầy.

“Tối nay con qua thăm đám mèo con được không ạ? Khi cô Jo và con quay về? Lúc đó trời tối rồi, mẹ chú sẽ không nhìn thấy con đâu.”

“Mọi chuyện thế nào rồi cô Jen?” Anh nói với người phụ nữ trung niên mặc đồng phục y tá.

“Cô mệt lử rồi, chỉ muốn ngả lưng thôi,” bà nói. “Cho cô một tá trứng.” Bà đưa cho Gabe tờ năm đồng.

“Cảm ơn cô,” anh đáp rồi trả lại tiền thối.

Bà nhấc một vỉ trứng lên khỏi bàn. “Chúc con một ngày vui vẻ nhé Gabe.”

“Cô cũng vậy ạ.” Khi Jen đi rồi, anh nhấc cuốn Thiền và Nghệ thuật Bảo dưỡng Xe mô tô đã cũ nát khỏi lòng.

“Được không ạ?” Ursa hỏi.

“Được gì kia?” Anh đáp.

“Tối nay con qua thăm đám mèo con được không ạ?”

“Chú đã bảo với con lý do con không được đến nhà chú rồi mà. Nếu cảnh sát đến lần nữa, chắc chắn họ sẽ đưa con quay trở lại chỗ của mình đấy.” Đoạn anh nhìn qua Jo và nói thêm, “Họ phải làm điều đúng đắn.”

Ursa trợn mắt nhìn anh như thể con bé không biết anh là ai.

“Ursa, đi thôi,” Jo nói. Trông thấy con bé vẫn đứng im như tượng, Jo liền nắm lấy tay, kéo nó ra xe. Gabe chỉ chăm chăm vào cuốn sách trên tay mình.

“Sao chú Gabe lại giận chúng ta vậy cô?” Con bé hỏi khi cả hai lái xe rời đi.

“Ta không nên vội vàng cho rằng chú ấy đang giận mình.” Giá mà anh chỉ giận dỗi thì còn đỡ, đằng này điều anh làm còn tệ hại hơn rất nhiều. Anh đang quay lưng với họ và đóng chặt cảm xúc của mình.

Hai cô cháu làm việc như thường lệ, song mọi thứ thật kỳ cục. Chưa bao giờ Jo thấy Ursa xuống tinh thần như thế.

Thậm chí con bé còn chẳng mảy may phản ứng khi trông thấy con cáo chạy bên kia cánh đồng ngô. Đến tận cuối ngày, con bé vẫn chẳng nói chẳng rằng, và Jo nghĩ khéo họ sẽ chạy ngang nhà Nash mà không nhắc gì đến Gabe.

Nhưng người tính không bằng trời tính. Lúc đèn pha chiếc Honda tỏa đến con đường tối tăm nhà Nash, bóng dáng Gabe ngồi phía sau thùng xe hiện ra. Anh nhảy xuống đất, vẫy tay họ dừng lại.

“Có chuyện gì thế?” Jo nói qua cửa sổ.

“Tôi đợi nãy giờ. Hai người về trễ thế?”

“Tôi phải ghé qua tiệm tạp hóa.”

“Hai người có đói đến độ không thể thăm mèo vào ngay lúc này không?”

“Không hề!” Ursa reo lên.

“Thế thì đi theo chú,” anh nói.

Đến nhà kho, Ursa nhảy bổ ra ngoài trong lúc Jo tắt máy. “Con vào được chưa ạ?” Con bé líu lo.

“Giữ ngựa lại, đợi cô Jo đã nào,” Gabe dặn.

“Ước gì con có ngựa mà giữ,” Ursa nói.

Nhà kho tối thui, nhưng Gabe thắp đèn lồng để soi đường dẫn ba người họ đến chỗ đám mèo. Mèo mẹ xuất hiện từ góc khuất, khẽ kêu meo meo khi Gabe đặt chiếc đèn lồng lên ụ rơm gần tổ.

“Xem chúng lớn chưa kìa!” Ursa reo lên. “Chúng biết đi rồi này!” Con bé vừa gọi tên từng con vừa cưng nựng. Nó nhấc Juliet và Hamlet lên tay rồi đưa lên má. “Mấy em có nhớ chị không? Chị nhớ mấy em quá đi mất!”

“Cô muốn ra ngoài một chút không?” Gabe hỏi Jo.

Ursa trườn ra đất, nhìn Juliet và Hamlet vờn nhau.

“Con ở đây nhé, cô Jo và chú quay lại ngay,” Gabe nói với con bé.

Gabe bước ra ngoài, đóng cửa nhà kho và đưa Jo ra xa để Ursa không thể nghe thấy cuộc trò chuyện giữa hai người. “Tôi muốn xin lỗi về cách mình hành xử sáng nay,” anh lên tiếng.

“Anh nên nói điều này với Ursa thì hơn.”

“Con bé có buồn không?”

“Tôi nghĩ là có.”

Anh nhìn xuống đất, chừng như có điều muốn nói. Rồi anh quay sang cô. “Đó càng là lý do cô bé không thể tới đây.”

“Tôi không hiểu ý anh lắm.”

“Con bé gắn bó với nơi này quá rồi. Còn tôi…” Anh né tránh ánh mắt của Jo trong vài giây. “Điều này không dẫn đến kết cục gì tốt đẹp đâu,” anh tiếp tục. “Chừng nào cô chưa giao con bé cho cảnh sát, hai ta càng khó xử.”

Cô nổi sùng trước ngôn từ của anh, thay vì nói chúng ta, anh lại dùng từ cô, chẳng khác nào anh phủi bỏ hết mọi trách nhiệm về việc giữ Ursa.

“Cô có bao giờ nghĩ về điều mình đang làm chưa?” Anh hỏi. “Cô đang xây đắp tình cảm với một đứa bé, và nó chắc chắn sẽ tan nát cõi lòng khi cô quay trở lại cuộc sống của mình ở trường đại học. Cô nuôi một con chó, để rồi khi cô đi, nó sẽ chết đói, và cô cũng để Ursa thân thiết với nó. Con chó sẽ không thể theo đứa bé đến cùng trời cuối đất được.”

Cô chẳng cần anh thuyết giáo, biết bao lần cô đã tự dằn vặt bản thân mình rồi.

“Tôi không thể tham gia vào chuyện này nữa,” anh nói. “Tất cả chúng ta rồi cũng sẽ tổn thương.”

“Tôi thấy bây giờ đã tổn thương rồi, chỉ đơn giản là anh muốn dừng lại trước khi mọi chuyện trở nên tệ hại hơn mà thôi.”

“Phải, chưa gì đã tổn thương, và có lẽ con bé sẽ phải gánh chịu nhiều tổn thương hơn chúng ta. Việc này đi quá trớn rồi.” Anh đợi cô trả lời. “Cô không thấy vậy sao?”

“Có chứ. Tình hình đi xa hơn những gì tôi tưởng.” Jo dùng mũi giày của mình cào thành một đường trên sỏi. “Khi tôi biết mẹ mình chỉ còn sống được đôi ba tháng, tôi chỉ có hai sự lựa chọn…” Cô nhìn anh. “Đó là giữ khoảng cách với nỗi đau hoặc tiến gần đến nó. Có lẽ là vì bố tôi đã qua đời trong khi tôi không có bất kỳ một cơ hội nào để nói với ông rằng tôi thương ông đến nhường nào, nên tôi đã quyết định mình phải tiến đến thật gần nỗi đau đó. Tôi tiến sát đến mức cảm thấy đau đớn và nỗi sợ hãi của mẹ cũng trở thành nỗi sợ hãi của tôi. Chúng tôi chia sẻ với nhau mọi thứ và thương yêu nhau nhiều hơn bao giờ hết, tựa hồ cái chết là một thứ gì đó thật xa xôi. Cuối cùng, một phần hồn của tôi cũng chết cùng bà. Đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa vượt qua được chuyện đó, nhưng tôi ý thức được rất rõ ràng rằng mình đã chọn bước vào bóng đêm cùng mẹ. Những người xung quanh tôi từng mất đi người thân đều nói rằng đến giờ họ vẫn còn ân hận, họ ước mình đã làm thế này, đã làm thế khác, hay thể hiện yêu thương nhiều hơn. Còn tôi, tôi không hối tiếc gì cả. Một chút cũng không.”

Anh lặng thinh không nói gì.

“Có lẽ anh không hiểu được đâu.”

“Anh nông dân dốt đặc cán mai không trì độn đến thế đâu,” anh đáp. “Trước giờ, tôi luôn nghĩ những gì xảy ra giữa cô và Ursa đều có liên quan đến chuyện cô từng gặp trong quá khứ. Nhưng hóa ra không giống như những gì xảy ra với mẹ cô. Cuối cùng, chắc chắn cô sẽ hối tiếc. Cô càng yêu thương con bé, nó lại càng đau khổ.”

“Nếu mọi chuyện kết thúc khác với những gì anh tưởng tượng thì sao?”

“Là sao cơ?”

“Nếu tôi tìm cách trở thành mẹ nuôi của con bé thì sao?” Cô chưa bao giờ phát ngôn thành lời ý tưởng ngông cuồng ấy. Nhưng nó đã bật ra từ miệng của cô và cô cảm thấy thật nhẹ nhõm vì điều đó.

Anh nhìn cô chằm chằm.

“Tôi biết để được như vậy, tôi cần phải có giấy chứng nhận hay gì đó, nhưng tôi không cho rằng việc này quá khó khăn. Và mặc dù còn độc thân, tôi vẫn có nguồn lực mà nhà nước mong muốn ở một người bố mẹ nuôi phải có. Bố tôi có khoản bảo hiểm nhân thọ rất lớn, bởi công việc của ông chứa đựng nhiều rủi ro. Mẹ tôi ngày trước đã dùng một phần tiền này mua thêm một gói bảo hiểm khác vì bà một thân một mình nuôi tôi. Tôi có đủ tiền để thuê người coi sóc Ursa trong lúc tôi đến trường. Tôi cũng đã tính toán cho Gấu Nhỏ rồi. Tôi không thể nuôi chó ở chỗ mình đang sống, nhưng Tabby rất giỏi tìm nhà cho chó hoang. Tôi hy vọng một trong những người bạn làm bác sĩ thú y của cô ấy sẽ nhận nuôi Gấu Nhỏ để Ursa có thể qua thăm nó.”

“Bất kể cô có tiền bạc và lên kế hoạch chu toàn cho chú chó đến đâu, cô cũng không thể thay đổi việc cô đã nói dối cảnh sát.”

“Tôi chưa lách luật bao giờ.”

“Có. Cả hai chúng ta đều đã làm vậy. Cô biết viên cảnh sát hôm nọ đã nói gì với chị Lacey không? Ông ấy nói rằng để con cái của người khác ở nhà mình có thể được xem là một hành vi gây nguy hiểm cho trẻ em, nhất là khi đứa bé đó bị thương. Thậm chí còn bị xem là bắt cóc. Cô nghĩ họ sẽ để cô làm mẹ nuôi sau tất cả những hành vi ấy sao?”

“Tôi chưa bao giờ đối xử không tốt với con bé! Ursa có thể làm chứng điều đó.”

“Lỡ như con bé nói với họ hôm nào cũng phải đi làm với cô, nhiều hôm những mười hai tiếng đồng hồ ròng rã dưới cái nóng như thiêu như đốt thì sao?”

“Con bé muốn đi mà. Thà cho nó đi chung còn hơn để nó ở nhà một mình.”

Âm thanh khô khốc cô nói ra vang vọng trong không gian tĩnh mịch.

“Được rồi, anh biết gì không?” Cô tiếp tục. “Còn lâu tôi mới để mặc cho chị Lacey một tay che trời như cách chị ấy làm với anh.”

“Điều này chẳng dính dáng gì đến chị Lacey!”

“Không có sao? Ngày cuối cùng khi còn ở đây, chị ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hút cạn niềm vui ra khỏi anh. Ursa và tôi nhìn thấy sự thay đổi quay ngoắt thái độ của anh sáng nay. Nếu anh cứ thế này, lúc nào cũng sợ dính dáng đến người khác, thì cuối cùng anh cũng sẽ hận đời y như chị ta thôi, mà chị ta thì chỉ mong có thế.” Đoạn, cô đi thẳng một mạch đến nhà kho, mở cửa và cất giọng, “Ursa, mình về thôi, về chuẩn bị bữa tối, không là mệt lử đấy.”

Ursa ló ra từ sau ụ rơm. “Chú Gabe có ăn tối cùng mình không ạ?”

“Cô nghĩ là không.”

Con bé chạy đến chỗ Gabe, lưỡng lự giữa chỗ đậu xe và nhà kho. “Chú có muốn qua ăn tối không ạ? Con và cô Jo sẽ làm bánh bắp nhân ớt chuông và thịt bò bằm đấy.”

“Nghe ngon quá, nhưng chú phải quay lại chăm sóc mẹ.” Anh đưa hai tay lên vò đầu con bé, “Ăn tối thật ngon nhé, nhóc con.”

Cũng giống như Jo, Ursa im lặng suốt quãng đường về nhà. Gấu Nhỏ chạy xung quanh khi cô đậu xe trên con đường trải đầy ánh trăng. “Cô và chú Gabe giận nhau ạ?” Con bé hỏi nhỏ.

“Không hẳn là giận,” Jo đáp.

“Vậy có chuyện gì ạ?”

“Chú Gabe quyết định không muốn qua lại với cô cháu mình nữa. Con đừng hiểu lầm nhé, chú ấy rất thương con, nhưng chú ấy sợ một ngày nào đó chuyện xấu có thể xảy ra.”

“Chuyện xấu là chuyện gì ạ?”

“Ví dụ như chú ấy sợ phát sinh chuyện không hay với cảnh sát.”

“Chú ấy sẽ không gặp chuyện không hay đâu. Con sẽ nói với cảnh sát nhà con ở tinh hà ngoài kia.”

“Con biết họ sẽ không tin mà.” Jo vẫn ngồi trên ghế, quay sang nhìn con bé, khuôn mặt nó tối đen chìm trong bóng tối. “Cô mong con sẽ sớm nói thật. Có lẽ đến giờ, lòng tin con dành cho cô đủ lớn rồi phải không? Con biết cô sẽ đấu tranh để con được hạnh phúc nhất.”

Ursa xoay mặt sang cửa sổ xe. “Nếu như…”

Jo bất động, gần như nín thở, tĩnh lặng bao dung để con bé được nói bất cứ điều gì mình muốn. Cô chắc chắn Ursa sắp sửa nói với cô điều quan trọng.

Nhưng cô bé chỉ chăm chăm nhìn ra khu rừng tối.

“Con định nói gì với cô?” Jo hỏi.

Con bé quay lại nhìn Jo. “Nếu như con thật sự đến từ thế giới khác thì sao ạ? Cô đã bao giờ tin con chưa, dù chỉ một giây?”

Con bé chùn bước. Hoặc ngay từ đầu, nó chẳng định hé răng lấy một lời. Dù là gì đi chăng nữa, Jo hiểu số phận hẩm hiu của đứa bé này. Ursa Major, hình ảnh con gấu lớn được vẽ bằng các tinh tú chỉ là viễn tưởng. Con bé tự bịa ra cuộc sống đến từ chòm sao của mình. Như một đứa trẻ chăm chăm tô màu theo hàng lối, con bé cẩn trọng từng bước để không sẩy chân ra khỏi hình tượng mình đã dựng lên và rơi vào một vũ trụ đáng kinh hãi.

“Sao cô không tin con?” Ursa dồn ép.

“Cô là một nhà khoa học, Ursa à.”

“Cô có niềm tin chút nào vào người ngoài hành tinh không?”

“Vũ trụ mênh mông, không loại trừ khả năng có sinh vật sống khác.”

“Và con là một trong số đó.”

Đôi lúc, khi tưởng tượng đến việc câu chuyện tưởng tượng đủ sức nặng để khiến một đứa trẻ không muốn làm người, Jo lại thấy sống mũi mình cay cay. Và lúc này là một trong những khoảnh khắc ấy. May mà Ursa không thấy cô rơi nước mắt trong bóng tối.

“Cô và chú Gabe có nói chuyện lại với nhau không ạ?” Ursa hỏi.

“Mình sẽ nói chuyện với chú ấy khi mua trứng.”

“Chỉ thế thôi ư?”

Jo không nói dối. “Ừ, có lẽ là thế thôi.”