Chương 19
Sáng hôm sau, lúc Jo bước vào phòng khách để đánh thức Ursa thì con bé đã không còn trên sô pha nữa. Nó cũng không có mặt trong nhà vệ sinh. Jo mở cửa dẫn ra hàng hiên có màn che thì thấy Gấu Nhỏ cuộn tròn mình trên tấm thảm, mơ màng ngước nhìn cô. Cạnh nó là tô thức ăn trống không.
Ursa biết mình không được phép cho chó ăn trên hiên. Hẳn tối qua, con bé đã lén lút đưa chú chó vào bên trong và cho nó ăn trước khi lẻn đi. Jo thừa biết con bé đi đâu.
Cô trở về nhà và xác nhận đôi giày màu tím của Ursa đã không cánh mà bay. Bộ quần áo Jo xếp sẵn cho con bé mặc vào buổi sáng cũng không còn. Cô hối hả thay đồ, ăn uống và làm bữa trưa như thường lệ. Cô chuẩn bị phần nước đủ cho cả hai cô cháu. Mang đồ đạc ra bên ngoài, cô đuổi Gấu Nhỏ ra khỏi hiên và đặt tô đã được đổ đầy thức ăn của nó lên khoảng sân xi măng sau nhà.
Cô đánh xe vào khu đất nhà Nash khi bình minh chưa ló dạng. Cô đoán Gabe đã thức dậy từ sớm để vắt sữa bò và làm công việc buổi sáng. Cô cầu trời mình không phải đi đến cửa chính. Chiếc Honda của cô xóc lên xóc xuống trên con đường um tùm cây cối, chạy thẳng một mạch đến nhà kho, đèn trước xe cô chiếu vào Gabe đang cầm đèn lồng trong tay, anh mặc quần bò tới đầu gối, chân mang ủng cao su. Anh nghe thấy tiếng xe của cô đang đến gần. Jo hạ cửa kính xe. “Không thấy Ursa đâu nữa.”
“Khốn thật! Để tôi kiểm tra đám mèo con trong kho.”
“Tôi cũng nghĩ tới điều đó.”
Anh vẫy cô vào nhà kho rồi rảo bước theo sau. Họ bước vào nhà kho và đi ra bức tường đằng sau. Ánh sáng từ chiếc đèn lồng của Gabe chiếu xuống người Ursa. Con bé đang say sưa ngủ cùng sáu chú mèo con, cả người nó cuộn tròn, quây thành một chiếc tổ ấm áp, mèo mẹ chắn ở phía còn lại. Jo và Gabe đứng ngây ra như phỗng, không muốn phá bĩnh khung cảnh tuyệt đẹp ấy.
Mèo mẹ đứng dậy và bước qua chỗ người bạn nhỏ làm tổ của mình để đánh thức cô bé. Ánh sáng từ chiếc đèn lồng khiến Ursa lấy tay che mắt. “Chú Gabe?” Con bé vẫn còn ngái ngủ.
“Và cô Jo nữa,” anh bổ sung.
Ursa chạy lại chỗ hai người bọn họ.
“Sao con lại ở đây?” Jo hỏi.
Cô bé ngồi đậy, vài cọng rơm loe hoe dính lên mái tóc bù xù. “Con vẫn muốn gặp đám mèo con của chú Gabe.”
“Điều đó phải tùy thuộc vào sự quyết định của chú ấy chứ?”
Ursa đứng dậy và khẩn khoản nhìn anh.
“Chú xin lỗi,” anh lên tiếng. “Nhưng cô Jo và chú có chút bất đồng về hậu quả của tình hình hiện tại.”
“Tình hình hiện tại là gì ạ?” Ursa thắc mắc.
“Là con đấy,” anh đáp. “Chú nghĩ con cần một mái nhà ổn định, dù mái nhà ấy có thế nào đi chăng nữa.”
“Con có mái nhà ổn định của mình giữa những vì sao mà.”
“Chú ấy không muốn nghe lại chuyện này đâu,” Jo cắt ngang. “Cô mang theo bánh mỳ kẹp trứng cho con ở trong xe đấy. Đi với cô nhé?”
“Con muốn ở đây cơ.”
“Ở Trái Đất, không phải lúc nào cũng cầu được ước thấy.”
“Nhưng cô, chú Gabe không biết bản thân mình muốn gì.”
“Giờ cô không có tâm trạng nói ra nói vào đâu, Ursa.” Cô kéo con bé ra khỏi nhà kho rồi mới thả tay ra. “Một là con đi ra xe, hai là con cứ đứng đây, để chú Gabe gọi cảnh sát.”
“Chú có gọi không ạ?” Con bé hỏi Gabe.
Anh không trả lời.
“Cô đi đây,” Jo chốt hạ.
Ursa lò dò theo cô ra xe rồi trèo lên băng ghế sau. “Tạm biệt chú Gabe,” con bé tần ngần.
“Chúc con ngày mới vui vẻ,” anh trả lời và đóng sập cửa lại.
Ursa im như thóc trong lúc Jo kiểm tra và tìm kiếm các tổ chim, nhưng lần này, cô không khơi chuyện với con bé. Cô hài lòng với bầu không khí im lặng này. Không bị phân tâm bởi những lời tán hươu tán vượn của Ursa, suy nghĩ của cô rạch ròi hơn hẳn, trở về với phong cách trước khi cô quen biết Ursa và Gabe. Đến cuối ngày, cô đồng tình với hầu hết mọi điều Gabe nói. Còn khuya người ta mới chấp nhận để cô trở thành mẹ nuôi khi cô giữ Ursa bên cạnh mình lâu như thế. Và điều đó có nghĩa là Gabe đã đúng khi khuyên cô giao con bé cho cảnh sát càng sớm càng tốt để hạn chế tổn thương.
Đêm đó, trong lúc Ursa đang hí hoáy vẽ màu chì, Jo tranh thủ đảo qua các trang web thông báo trẻ em mất tích mà mấy hôm nay cô chưa kịp kiểm tra. Tuy khả năng khá thấp nhưng cô vẫn mong Ursa được đăng tin. Như vậy, cô sẽ có lý do không thể chối cãi để cảnh sát đến bắt cô bé. Nhưng vẫn chẳng có ai trình báo một bé gái xinh xắn với lúm đồng tiền trên má bị mất tích cả.
Jo gắn bức tranh Ursa vẽ một chú bướm vua lên tủ lạnh, ngay cạnh bức chim sẻ đất màu chàm. Cô dặn con bé nhớ đánh răng sau khi thay đồ ngủ. Cả hai cô cháu cùng ngả lưng, Ursa nằm ngoài ghế sô pha, còn Jo ngủ trong phòng. Con bé líu lo câu “Chúc cô Jo ngủ ngon!” quen thuộc sau khi cô tắt đèn.
Đêm về, tâm trí cô rối như mớ bòng bong, và kể từ ngày Gabe không còn chung thuyền với cô nữa, cô lại càng rối ren. Thân cô thế cô cưu mang Ursa, nay lại không có Gabe phụ giúp, gánh nặng này khiến cô đau đớn. Một giờ sáng mà cô vẫn tỉnh như sáo, nên cô quyết định bước ra phòng khách để xem tình hình con bé ra sao.
Nhưng nó đã biến mất dạng.
Jo trợn tròn mắt nhìn chiếc sô pha trống trơn, cân nhắc trong đầu xem nên làm gì trước tiên. Nếu cô lái xe đến nhà Gabe nghĩa là cô để mặc Ursa kiểm soát mình. Nếu cô không đi và sáng mai cứ thế lên đường làm việc, khéo Gabe sẽ gọi điện báo cảnh sát khi phát hiện Ursa trên đất nhà mình.
Trong trường hợp anh làm thế, thể nào con bé cũng trốn. Jo biết chắc là vậy. Ursa có thể sẽ tìm cách trốn vào khu đất Nhà Kinney, điều này chắc chắn sẽ gây tai họa cho Jo và Nhà Kinney, thậm chí cho cả khoa Sinh học của trường Đại học Illinois nữa, bởi họ là người trả tiền thuê.
Còn nếu như Ursa không trốn ở Nhà Kinney, con bé có thể đã đi chỗ khác. Nó quá cả tin, mà trên đời này không thiếu những kẻ ác nghiệt lợi dụng điều đó.
Jo xỏ chân vào đôi giày lười của mình, chộp lấy chùm chìa khóa và đèn pin. Một lần nữa, cô lại thấy Gấu Nhỏ đang nằm trên hiên với cái tô rỗng không. Cô để mặc nó ở đó sủa nhặng xị khi thấy cô rời đi.
Cô tắt đèn pha chiếc Honda và bật đèn đỗ xe khi chạy đến con đường dẫn vào khu đất nhà Nash. Cô xử lý những rãnh lún trên đường với tốc độ thật chậm để hạn chế tiếng ồn ở mức thấp nhất có thể, đoạn tắt sạch đèn pha khi tiến đến sát nhà anh. Căn nhà tối thui, duy chỉ có đèn ngoài hiên còn sáng, tất cả cửa lớn và cửa sổ đều được đóng kín để giữ khí lạnh từ điều hòa không phả ra bên ngoài. Có lẽ, Gabe và mẹ của anh sẽ không nghe thấy tiếng xe nếu cô chạy thật chậm.
Tận dụng ánh sáng từ ngọn đèn đường, cô lần mò đi xuống con đường dẫn đến chuồng gia súc gia cầm. Cô đậu xe và đóng cửa nhẹ nhàng hết sức có thể. Cô không bật đèn pin cho đến khi đã vào bên trong nhà kho. Đi vòng qua mấy đống rơm, cô chiếu đèn về phía đám mèo. Mèo mẹ chớp mắt kêu meo meo, nhưng Ursa không có ở đó. Cô tìm kiếm hết nhà kho, sục sạo từng ngóc ngách, song chẳng thấy bóng dáng con bé đâu cả.
Bước ra ngoài, cô nhìn khoảng không gian còn lại: một chuồng bò với hai bãi cỏ nho nhỏ, một khu bùn đất để nuôi lợn, chuồng gà được thiết kế có nguyên một không gian rộng để cho gà đi lại và một chòi gỗ nhỏ mà cô đoán là kho dụng cụ của Gabe. Nhưng cô khá e ngại việc lén lút trên đất nhà người khác, nhất là trên đất của một người sở hữu súng. Trong tình thế này, cô buộc phải liên lạc với Gabe.
Cô đi ngược lại con đường từ nhà kho dẫn đến căn nhà gỗ. Dừng chân trong bóng tối gần cột đèn và nhìn vào nhà, cô hồi tưởng cái đêm cô và Ursa thăm Gabe trong phòng ngủ. Họ quẹo ra sau phòng khách, và phòng của Gabe là căn phòng nhỏ thứ hai ở bên trái. Jo bước đến bức tường bên trái căn nhà, ngang qua khung cửa sổ phòng khách to tướng và ô cửa sổ nhỏ của phòng ngủ đầu tiên. Cô dừng bước trước căn phòng tiếp theo. Nơm nớp cầu mong Gabe không thủ sẵn một khẩu súng để nã đạn giữa đêm, cô khẽ gõ lên cửa sổ. Không thấy động tĩnh gì. Cô gõ to hơn, và căn phòng sáng đèn. Rèm được kéo lên, Gabe xuất hiện sau khung cửa sổ sáng choang.
Cô giật thót khi nhìn thấy anh. Phản ứng mãnh liệt hơn cô tưởng.
Cô tiến gần hơn đến cửa sổ, vẫy tay. Anh mở chốt và nâng cửa lên. “Con bé lại biến mất à?”
“Phải. Tôi đã kiểm tra chỗ đám mèo con rồi nhưng không thấy.”
“Tôi cũng nghĩ con bé còn lâu mới ở đó. Con bé thông minh lắm. Mình ra trước cửa gặp nhau đi.”
Cô bước về phía hàng hiên và đợi anh dưới bậc tam cấp. Vài phút sau, anh xuất hiện với chiếc áo thun tối màu, quần bò lao động và đôi giày lười bằng da. Trên tay anh thủ theo đèn pin.
“Tôi thành thật xin lỗi,” cô nói.
“Tôi mong cô nhận ra rằng mọi thứ đang vượt khỏi tầm kiểm soát,” anh đáp.
“Tôi biết. Tôi có khiến mẹ anh thức giấc không?”
“Không.” Anh đi ngang qua cô và tiến về phía nhà kho. Jo lặng lẽ theo sau. Đầu tiên, họ kiểm tra kho dụng cụ, sau đó chuyển sang chuồng bò. Anh vào chuồng gà khiến đám gà cục ta cục tác đầy bực bội. Đứng trước chuồng, anh lộ vẻ trầm tư.
“Khéo con bé chạy đi rồi,” Jo nói. “Hôm nay nó cứ câm như hến.”
“Con bé thừa biết việc nó không được mời mà đến quá nhiều.”
“Anh nghĩ con bé đã đi rồi à?”
“Không. Nó suốt ngày đùa kiểu này mà.”
“Nhưng ta cũng đừng quên nó chỉ là một đứa bé đang lo sợ thôi.”
“Ừ.” Anh rẽ sang một hướng đi mới.
“Anh đi đâu vậy?”
“Căn nhà trên cây.”
Jo đi theo anh chừng một trăm mét trên lối mòn cho đến khi đèn pin chiếu sáng tấm biển mục nát sơn dòng chữ NHÀ CỦA GABE một cách nguệch ngoạc mờ tịt. Bên dưới cây cọc đó còn có một tấm bảng khác đã vỡ đề CẤM VÀO. Anh chiếu đèn pin lên cây sồi khổng lồ, để lộ một căn nhà trên cây vô cùng hoành tráng. Căn nhà cao gấp ba lần chiều cao của Gabe, được chống đỡ bằng bốn cây dầm. Cầu thang xoắn đầy duyên dáng với thanh gỗ uốn lượn dẫn lên trên.
“Đây là căn nhà trên cây tuyệt nhất mà tôi từng thấy,” cô thốt lên.
“Tôi rất thích căn nhà này. Bố và tôi xây nó năm tôi lên bảy. Chúng tôi đã dùng gỗ chuyên dụng để tránh làm ảnh hưởng đến cây.” Anh bước tới cầu thang ôm quanh thân cây và đặt chân lên bậc thang đầu tiên. “Vẫn còn tốt lắm.”
“Ursa có biết chỗ này không?”
“Con bé suốt ngày ở đây. Đây là nơi nó đến để tránh bị mẹ tôi phát hiện trong lúc tôi đi bán trứng.”
“Bất ngờ đấy, con bé không muốn cùng anh bán trứng sao?”
“Muốn chứ.”
“Thế sao anh không cho nó đi cùng?”
Anh quay sang nhìn cô. “Lạ thật, cô không lường trước được những chuyện này sao?”
“Ý anh là?”
“Tôi sợ đưa con bé ra đường. Nhỡ đâu người mà nó muốn chạy trốn lại phát hiện ra nó thì sao? Tôi sẽ phải giao nó cho họ, mà chẳng biết liệu điều mình làm có đúng hay không.”
“Cũng có lý.”
“Cô cần thêm lý đấy.”
Lời nói của anh như xát muối vào vết thương, nhưng cô chẳng có tâm trạng nào để ăn miếng trả miếng. “Làm sao có lý khi tôi đang bị người ngoài hành tinh kiểm soát chứ?”
Nét cau có anh trưng trên mặt từ lúc ra khỏi nhà chuyển thành một nụ cười mỉm.
“Có thể anh không tin điều này,” cô nói, “nhưng trước khi cô bé tinh tú ấy xuất hiện, tôi là một người rất lý tính, đến mức gần như đáng ghét.”
“Tôi hiểu cảm giác đó,” anh đáp. “Tôi đã phải chống chọi với những đợt sóng hạt quark dồn dập quật vào người kể từ khi gặp cô bé.” Anh chìa tay ra. “Cô lên trước đi. Tôi muốn đi đằng sau, chẳng may cô bị vấp.”
Cô không cần anh giúp, song cô xem bàn tay ấm áp và thái độ cẩn trọng của anh là một động thái làm hòa. Nhưng sau khi thả tay, anh lại chạm vào cô một lần nữa, lúc này là ở eo, nhẹ nhàng đỡ cô lên trên cầu thang. Anh chỉ đang tỏ ra lịch thiệp, hay anh cũng vọng cầu đụng chạm da thịt giống như khao khát cô dành cho anh? Dựa trên những thông tin thu thập được bấy lâu, cô kết luận giả thiết đầu tiên có vẻ khả dĩ hơn.
May thay tay nắm cầu thang rất chắc chắn, bởi bậc thang xoắn ốc cao đến chóng mặt. Lên đến trên cùng, Jo chiếu đèn pin vào căn phòng được ngăn bởi hai cành cây to tướng. Một cái võng nhỏ bằng thừng được cột trên tường với một thân cây. Bộ bàn ghế cỡ con nít được làm từ ván công nghiệp nằm bên kia căn phòng. Căn phòng trông ra hai hướng của khu rừng, một bên là ban công nhìn về con đường dẫn đến đây, một bên nhìn xuống hẻm núi rậm rì cây cối rất mãn nhãn. Jo chiếu đèn xuống phía dưới, tưởng tượng cậu bé Gabe ngày xưa như một vị vua nhỏ làm bá chủ quang cảnh trước mắt này.
“Kỳ lạ thật,” Gabe cất tiếng sau lưng cô.
Cô quay lại. Đèn pin của anh chiếu sáng chiếc bàn nhỏ. Trên mặt bàn là hai cây bút chì có gắn tẩy, một cuốn truyện cổ tích minh họa, vài tờ giấy trắng được chặn bằng đá. Mấy viên đá óng ánh nhờ những hạt tinh thể bên trong, đúng loại đá mà Ursa thích lượm lặt.
Jo cùng Gabe nhìn những bức tranh bằng chì của Ursa: bức vẽ con ếch kiểu hoạt họa, bức vẽ chú mèo con mới sinh theo kiểu tả thực và một bức anh rút ra từ dưới xấp giấy. Bức tranh vẽ một ngôi mộ hình chữ nhật được tô bằng chì đen. Cây thập tự trắng không ghi gì cắm trên mộ. Ursa ghi dòng chữ Mình yêu bạn và Mình xin lỗi ở hai bên mộ.
“Trong ngôi mộ đó có người kìa,” Jo nói.
“Tôi biết.” Anh cầm tờ giấy lên để hai người bọn họ săm soi. Ursa vẽ một người phụ nữ đang nằm trong mộ, đôi mắt nhắm nghiền, tóc dài ngang vai, sau đó tô đen phủ lên. “Trời ơi!” Gabe thốt lên. “Cô có đang nghĩ giống tôi không?”
“Người con bé quan tâm đã qua đời, vậy nên đó là lý do mà nó không nơi nương tựa.”
Anh gật đầu.
Jo lấy bức tranh khỏi tay anh. “Không biết vì sao con bé lại ghi Xin lỗi nhỉ?”
“Phải. Đáng sợ thật,” anh nhận xét.
“Đừng nói với tôi là anh nghĩ cô nhóc giết người nhé.”
“Ai mà biết chuyện gì đã xảy ra? Đó là lý do cô nên đưa con bé đến cảnh sát ngay lập tức.”
“Tôi bảo này, tôi ngán đến tận cổ việc anh lên giọng đạo đức với tôi rồi đấy. Hình như anh đã quên anh mới là người quyết định chúng ta giữ cô bé lại cho đến khi hiểu thêm về nó.”
“Lại nữa,” anh đáp.
“Lại nữa cái gì?”
“Cô lại công kích tôi hòng né tránh vấn đề với Ursa.”
“Ai né tránh vấn đề của Ursa hơn anh? Anh phủi tay quay đi như thể chúng tôi là một đám mèo hoang anh không muốn dính líu, à mà không, anh đối xử với đám mèo còn tốt đẹp hơn nhiều.”
Anh tiến đến gần, ngay trước mặt cô. “Lời cô nói thật nuốt không trôi!”
“Việc anh làm tôi cũng nuốt không trôi!”
“Tôi còn biết phải làm gì nữa đây? Chúng ta tự chui đầu vào rọ rồi. Cô không thấy điều đó sao, Jo? Chúng ta có thể bị buộc tội bắt cóc và ngồi bóc lịch đấy.”
Cô vẫn nhìn thẳng vào mắt anh. “Đó không phải lý do anh ngoảnh mặt làm ngơ chúng tôi!”
Anh nao núng, không dám mặt đối mặt với cô. Cử chỉ ấy đã tiết lộ với cô tất cả những gì anh đang tìm cách giấu giếm. Biết còn lâu cô mới để mình yên, anh dợm bỏ đi.
Cô bất giác chộp lấy cánh tay anh. “Đừng!”
Hai người họ bốn mắt nhìn nhau, nét mặt anh trở nên cẩn trọng. “Đừng gì?”
“Đừng vạch khoảng cách với tôi. Chúng ta cần nói rõ chuyện đang xảy ra giữa hai ta.”
Vẻ ngoài hờ hững của anh biến sắc, lộ rõ sự lo sợ.
Ít nhất, anh biết cô đang nói tới điều gì. “Ta không thành thật với nhau được sao?”
Anh lùi lại, giật tay mình khỏi cô. “Tôi đã nói với cô rồi. Tôi là một kẻ thất bại. Cô biết tôi không thể làm chuyện này mà.”
“Chẳng có thất bại gì cả.”
“Không ư?” Anh vòng tay siết quanh ngực mình. “Tôi chưa từng qua lại với người phụ nữ nào. Vậy đã đủ thất bại chưa?”
“Thông minh,” cô nói.
Anh nới lỏng vòng tay của mình. “Thông minh gì?”
“Anh khiến tôi nhớ đến Ursa, lúc nào cũng dựng pháo đài xung quanh mình, ngay cả với đồng minh.”
“Chuyện đó thì liên quan gì ở đây?”
“Anh đang hy vọng tôi sẽ bị sốc và cảm thấy ghê tởm khi một người đàn ông hai mươi lăm năm cuộc đời chưa từng qua lại với bất kỳ một người phụ nữ nào, đúng không? Anh nói như vậy hòng tống cổ tôi, như cách anh dùng bệnh tình của mình để giữ khoảng cách với tôi.”
Anh nghiến chặt hàm và liếc mắt về phía cầu thang.
“Xin anh đừng bỏ của chạy lấy người lúc này.”
“Chúng ta phải tìm Ursa,” anh nói.
“Anh chỉ biết nói bấy nhiêu thôi sao?”
“Chứ cô muốn tôi nói gì?”
Cô nhìn lại bức vẽ ngôi mộ của Ursa. Trong quan tài hình chữ nhật chứa xác người phụ nữ, cô như nhìn thấy chiếc hộp rỗng không từng chứa tro cốt của mẹ cô. Sau khi hoàn thành di nguyện cuối cùng của bà - đổ tro cốt hòa theo ngọn sóng bạc mát lành ở hồ Michigan - Jo không đủ dũng cảm để vứt chiếc hộp còn vương lớp tro từ cơ thể của đấng sinh thành. Cô vẫn giữ chiếc hộp đó. Cảm giác trống trải vẫn luôn tồn tại, lẩn khuất trong cô, một khoảng trống nơi tình thương của mẹ từng hiện diện, nơi những phần phụ nữ của cô từng tồn tại.
Anh nhìn bức tranh vẽ ngôi mộ.
“Anh biết không, tôi sợ chẳng kém gì anh,” cô lên tiếng.
Đôi mắt anh chuyển từ bức tranh sang cô.
“Anh có nhớ cảm giác anh từng mô tả, thứ cảm giác giống như ‘đám đông như nghiền nát lòng anh’ không? Có lẽ, đó là cách diễn tả đúng khi nói về việc anh sợ người khác sẽ khiến anh tổn thương như thế nào nếu anh cho phép họ lại gần mình.”
Anh lặng thinh. Nhưng làm sao anh biết được khi anh chưa bao giờ trải nghiệm một mối quan hệ khăng khít với ai đó?
“Khi anh nói anh chưa từng qua lại với bất kì người phụ nữ nào, việc đó có bao gồm việc hôn không?” Cô hỏi.
“Thời trung học, tôi chẳng biết làm thế nào để tiếp chuyện với các bạn nữ cả. Tôi mắc chứng rối loạn lo âu.”
“Vậy anh chưa hôn bao giờ ư?”
“Chưa.”
Vị trí chênh vênh trong khu rừng tối nơi họ đang đứng tựa hồ một điểm tựa, một cực điểm của sự chân thật mà cuối cùng họ đã chạm đến. Ursa đã dẫn dắt họ theo hướng mà con bé muốn, nhưng cảm xúc chơi vơi vẫn có thể khiến họ chệch khỏi cân bằng bất cứ lúc nào. Phải tìm ra Ursa, chắc chắn là thế, nhưng trong thâm tâm, Jo biết con bé đang trốn ở một nơi an toàn và không gặp nguy hiểm. Nguy hiểm duy nhất hiện giờ, là Jo và Gabe có lẽ sẽ để phút giây này trôi qua mà không học được cách nhìn nhận như cách con bé đã làm, xem những khoảnh khắc này như một sự hữu duyên trong vũ trụ diệu kỳ mênh mông, như một món quà tuyệt vời mà con bé trao tặng.
Jo tắt đèn pin rồi để lên bàn. Cô cũng lấy đèn pin khỏi tay anh rồi tắt đi. Anh giật mình, đột ngột lùi về phía bóng tối. “Cô làm gì thế?” Anh hỏi.
“Tạo điều kiện cho anh.”
“Tạo điều kiện làm gì cơ?”
“Để anh có nụ hôn đầu.”