← Quay lại trang sách

Chương 20

Cô tìm đến anh trong bóng tối chẳng mấy khó khăn. Cơ thể anh tỏa ra hơi nóng, hay có lẽ đó là nỗi sợ. Anh thoáng rụt lại khi cô đặt tay lên ngực anh. Cô từng chút, từng chút một lần tay lên cổ anh. Da anh ấm áp và âm ẩm, tựa đêm hè đang bao quanh. Cô lùa tay qua bộ râu và đưa hai đôi môi đến gần nhau hơn. Khi anh dường như đã quen, cô dồn dập hơn. Anh đã tắm trước khi đi ngủ, nhưng mùi cơ thể vững chãi của anh, cùng chút vấn vương của núi rừng và nông trại, lấn át hương xà phòng thoang thoảng. “Em rất thích mùi hương trên cơ thể anh.”

“Thật à?”

“Thính giác của em nhạy lắm.” Cô đưa tay xuống phía dưới, lần áo thun của anh và kéo ngược áo lên. Áp mặt vào làn da người đàn ông trước mặt, cô hít thật sâu mùi hương ấy. “Mmm…”

“Jo…”

Cô ngước mặt lên nhìn anh. “Sao thế?”

Anh cúi xuống, chạm vào môi cô. Một nụ hôn tuyệt vời.

Sau khi hai đôi môi buông lơi, cô áp cơ thể mình lên anh. Anh cũng muốn vậy, bởi anh siết cô chặt trong vòng tay của mình. Họ cuốn lấy nhau, tan chảy vào nhau, hòa vào đêm đen, tựa hồ hai cơ thể đã dự tưởng điều này và chuẩn bị sẵn sàng ngay từ ngày đầu tiên gặp nhau trên đường. Cô chưa bao giờ nghĩ buổi đêm lại dễ chịu đến thế.

“Điều này có nghiền nát tâm hồn anh nhiều lắm không?” Cô hỏi.

“Một mức độ nghiền nát tâm hồn hoàn hảo,” anh đáp.

Song, họ không tài nào gạt được Ursa ra khỏi đầu. Bức tranh vẽ ngôi mộ cứ ám ảnh tâm trí Jo. “Cứ thế này cả đêm thì hay nhỉ?” Cô thủ thỉ. “Nhưng ta phải tìm Ursa thôi.”

Anh lùi lại, một tay vẫn đặt trên eo cô. “Anh nghĩ là anh biết con bé ở đâu. Chỉ còn một nơi để tìm.”

“Mong là con bé ở đó.”

Anh sờ soạng xung quanh tìm đèn pin. Jo tìm thấy một chiếc và bật nó lên. Cô cảm giác anh như thay da đổi thịt sau lần đầu tiên giải tỏa dục vọng, dường như anh mềm mỏng hẳn, nhất là trong đôi mắt, và cô tự hỏi liệu Gabe có thấy cô đổi khác hay không. Anh nhìn cô không chớp mắt.

“Anh nghĩ cô bé ở đâu?”

“Trong căn nhà gỗ nhỏ. Bố anh đã xây nó khi nhà anh đông người quá, nhà chính thì chật chội. Khi đã đủ tuổi, mấy đứa con của chị Lacey thích một mình một cõi ngoài đấy.”

“Ursa có biết chỗ đó không?”

“Anh đã có một lần chỉ cho con bé rồi. Thì phải luôn kiếm trò để khuấy động đầu óc cô nhóc ấy mà.”

“Đúng thật.”

Anh nắm tay cô đi ra cầu thang, thoáng lưỡng lự khi phải buông nhau ra lúc dẫn cô xuống dưới. Họ leo từ bầu không khí chống chếnh trên ngọn cây xuống đất rừng mềm mại. “Lối này,” anh nói.

Hai người bọn họ đi ngang tấm biển NHÀ CỦA GABE và rẽ vào một lối mòn mới. Sau vài phút, Jo trông thấy một căn nhà gỗ con con dưới ánh đèn pin của anh. Căn nhà thô sơ được lợp mái tôn gỉ sét, khiến cô liên tưởng đến một ca-bin cắm trại. Căn nhà được ghép bằng các thanh gỗ tuyết tùng và dựng cách mặt đất chừng một mét bằng cột gỗ. “Đẹp quá,” cô thốt lên. “Ai mà ngờ một vị giáo sư văn học lại khéo tay trong việc xây dựng đến thế kia chứ?”

“Bố anh, Arthur Nash, là một người đàn ông tháo vát. Ông ấy xoay xở gì cũng giỏi.”

Cô bước theo anh lên cầu thang gỗ, đặt chân lên hàng hiên có màn che với hai chiếc ghế bập bênh hướng ra khu rừng. Anh chậm rãi mở cánh cửa gỗ, bản lề gỉ sét kêu ken két do lâu ngày không được sử dụng. Cánh cửa dẫn vào một không gian mở với một bộ bàn ghế, phía sau là hai phòng ngủ. Gabe chiếu đèn vào phòng ngủ bên trái, trong khi Jo nhìn sang bên phải. “Đây rồi,” Gabe lên tiếng. Jo bước đến chỗ anh và thấy Ursa đang cuộn tròn nằm nghiêng trên giường dưới của chiếc giường hai tầng. Cô bé vẫn mặc bộ đồ in hình hoa màu xanh dương lúc đi ngủ, mang theo chăn trên chiếc ghế ngoài hiên dùng làm gối. Mí mắt rung lên mơ màng.

“Đừng nói gì về bức tranh ngôi mộ,” Jo thì thầm. “Không phải đêm nay.”

Anh gật đầu.

Cô tắt đèn pin, ngồi xuống mép giường và vuốt ve tóc con bé. “Nào, Gấu Lớn ơi, dậy thôi!” Cô dịu dàng gọi.

Đôi mắt nâu thăm thẳm của Ursa khẽ hé mở, và những lời đầu tiên con bé thốt lên thể hiện mục tiêu của kế hoạch cao chạy xa bay của nó. “Chú Gabe có ở đây không ạ?”

“Chú đây,” Gabe lên tiếng. Anh bước đến, chú ý không chiếu đèn pin vào con bé khiến nó bị chói. “Cô Jo và chú quyết định từ nay về sau sẽ cho con ngủ trong chuồng chó rồi khóa lại.”

Ursa ngồi bật dậy. “Con không chịu đâu!”

“Con phải làm quen với điều đó thôi.”

Con bé cười ngái ngủ.

Anh quỳ xuống trước mặt con bé giống như cái đêm nó bị lạc trong suối. “Trèo lên lưng chú đi, chú sẽ đưa con về nhà.”

“Đưa về tận nhà thì xa lắm,” Jo nói.

“Vậy anh sẽ cõng con bé đến xe của em và cùng em lái xe về nhà,” anh nói với cô.

“Thật ạ?” Ursa nói.

“Ừ. Leo lên đi. Tàu tốc hành Gabriel sắp xuất phát rồi.”

Ursa vụng về trèo lên.

“Giờ thì xem ai mới là người chiều con bé,” Jo lầm bầm. “Sao mà hay thế không biết.”

Gabe cõng Ursa ra cửa, một nụ cười che giấu xuất hiện dưới bộ râu. Jo cuộn tấm chăn lại và đi theo. Khi ra đến xe, Gabe đặt Ursa xuống băng ghế sau và ngồi cạnh cô bé.

“Anh để mẹ ở nhà thế này có sao không?” Jo hỏi. “Lỡ bác cần đi vệ sinh thì sao?”

“Mẹ anh vẫn tự lo cho bản thân mình được, ơn trời là thế. Nhưng bà dễ mất thăng bằng, ấy vậy nhưng bà nhất định không chịu sử dụng cây gậy chị Lacey mua cho.”

Jo liếc nhìn anh qua gương chiếu hậu trong lúc bắt đầu lái xe. Ursa cuộn tròn người tựa vào lồng ngực anh, còn anh đưa hai tay ôm trọn lấy con bé. Cô không muốn rời mắt khỏi hình ảnh ấm áp ấy của hai chú cháu nhưng cô phải quan sát con đường gồ ghề trước mặt. “Khốn thật,” cô nói khi khung xe cạ vào gầm. “Đường nhà anh phá hỏng hết xe của mẹ em rồi.”

“Đây là xe của mẹ em à?” Anh hỏi.

“Phải.” Jo rẽ trái vào Đường Turkey Creek rồi lái vào đất Nhà Kinney. Nghe thấy tiếng động, Gấu Nhỏ đứng trên hiên sủa nhặng xị.

Gabe bế Ursa vào trong. Anh tìm thế đặt con bé xuống ghế sô pha nhưng nó nhỏm dậy. “Con ngủ thêm đi,” anh ân cần.

“Chú đừng đi,” con bé năn nỉ.

“Chú sẽ ở đây. Con ngủ đi.” Anh đắp chăn cho cô bé trong lúc nó tựa đầu lên gối. Jo vẫn để căn nhà tối đèn, chỉ bật mỗi lò sưởi.

“Sao chú tốt bụng trở lại rồi?” Ursa hỏi.

“Chú khi nào cũng tốt bụng mà,” anh đáp.

“Đôi khi chú không thế đâu.”

“Nhắm mắt lại đi.” Anh ngồi trên mép ghế sô pha, tay đặt ngang người con bé khi nó chìm dần vào giấc ngủ. Jo an vị ngay bên cạnh. Khi tiếng thở của Ursa trở nên sâu và nhịp nhàng hơn, Gabe tiến về phía cửa trước. Rời khỏi căn nhà mát mẻ, họ bước ra khu rừng nóng ẩm.

“Để em đưa anh về,” Jo lên tiếng.

“Anh đi bộ được rồi,” anh từ chối.

“Anh cần tiêu bớt năng lượng của nụ hôn đầu à?”

“Vậy sao? Chắc anh phải đi bộ năm chục ki-lô-mét mới tiêu hết năng lượng của nó quá.”

“Em cũng thế. Có lẽ một cái mi má chúc ngủ ngon sẽ giúp dịu bớt tình hình đấy.” Cô vòng tay ôm anh và trao cho anh một nụ hôn dài hơn một cái mi trên má.

“Kiểu này chỉ khiến năng lượng càng dâng cao thôi em ạ.” Anh ôm cô vào lòng, đưa mắt nhìn ngôi nhà đằng sau. “Lạ thật, giờ anh lại thích đến đây rồi. Ngày trước, anh ghét ngôi nhà này lắm. Bao nhiêu năm anh đều không ngó ngàng đến nó, cho tới ngày em bảo anh mang trứng qua.”

Jo rời khỏi vòng tay anh. “Sao anh lại ghét ngôi nhà này? Em tưởng anh thân với Nhà Kinney mà?”

“Không hẳn.”

“Anh nói Giáo sư George Kinney đã dạy cho anh về côn trùng dưới nước còn gì?”

“Thì đúng vậy.”

“Chà, em thấy mẹ anh có vẻ rất mến thầy ấy, vậy chắc bố anh không thích đúng không?”

“Bố anh và Giáo sư George như chó với mèo ấy.”

“Tại sao thế?”

“Bố anh là kiểu người thông minh có thừa, lúc nào cũng sẵn sàng khua môi múa mép cho thiên hạ biết. Cái gì ông ấy cũng thích hơn người, vấn đề nào ông ấy cũng muốn mình phải là người thốt ra lời vàng ý ngọc nhất. Giáo sư George cũng đức rộng tài cao không kém, nhưng trầm tính hơn. Anh không biết bây giờ ông ấy như thế nào, nhưng khi anh còn bé, Giáo sư George Kinney luôn kiểu… nói sao nhỉ, như thể ông ấy tỏ tường mọi bí ẩn của vũ trụ, song tính ông xuề xòa nên chẳng buồn khoe ra.”

“Chân nhân bất lộ tướng?”

“Hoàn toàn chính xác, và chính phong thái hữu xạ tự nhiên hương đó của ông ấy khiến bố anh bực mình. Bố anh tìm cách hạ bệ đối phương bằng những lời thọc gậy bánh xe mà ông cho là đùa cợt. Ví dụ như ông thường bảo Giáo sư George là một ‘kẻ bắt bọ’ ở Đại học Illinois, còn ông là một học giả văn chương ở Đại học Chicago.”

“Trời, tội nghiệp thầy George!”

“Em không cần cảm thấy tội nghiệp ông ấy đâu. Dăm ba lời nói ấy đối với Giáo sư George chẳng khác nào nước chảy lá môn cả. Ông ấy thậm chí còn hùa theo nữa kìa, khiến bố anh trông chẳng khác nào một kẻ chua ngoa. Bằng cách nào đó, ông ấy luôn cao tay hơn. Bố anh trở thành trung tâm chú ý trong các buổi tụ họp nhờ những câu nói đùa và những thảo luận đậm chất xám, còn ông George chỉ lẳng lặng quan sát xem ai là người đầu óc nhất, nói ít nhưng lời nào cũng chất lượng.”

“Đúng kiểu của thầy ấy.”

“Phải.”

“Đó là lý do bố anh và Giáo sư George không qua lại với nhau nữa ư?”

“Họ là bạn cho đến ngày bố anh qua đời.”

“Vậy tại sao anh lại ghét căn nhà này?”

Anh trầm tư nhìn vào khu rừng. “Em đã bao giờ nhìn thấy một nghĩa địa cũ nằm giữa hai khu đất chưa?”

“Gì cơ? Hồi anh còn nhỏ, anh đã nghĩ nghĩa địa bị ma ám à?”

Môi anh nhếch thành một nụ cười gượng gạo. “Ừ, anh phải công nhận nó bị ma ám.”

“Thật sao? Thế con ma tên gì?”

Nụ cười anh tắt ngúm trên khuôn mặt. “Lấy đèn pin đi, anh sẽ chỉ em.”