Chương 21
Jo cần ngủ, nhưng cô cũng tò mò về lý do khiến tâm trạng của Gabe thay đổi như chong chóng. Sau khi kiểm tra Ursa trong phòng khách, cô lấy đèn pin và bật nó lên khi gặp anh trên lối đi. “Lối này,” anh nói và dắt cô vào rừng. Gấu Nhỏ chạy theo, vẫy đuôi hào hứng vì được đi dạo bộ dù đêm đã khuya khoắt.
Gabe chiếu đèn lên con đường trải sỏi. “Lâu rồi anh mới đến, nhưng chắc đi từ đây.” Họ bước qua đám cây cối um tùm bên rìa đường. Nhưng khi vào sâu hơn một chút, khu rừng trở nên thoáng hơn nên có thể dễ dàng định vị.
“Ngày trước, bố mẹ anh và anh thường đến đây ít nhất một tháng một lần vào cuối tuần trong suốt năm học, và ở lại đây gần hết mùa hè,” anh vừa đi vừa kể. “Thầy George và cô Lynne, vợ thầy, giờ không đến thăm khu đất này thường xuyên, nhưng hồi anh còn bé, họ cũng năng tới đây lắm.”
Anh dừng lại một chút rồi nói tiếp, “Năm lên mười một, anh để ý thấy mẹ anh và thầy George hay nói với nhau những câu chuyện cười mà chỉ họ mới hiểu. Hầu như mẹ anh là người khơi ra. Bà sẽ dùng những từ như hy vọng hay thích mê khi nói chuyện với thầy ấy.”
“Em không hiểu anh nói gì hết.”
“Kiểu như, để đáp lại điều gì đó mà thầy ấy nói, mẹ anh sẽ trả lời Ta chỉ có thể hy vọng hoặc Nhìn hoàng hôn kìa, ai mà chẳng thích mê.”
“Lạ nhỉ?” Jo nhận xét.
“Ừ, lúc ấy anh cũng tò mò lắm.” Anh và Jo cùng bước qua một khúc cây. “Thế là anh chú ý đến hai người bọn họ nhiều hơn. Hầu hết người lớn thường không nhận ra con nít đang dỏng tai nghe hay cho rằng chúng hiểu điều mình nói.”
“Đúng thế thật.”
Anh dừng lại, dùng đèn pin chiếu tới chiếu lui để định hướng. Anh rẽ sang phiến đá ở phía bên trái. “Vậy nên càng nghe lén bọn họ, anh càng cảm thấy lấn cấn.”
“Ờ ừm.”
“Năm lên mười hai, anh đã chắc chắn hai người họ đang vụng trộm với nhau. Mùa hè năm ấy, anh xuống sông tìm côn trùng với thầy George, và ông ấy nhắc đến chuyện ông mệt vì tối hôm trước bị mất ngủ.”
“Vậy thì sao?”
“Mẹ anh cũng hay bị mất ngủ, và bà bảo điều duy nhất có thể chữa được nó là đi dạo bộ đường dài.”
“Nhưng như vậy vẫn không đủ làm bằng chứng để kết luận mà.”
“Anh biết. Nhưng vài tuần sau đó, anh đã thử khám phá khoảnh rừng giữa hai khu đất Nhà Nash và Nhà Kinney. Ngày đó, anh thường đạp xe men theo con đường khi qua khu đất Nhà Kinney.”
“Anh đi vào khu vực này hả?”
“Ừ, và anh tình cờ bắt gặp thứ này.” Anh hướng đèn pin của mình sang trái, chiếu vào đống bia mộ. “Vào thế kỷ 18, ở đây từng có một nhà thờ nhỏ, một số người đã được chôn cất trong nghĩa địa trước khi nhà thờ bị thiêu rụi vào năm 1911.”
Họ cùng bước đến mộ, Gabe rọi đèn vào phần mộ cao nhất. Cây thập giá làm bằng đá trắng đã mòn ngay lập tức gợi cô nhớ đến bức tranh của Ursa. Thời gian đã bào mòn phiến đá nhưng vẫn đọc được phần chữ ở trên. Dòng chữ giữa cây thánh giá khắc HOPE LOVETT, 11 THÁNG 8 NĂM 1881 - 26 THÁNG 12 NĂM 1899.
“Hope Lovett,” Jo đọc.
“Em đã nhận thấy sự liên quan chưa?” [22]
“Rồi, nhưng anh có chắc chắn rằng nó liên quan không? Nhỡ đâu chỉ là ngẫu nhiên thì sao?”
“Anh đã cân nhắc đến khả năng ấy, và cuối cùng thì anh đi đến kết luận rằng nó chắc chắn liên quan đến câu nói đùa giữa mẹ anh và thầy George.”
“Liệu nơi này…” Thậm chí cô còn chẳng muốn thốt lên.
“Là nơi họ gặp?”
“Có phải vậy không?”
“Anh đã tìm cách truy ra cho bằng được,” anh kể. “Thầy George và cô Lynne đến đây chừng một tuần rưỡi sau khi anh phát hiện ra nơi này, và như thường lệ, họ ghé qua nhà anh dùng bữa tối và uống rượu. Anh dỏng tai nghe thầy George và mẹ anh trò chuyện cả buổi tối, nhưng không nghe ngóng được điều mình mong chờ, mãi cho đến khi hai vợ chồng họ chuẩn bị ra về. Mẹ anh và thầy ấy bước ra ngoài trước bố anh và cô Lynne. Anh cũng lén lỉnh ra, ngồi trên chiếc ghế ngoài hiên lắng nghe. Thầy George nói gì đó về việc hôm nay thời tiết nóng nực thế nào, và mẹ anh trả lời, Hy vọng tối nay trời mưa cho mát mẻ. Thầy George mỉm cười nhưng không nói gì. Ban đêm mưa bão kể cũng thích, thầy nhỉ? Mẹ anh nói tiếp, và thầy ấy đáp, Phải.”
“Vậy anh cho rằng đó là mật mã họ dùng để hẹn gặp nhau ở tấm bia mộ này?”
“Tất nhiên.”
“Nghe trẻ con quá! Anh có chắc chuyện hai người họ vụng trộm không phải là do trí tưởng tượng của một cậu nhóc mười hai tuổi không?”
“Anh theo dõi họ mà.”
“Bằng cách nào chứ?”
“Anh đã dựng lều trong rừng, ở dưới hẻm núi. Tầm tuổi đó, căn nhà gỗ và nhà trên cây không đủ để phiêu lưu em ạ.”
“Anh lẻn khỏi lều đến đây á?”
“Anh còn chẳng phải lẻn kìa. Bố mẹ cho anh thỏa sức vẫy vùng trong khu đất này mà.” Anh chiếu đèn pin lên đống đá tảng gần đấy. “Đống đá kia có lẽ được đào từ móng nhà thờ năm xưa. Anh đã trốn ở đó theo dõi bọn họ.” Thấy anh bước qua đống đá tảng, Jo lò dò theo sau. “Em thấy chỗ này tầm nhìn tốt thế nào chưa?”
“Em thấy rồi. Kể em nghe chuyện gì đã xảy ra đi. Em hồi hộp muốn rụng tim rồi.”
“Anh đến đây sau khi mặt trời lặn rồi kiên nhẫn chờ đợi. Anh đem theo sẵn nước, bánh kẹo và cuốn sách giải ô chữ vì anh biết mình sẽ khó mà thức được.”
“Giải ô chữ trong lúc rình mò mẹ mình vụng trộm sao?”
“Bố anh và anh thích mê trò giải ô chữ. Anh là một mọt sách chính hiệu đấy.”
“Thôi, anh kể luôn chuyện gì đã xảy ra đi!”
“Khoảng năm phút sau nửa đêm, anh trông thấy ánh đèn pin từ phía nhà mình. Đó là mẹ anh. Bà cầm theo chăn và mặc chiếc váy hoa mà anh rất thích.”
“Trời ơi!”
“Bà trải chăn trên ngôi mộ Hope rồi ngóng về phía khu đất Nhà Kinney. Chừng năm phút sau, một ánh đèn khác tiến đến từ phía khu rừng Nhà Kinney. Mẹ anh đặt đèn pin của bà xuống đất để nó hắt lên cây thập giá trắng. Thầy George Kinney tiến đến gần, trên tay cầm cây đèn dầu cũ. Thầy ấy vừa đặt đèn xuống thì hai người họ hôn nhau.”
“Gabe, em rất tiếc.”
Anh không nghe thấy lời cô mà chỉ mải nhìn cây thánh giá trắng. “Mẹ anh nói, Hồn ma của Hope nhớ chúng mình lắm đấy trong khi kéo khóa quần của thầy ấy xuống, và đó là lần đầu tiên anh trông thấy một George già nua rạo rực đến vậy.”
“Còn anh đã làm gì?”
“Anh còn có thể làm được gì khác? Anh bị mắc kẹt ở đấy. Chỉ cần nhúc nhích một chút thôi là đã đủ để họ nghe thấy tiếng cành lá lạo xạo rồi. Anh chỉ biết ngây ra nhìn.” Anh lại chăm chăm nhìn cây thánh giá. “Đêm ấy, anh đã học rất nhiều thứ về tình dục. Hai người bọn họ làm gần như đủ trò.”
Jo nắm lấy tay anh. “Mình đi thôi.”
“Anh chưa kể đến phần hay nhất đâu,” anh nói bằng giọng mỉa mai chẳng giống anh chút nào. “Sau đó bọn họ trò chuyện với nhau. Đầu tiên cũng chỉ là dăm ba câu chuyện vô thưởng vô phạt. Sau đó, thầy George lên tiếng, Em có biết Gabe và anh đã cùng nhau tìm mẫu ở con suối thêm lần nữa không? Mối quan tâm mà thằng bé dành cho thế giới tự nhiên như một chiếc thùng không đáy vậy. Mẹ anh đáp, Đúng là hổ phụ sinh hổ tử, nhỉ? Em rất vui khi anh có thể dành thời gian bên con trai mình.”
Jo cố gắng ôm lấy anh, nhưng người anh cứng đờ ra như khúc gỗ. Anh không rời mắt khỏi cây thập giá trắng. Cô lấy tay xoay mặt anh nhưng không được. “Hóa ra ai cũng biết,” anh tiếp tục. “Nhìn anh giống ông ta như lột. Đó là lý do anh để râu, làm vậy để hằng ngày anh không phải nhìn thấy gương mặt ông ta trong gương. Anh chưa từng nhìn rõ mặt mình kể từ khi anh nuôi bộ râu này năm anh mười sáu tuổi.”
“Bố anh có biết chuyện này không?”
“Biết chứ. Chuyện hai người họ dan díu với nhau rành rành như ban ngày. Anh phát hiện ra chuyện này ở tuổi mười hai, độ tuổi mà anh chẳng biết gì về những thứ như vậy. Và như anh đã nói đấy, anh và thầy George giống nhau như hai giọt nước. Có lẽ người duy nhất không biết là cô Lynne, vợ ông ấy. Cô ấy không phải kiểu người phụ nữ quá sáng dạ, và anh nghĩ đó là một phần lý do ông ấy tìm đến mẹ anh. Mẹ Katherine của anh rất thông minh nhưng là người thâm sâu. Chị Lacey giống y bà ấy.”
“Chị Lacey có biết chuyện này không?”
Phải đến lúc này, anh mới quay sang nhìn cô. “Tất nhiên là có. Đó là lý do chị ấy ghét cay ghét đắng anh. Chị ấy có khuôn mặt của bố, cằm và mũi hơi bè, còn anh mang nét của thầy George. Đêm hôm đó, anh mới chợt nhận ra tại sao chị ấy lại ác nghiệt với anh như vậy kể từ khi anh còn bé.”
“Chắc chắn không chỉ do vẻ ngoài của anh đâu.”
“Đúng thế. Anh là một bằng chứng thất bại của bà Katherine và ông Arthur. Chị Lacey tôn sùng bố mình, chị ấy căm ghét việc ông và thầy George vẫn giữ mối quan hệ hòa hảo dù người bạn ấy của ông đã mó tay vào vợ mình. Thật đau lòng khi nhìn thấy ông bị cắm sừng như thế.”
“Anh từng nói với chị ấy về những chuyện này chưa?”
“Đêm nay là lần đầu tiên anh kể chuyện này với người khác.”
“Anh không kể với bác sĩ tâm lý lúc anh bị suy nhược thần kinh sao?”
“Để làm gì chứ?”
“Để giúp anh tháo gỡ vấn đề. Trước khi anh biết thầy George là bố mình, anh đã từng yêu quý ông ấy. Hẳn ông ấy và mẹ anh không muốn anh chứng kiến những chuyện đó.”
“Nhưng anh đã lỡ thấy rồi! Và em có biết sau khi mọi sự xong xuôi, anh nôn thốc nôn tháo không? Anh không ra khỏi giường hai ngày liền. Chẳng ai biết tại sao mà anh không phát sốt nhưng cứ li bì mãi.”
“Hóa ra mọi chuyện bắt đầu từ đấy.”
“Sao kia?”
“Mỗi khi có chuyện khiến anh phiền lòng, anh đều bám rịt lấy chiếc giường để quay lưng lại với thế giới.”
Anh nhìn cô chằm chằm, ánh mắt “tựa sấm sét”, đúng như lời Ursa nói.
“Có lẽ mọi thứ khởi nguồn từ đêm ấy,” cô nói.
“Phải, còn em đâu mắc ung thư. Em chỉ cắt bỏ ngực của mình để bản thân vật vã thôi nhỉ?”
“Gabe!”
“Em hiểu cảm nhận của anh chưa?” Nói đoạn anh bỏ đi.
“Em không có ý nói anh không mắc trầm cảm,” cô nói với theo anh. “Em chỉ đang nói về nguyên nhân thôi mà. Trầm cảm có thể do gen, môi trường hoặc cả hai thứ đó.”
Anh vẫn không dừng bước.
“Thật không thể tin được! Anh lại hành động như thế rồi. Đó là lý do anh đưa em đến đây và kể em nghe chuyện này sao? Để anh có thêm lý do đẩy em ra xa ư?”
Bóng dáng Gabe cứ thế biến mất vào hàng cây, ánh sáng từ ngọn đèn pin mờ dần theo từng bước chân anh. Cô đi đến mộ của Hope Lovett và rọi đèn lên cây thánh giá. Hope qua đời ở tuổi mười tám, ngay sau ngày Giáng Sinh, trước thềm thế kỷ mới. Nghe mà nao lòng. Gặp tình nhân ở một nơi như ngôi mộ này thì quả là kỳ lạ.
Hoặc khéo là không phải thế. Bà Katherine là một nhà thơ. Biết đâu bà ấy lại xem đây là ẩn dụ của hy vọng và thanh xuân hồi sinh, sau khi đã từ bỏ bao ước mơ cho hôn nhân và con cái.
Jo quét đèn pin qua những ngôi mộ đã dầm nắng mưa, kinh ngạc khi thấy có rất nhiều ngôi mộ trẻ em, thường được chôn cạnh bố mẹ đã chứng kiến cái chết của con cái mình. Người tóc bạc lại phải tiễn người tóc xanh. Có lẽ bà Katherine muốn tưởng nhớ tới chúng. Có lẽ bà mang thai Gabe ngay tại đây, dưới sự chứng kiến của hồn ma Hope.
Jo đi ngược về nhà thầy George Kinney, Gấu Nhỏ theo sau. Cô về đến nơi thì đã ba giờ bốn mươi phút, Ursa vẫn đang say giấc. Đoán mình khó lòng có thể thức giấc sau một tiếng đồng hồ, cô không buồn đặt báo thức.
Cô cố chớp mắt, song suy nghĩ cứ trăn trở về những gì đã xảy ra mấy tiếng trước. Đến bốn giờ rưỡi, cô thao thức không yên. Cô cần phải ngủ và trút bỏ hết những suy nghĩ kia ra khỏi đầu. Suy nghĩ về những ngôi mộ cùng người phụ nữ bị chôn dưới đất trong bức tranh của Ursa khỏa lấp khoảnh khắc nồng nhiệt giữa cô và Gabe trong ngôi nhà trên cây. Mọi thứ đều bung bét. Cô không nên hôn anh. Cô không nên cho Ursa ở lại. Tại sao cô lại để tình thế rối ren này phá bĩnh công việc nghiên cứu của mình chứ?