← Quay lại trang sách

Chương 23

Gabe mang phần bông lơ nhúng xốt phô mai còn dư qua nhà Jo.

“Lại là bông lơ phát gớm nữa ạ?” Ursa oai oái. “Đêm qua cô Jo vừa mới bắt con ăn xong!”

“Nhưng nó có nhúng xốt phô mai tan chảy mà,” anh trấn an con bé. “Xốt phô mai biến mọi thứ trên đời này thành cao lương mỹ vị đấy, kể cả đất.”

“Vậy thì con chọn ăn đất có được không ạ?”

“Chú rất ấn tượng với những người phụ nữ có đầu óc phản xạ sắc như dao cạo,” anh nhận xét. “Nhưng gần đây chú bị họ lấn át về số lượng quá.” Anh đặt tô bông lơ lên bàn bếp. “Anh giúp gì được?”

“Anh vừa nấu bữa tối xong mà,” Jo trả lời. “Anh cứ bước ra không gian oi bức ngoài kia đi, đã oi lại càng oi hơn vì ngọn lửa, tận hưởng bia lạnh với đồ khai vị cùng Ursa nhé. Nhưng không được cho Ursa uống bia đâu đấy.” Cô đưa đĩa đựng bánh quy mặn phủ phô mai cheddar cho Ursa.

“Con làm đấy!” Cô bé khoe.

“Nhìn ngon quá,” anh khen.

Jo khui chai bia lấy từ tủ lạnh rồi đưa cho anh. “Anh cứ ra ngoài đi. Vài phút nữa em nướng cá luôn.”

“Cô Jo bắt con ăn một món gì đó mang tên mahi-mahi [23] ,” Ursa mách anh khi hai chú cháu bước ra cửa sau.

“Chú từng nghe qua món này rồi, hình như là món sâu bướm khổng lồ,” anh khép cửa lại và nói.

Jo làm bơ tan chảy rồi mang chúng ra ngoài cùng với cá và xiên rau củ. Cô đặt xiên rau củ lên ngọn lửa trước tiên. Sau khi gần chín, cô xếp cá phi lê rồi đổ bơ lên nướng. Thời tiết tuy oi bức nhưng ba người họ vẫn quyết định ăn ở bên ngoài, ngồi trên những chiếc ghế xếp cũ sờn có lẽ từ thời nhà Kinney còn sống trong căn nhà này.

“Lúc tắm xong, em đã tranh thủ đọc vài bài thơ mà mẹ anh viết,” Jo nói sau khi họ dùng xong bữa.

“Cuốn nào?”

“Tạo vật rì rầm. Em muốn đọc theo thứ tự thời gian.”

“Anh đọc mỗi cuốn đấy,” anh kể. “Nó được xuất bản hai năm trước khi anh ra đời.”

“Anh chưa đọc bài nào trong cuốn Hồn ma của Hope à?”

“Chưa. Nó được xuất bản năm anh mười ba tuổi, một năm sau khi…”

“Sau khi gì ạ?” Ursa thắc mắc.

“Sau khi chú khám phá ra ý nghĩa cuộc sống,” anh trả lời chua chát.

Ursa nhìn anh thật chăm chú, cố gắng hiểu điều anh ngụ ý. Con bé giống hệt anh lúc nhỏ, lúc nào cũng chú ý đến nhất cử nhất động trong cách cư xử của người lớn. Cố giữ bí mật thứ tình cảm đang đâm chồi giữa hai người chẳng khác nào lấy vải thưa che mắt thánh. Hẳn con bé đã đánh hơi thấy sự khác biệt giữa anh và cô.

“Trời, đĩa sạch bong,” Jo nói với cô bé. “Hết sạch bông lơ rồi này.”

“Có xốt phô mai nên dễ ăn hơn ạ,” con bé đáp. “Cô nên làm thế với món bông lơ phát gớm này.”

“Cảm ơn anh,” Jo quay sang Gabe. “Nhờ anh mà trình độ nấu ăn nghiệp dư của em lại gặp thử thách rồi.”

“Không có chi. Nhưng anh ủng hộ phương thức nấu nướng đơn giản của em đấy. Món cá này ngon quá.”

“Con ăn kẹo dẻo được không ạ?” Ursa xin.

“Con đợi một lát cho xuôi đã,” Jo đáp.

Ursa ngồi thườn thượt trên ghế.

“Cô có chuyện này muốn hỏi con,” Jo bảo con bé.

“Chuyện gì vậy ạ?”

“Tối qua khi chú Gabe và cô đi tìm con, cô chú đã kiểm tra căn nhà trên cây và phát hiện vài bức tranh con vẽ.”

Ursa vẫn nằm ườn ra ghế, không tỏ biểu cảm gì.

“Trong bức tranh con vẽ ngôi mộ, ai là người bị chôn dưới đất vậy?”

“Một người chết ạ,” Ursa đáp.

“Cô biết, nhưng đó là ai?”

Con bé ngồi dậy. “Là con.”

“Con ư?” Gabe hỏi lại.

“Ý con là cơ thể này này. Con chiếm xác của một bạn gái, cô chú không nhớ sao?” Jo và Gabe lặng thinh đợi con bé giải thích thêm. “Con cảm thấy rất tội lỗi khi làm vậy. Con biết những người trên hành tinh này phải được chôn cất sau khi mất, nên con mới làm thế. Con đã vẽ bạn ấy rồi chôn bạn ấy xuống đất và cắm cây thánh giá bên trên như người ta hay làm trong nghĩa trang.”

“Tại sao trong bức tranh con lại ghi chữ ‘Mình yêu bạn’ và ‘Mình xin lỗi’?” Jo hỏi.

“Vì con yêu bạn ấy thật mà. Nhờ bạn ấy mà con mới có cơ thể này. Và con nói xin lỗi vì bạn ấy đã không được chôn cất.”

Gabe nhìn Jo, nhướn mày.

“Chứ cô chú nghĩ đó là ai?” Ursa hỏi ngược lại.

“Ai đó trong quá khứ của con,” Jo đáp.

“Con không có quá khứ trên hành tinh này.” Nó trèo xuống ghế. “Con uống thêm sữa được không ạ?”

“Được chứ,” Jo nói.

“Con bé đưa ra câu trả lời hợp lý nhỉ?” Gabe nhận xét khi Ursa vào trong nhà.

“Em thấy con bé có vẻ hơi lo lắng lúc em hỏi.”

“Anh không biết nữa,” anh đáp. “Con bé khôn ranh lắm, dễ gì lòi đuôi ngay cả khi sơ suất kia chứ.”

“Chậc, em muốn con bé nói chuyện trước khi em rời khỏi đây.”

“Khi nào vậy?”

“Khoảng một tháng nữa, đầu tháng Tám.”

“Khốn thật,” anh thốt lên.

“Thì đấy. Khơi ra chuyện này chẳng khác nào xát muối vào tim nhỉ?”

“Nhắc tới chuyện này mới nhớ…” Anh cúi người về phía trước và hôn cô. “Anh muốn làm thế này từ nãy đến giờ. Nhìn em thật quyến rũ khi em lúi húi với ngọn lửa.”

“Anh đúng là người ăn lông ở lỗ.”

“Công nhận.”

Họ lại trao nhau nụ hôn. “Anh sẽ không tẩy được mùi cá ra khỏi bộ râu của mình đâu,” cô nói.

“Là nửa kia của cặp đôi ăn lông ở lỗ, em ngại gì chứ?”

“Em không có ăn lông ở lỗ nhé!”

“Em không thích râu ria à?”

“Thành thật mà nói thì không. Em thích mày râu nhẵn nhụi kìa.”

Anh đưa tay chà lên bộ râu. “Vậy để anh tỉa bớt.”

“Anh nên cạo hẳn đi mới phải.”

“Không đâu.”

“Anh ngồi xuống đi,” cô nói.

“Tại sao?”

“Cứ ngồi đi.”

Anh ngồi xuống đúng lúc Ursa mang sữa ra.

“Nếu anh không cạo thì em cạo,” Jo tuyên bố. Và trước khi anh kịp ngồi dậy, cô nghiêng người ngồi vào lòng anh.

“Cô Jo ơi, cô làm gì vậy ạ?” Ursa tò mò.

“Cô đang bắt chú Gabe làm con tin. Con lấy giúp cô kéo và dao cạo trong nhà tắm nhé.”

“Chi vậy ạ?”

“Cô cháu mình sẽ cạo râu cho chú ấy.”

“Thật ạ?” Ursa hỏi.

“Không,” Gabe chống chế.

“Con có nghĩ cạo râu xong nhìn chú ấy sẽ đẹp trai hơn không?” Jo nói.

“Con không biết…” Ursa đáp.

“Em thấy chưa?” Anh hỏi.

“Nhưng con muốn thấy!” Ursa reo lên. “Trò này vui đấy!”

“Ursa! Con đáng lý ra phải là đồng minh của chú chứ?” Anh than vãn.

“Để con đi lấy đồ.” Cô bé nhanh nhảu chạy về phía cửa, sữa sóng sánh trên tay.

“Cô cần lon kem cạo râu ai đó đã để dưới bồn rửa,” Jo gọi với theo. “Và một tô nước ấm nữa.”

“Jo, thôi nào…” Gabe rền rĩ.

“Anh thôi nào thì có. Anh bảo chưa từng nhìn thấy mặt mình từ khi nuôi râu còn gì.”

“Em biết lý do tại sao lại thế mà.”

“Anh không nghĩ đã đến lúc ngừng trốn chạy bản thân mình rồi hay sao?”

“Anh không muốn thấy mặt ông ấy hằng ngày!”

“Anh không phải ông ấy. Với lại, khuôn mặt anh mang nhiều nét của mẹ mà. Đôi mắt anh nhìn giống bà ấy lắm.”

“Anh biết. Anh cố nuôi râu phủ luôn nhưng không mọc nổi đấy chứ.”

Cô đưa ngón tay vuốt ve phần lông mọc dưới mắt anh. “Gần rồi này.” Cô hôn anh thật khẽ. “Để em làm nhé. Nếu không thích, anh có thể nuôi lại sau.” Cô lại trao anh thêm một nụ hôn nữa. “Anh không muốn hớp hồn em à?”

“Như ông George sao?”

“Em đã từng gặp thầy ấy rồi. Thầy ấy không phải gu của em.”

“Em gặp ông ấy ở đâu?”

“Trong văn phòng sinh học. Thầy ấy nguyên là giáo sư, giờ đã nghỉ hưu nhưng vẫn thực hiện nghiên cứu.”

“Đúng kiểu của ông ấy, làm nghiên cứu cho đến lúc chết.”

“Giáo sư hướng dẫn của em cũng nói câu tương tự. Thầy ấy là huyền thoại trong ngành côn trùng học đấy.”

“Ừ, huyền thoại ở đây nữa.”

Jo nắm gấu áo của anh và kéo lên.

“Em tính cạo cả lông ngực của anh à?”

“Không, em thích lông ngực mà. Nhưng anh phải cởi áo ra kẻo ướt.”

Anh để cô kéo áo qua đầu. Cô bỏ áo anh lên ghế rồi đặt tay lên cơ ngực của anh. “Hay thật,” cô nhận xét. “Anh còn có ngực hơn cả em nữa đấy.”

“Cơ thể em rất đẹp,” anh nói.

Cô rời khỏi lòng anh.

“Anh nói thật, em hiểu mà.”

“Ừ, các vết sẹo thể hiện em đã can đảm thế nào, vân vân và mây mây.”

“Anh không nói vậy.”

“Dù anh có nói gì, em cũng không tin đâu. Nên tốt nhất anh cứ im lặng là được rồi.”

“Không công bằng gì hết.”

“Mặc kệ anh!”

Ursa bước ra ngoài, kem cạo râu kẹp ở ngực, một tay cầm tô nước, tay kia cầm dao cạo và kéo. Jo chạy lại đỡ giúp cô bé. Hai cô cháu bày biện đồ lên chiếc bàn nhựa con con bên cạnh Gabe. “Mình cần khăn tắm nữa,” Jo nói.

“Để con đi lấy,” Ursa nhanh nhảu đáp, “nhưng cô không được làm trước khi con ra đâu đấy!” Con bé vội vã chạy về phía cửa.

“Chí ít việc này cũng có thể mua vui cho ai đó,” Gabe lên tiếng.

“Em sẽ khiến việc này vui nhất có thể,” Jo đáp.

Ursa quay trở lại với khăn tắm trên tay, Jo quàng nó quanh cổ Gabe. Cô kéo ghế xếp ra trước mặt anh và ngồi dạng chân. Trông anh như thể bị hớp hồn bởi đôi chân và chiếc quần đùi jean cô mặc, nhưng họ biết phải giữ mọi chuyện không được đi quá xa trước mặt Ursa. Jo cầm kéo lên để thu hút ánh mắt của anh lên mức lịch sự hơn. “Sẵn sàng chưa?”

“Chưa,” Gabe trả lời, nhưng Ursa hô vang, “Rồi ạ!”

Jo xén phần râu đen của anh được nhuộm vàng bởi ánh hoàng hôn. Cô cẩn thận không cắt trúng da khi đi kéo đến gần mặt anh. Sau khi đã tỉa qua bộ râu, cô làm ướt mặt anh và bảo Ursa lắc lọ kem cạo râu. Con bé xịt một đống lên tay. “Con bôi lên râu chú ấy đi,” Jo bảo.

“Trò này vui quá,” Ursa đáp, bôi trát kem cạo râu lên mặt anh một cách đầy hào hứng.

“Các quý cô à, cho chú thở với,” Gabe ngán ngẩm.

Jo dùng khăn tắm lau kem cạo râu dính trên mũi và môi anh. Sau đó cô cầm dao lên. “Bắt đầu thôi…”

“Con làm được không ạ?” Ursa xin phép.

“Không được!” Anh la oai oái.

“Dao cạo chỉ có người lớn mới được phép dùng thôi,” Jo ôn tồn.

Ursa nhoài người tới gần để xem những nhát cạo đầu tiên. “Phần da bên dưới của chú ấy nhìn cũng bình thường,” con bé nhận xét.

“Chứ con nghĩ da chú màu xanh giống người ngoài hành tinh hả?” Anh hỏi.

“Con là người ngoài hành tinh, nên điều đó cũng chẳng khiến con bất ngờ lắm đâu.”

“Thế người hành tinh con có da màu xanh à?”

“Bề ngoài, chúng con trông giống ánh sao ạ.”

Jo hào hứng khám phá khuôn mặt Gabe. Anh có nhiều nét giống thầy George Kinney, nhưng khôi ngô hơn nhiều. Trán cao, mũi hơi khoằm, sắc nét, cằm vuông, tất cả những điểm này là của ông George. Nhưng anh thừa hưởng đôi mắt xanh biếc hơi xếch từ bà Katherine, cũng như đường viền môi trên rõ nét và nụ cười rất duyên. Jo đưa ngón tay lướt qua vết sẹo dài hơn một xen-ti-mét trên gò má trái của anh, chật vật lắm mới đè nén được mong muốn trao anh nụ hôn. “Sao anh lại có vết sẹo này thế?”

“Em sẽ không tin đâu,” anh đáp.

“Sao kia?”

“Anh nghịch kéo.”

“Đến nỗi như này cơ á?”

“Ừ, suýt chút nữa thì móc luôn con mắt năm anh lên sáu.”

Ursa đổ chậu nước lềnh phềnh kem cạo và râu ria đi, đoạn lấy thêm nước ấm. Sau khi Jo nhẹ nhàng cạo những vết cuối cùng, cô thấm ướt một đầu khăn tắm và bắt đầu lau sạch khuôn mặt anh. Anh lơ đễnh nhìn vào mắt cô trong lúc cô hành sự. “Sao?” Anh hỏi.

“Anh nên bị phạt vì đã che giấu khuôn mặt của mình ngần ấy năm.”

“Anh nên đóng phạt cho ai đây?”

“Cho em.” Cô ngồi vào lòng anh, quàng tay quanh cổ và hôn lên môi anh.

“Con làm được rồi! Con làm được rồi! Con làm được rồi!” Ursa reo lên, đưa tay lên trời và chạy nhảy quanh hai người họ.

“Con làm gì cơ?” Gabe hỏi.

“Con khiến chú và cô Jo yêu nhau. Hạt quark của con làm đấy. Con biết ngay mà! Con biết ngay mà!”

Jo và Gabe lại trao nhau nụ hôn trong lúc Ursa tiếp tục điệu nhảy quark của mình, còn Gấu Nhỏ sủa oang oang, chạy vòng quanh theo bước chân cô bé. “Nếu đây là cảm giác khi tâm hồn bị nghiền nát thì nó không quá tệ,” Gabe thì thầm vào tai cô.

“Đây chắc chắn là điều kỳ diệu thứ tư của con!” Ursa tuyên bố.

“Vậy có nghĩa con chỉ còn một điều nữa thôi sao?” Gabe nhắc.

“Dạ phải. Con sẽ để dành điều kỳ diệu cuối cùng của mình cho thứ gì đó tuyệt vời hết chỗ chê!”

Sau khi dọn dẹp chén bát, Gabe và Ursa nướng kẹo dẻo. Jo ngắm nhìn hai chú cháu, thích thú với diện mạo mới của anh và những câu bông đùa giữa hai người.

Gabe ngồi cạnh và nắm tay Jo. “Cô chú nhìn này!” Ursa khoe. “Con đang tạo ra những ngôi sao.” Cô bé hơ que xiên kẹo dẻo trên ngọn lửa, hai người họ ngắm nhìn những tia lửa chớp sáng chớp tắt vào bầu trời lấp lánh ánh sao. Jo ước giá như cuộc sống cứ tiếp diễn như thế này, cho cô cơ hội tận hưởng từng giây phút ngọt ngào. Nhưng mỗi giây cô ở cạnh Ursa đều phủ bóng tương lai bất định. Và giờ, Gabe lại trở thành một phần của định mệnh vồ vập ấy, nhất là khi mùa hè đang dần tàn.

Khi Ursa thay đồ ngủ và chuẩn bị ngả lưng, Gabe ra xe lấy cuốn Thỏ con chạy trốn [24] đã cũ. “Em nhớ mình đã từng đọc cuốn sách này,” Jo lên tiếng.

“Đứa bé nào cũng biết cuốn sách này. Người Hetrayeh có biết cuốn này không?” Anh hỏi Ursa.

“Dạ không ạ,” cô bé đáp.

“Chú đã nghĩ về cuốn sách này khi chú gọi con là ‘chú thỏ con chạy trốn’ sáng nay.”

“Nó là sách dành cho con nít mà,” Ursa nói.

“Nhưng câu chữ trong cuốn này rất tuyệt. Một giáo sư văn học như bố chú còn thích mê đấy!”

“Thật à?” Jo hỏi lại.

“Bố anh thích cách tác giả truyền tải mối bất hòa giữa việc thôi thúc muốn bảo vệ con cái của bố mẹ và mong muốn được tự đứng trên đôi chân chính mình của đứa trẻ. Ông hay đọc cho anh nghe vào ban đêm, ngay cả khi anh đã lớn.”

“Mẹ cũng từng đọc cho em nghe,” Jo hoài niệm.

“Vào giường thôi nào, cô bé ngoài hành tinh,” Gabe nói. “Cuốn sách này sẽ chỉ cho người Hetrayeh một điều quan trọng về người Địa Cầu đấy.”

Ursa nhanh chóng leo lên sô pha và kéo chăn lên đắp. Gabe kể cô bé nghe câu chuyện về một chú thỏ con nói với mẹ những nơi mình muốn trốn đi, còn mẹ chú đưa ra những cách hết sức thú vị để có thể tìm ra con mình. Từ thuở bé, Jo đã thích thái độ kiên nhẫn và tình thương vô điều kiện của thỏ mẹ.

Sau khi anh đọc xong câu chuyện, Ursa liền hỏi, “Giờ con hiểu tại sao chú gọi con là ‘chú thỏ con chạy trốn’ rồi.”

“Cái tên ấy phù hợp với con đấy chứ? Nhưng đêm nay hãy ngủ ngoan nhé. Cô Jo và chú mệt bã người rồi, không còn sức đuổi theo con nữa đâu.”

“Chú có ở lại đây không ạ?”

“Chắc là chú sẽ ở lại một lát.”

“Con sẽ ngủ ngoan để cô chú có thể hôn nhau.”

“Kế hoạch này nghe có vẻ hay đấy,” anh bình luận.