Chương 28
Gabe sốt ruột muốn về nhà. Còn Ursa thì muốn ăn pizza ở nhà hàng bật bài hát “Kẻ Ăn Thịt Người Màu Tím”, nhưng Gabe chẳng còn tâm trạng nào mà ngồi xuống ăn uống. Thậm chí anh còn không buồn rời xe khi họ về đến nhà. Jo giải thích với Ursa và Tabby rằng Gabe cảm thấy không khỏe, cô bắt con bé ngồi lên băng ghế sau mặc nó phản đối và bù lu bù loa. “Mình sẽ dừng trên đường để ăn,” Jo nói. “Ở McDonald’s chẳng hạn, con có thể ăn kem ở đó nữa.”
“Con muốn ăn pizza với cô Tabby co!” Ursa mè nheo.
“Cô xin lỗi.”
“Mình vào trong nói chuyện chút được không?” Tabby đề nghị khi Jo sắp sửa trèo lên xe.
Jo theo bạn vào nhà, mệt mỏi không biết Tabby sẽ nói gì. Dù bàn về Gabe hay Ursa thì cô biết Tabby chắc hẳn sẽ làm căng, mà Jo thì chỉ còn sót lại chút năng lượng ít ỏi.
“Tôi rất bất ngờ khi hôm nay bà dẫn Ursa theo,” Tabby mào đầu câu chuyện rồi đóng cánh cửa chính lại.
“Vậy à?”
“Bà đừng giả vờ chuyện này bình thường nữa. Đang có chuyện gì xảy ra vậy? Con bé bảo nó sẽ sống với bà.”
“Tôi cho là thế.”
Đôi mắt xanh của Tabby trợn ngược. “Bà phải đưa con bé đến cảnh sát chứ!”
“Bà biết nó sẽ trốn mà.”
“Thì bà cho nó lên xe và đừng bảo bà đang đưa nó đi đâu là được.”
“Con bé tinh ranh lắm. Bọn tôi từng thử rồi, và nó đã lao ra khỏi xe ngay lập tức.”
“Thật sao?”
“Suýt chút nữa bọn tôi không tìm ra con bé.”
“Mà bọn tôi ở đây là sao? Con bé kể với tôi Gabe ngủ lại nhà bà.”
“Thì sao?”
“Bà không thể chơi trò gia đình với con cái nhà người ta được! Coi chừng tai bay vạ gió đấy. Rồi bà tính làm gì khi kỳ thực địa qua đi?”
“Tôi chưa nói với Ursa, bà bình tĩnh lại đi…”
“Cái gì?”
“Tôi có thể tìm cách nhận nuôi con bé.”
Tabby đập tay đánh bốp lên trán. “Ôi trời đất quỷ thần ơi! Bà đang nghiêm túc đấy chứ?”
“Tôi nghiêm túc.”
“Cô Frances Ivey không cho con nít ở đây đâu.”
“Bà nghĩ điều đó sẽ ngăn cản được tôi chắc? Tôi thương đứa trẻ này lắm.”
Cả hai im bặt, Jo lẫn Tabby đều bất ngờ đến choáng váng.
“Jo…”
“Gì?”
“Tôi nghĩ bà nên gọi vị bác sĩ bà gặp ở Chicago.”
“Tôi có nhiều bác sĩ lắm.”
“Bà hiểu ý tôi mà,” Tabby nói.
“Bác sĩ tâm lý bà hay gọi là Bác sĩ Tử thần ấy à?”
“Phải, bà ấy đấy.”
“Bà biết bà bác sĩ ấy nói gì với tôi không? Bà ấy bảo những người thập tử nhất sinh có thể sống và yêu thương đong đầy hơn người chưa từng đối diện với cái chết.”
“Trời ơi là trời… Rốt cuộc bà đang làm gì thế?”
“Tôi đoán mình là một kẻ từng kinh qua thập tử nhất sinh.” Cô mở cửa rồi bước xuống lối đi.
“Tôi yêu bà, Jojo!” Tabby nói với từ hàng hiên.
“Tôi cũng yêu bà, Tabs.”
Ôm trong lòng những vết thương lớn nhỏ, ba người bọn họ im lặng suốt chặng đường đến Xa lộ Liên tiểu bang 57. Đến tận thị trấn Mattoon mà vẫn không một lời nào được thốt ra.
“Sinh thời, bố anh thích một nhà hàng thịt nướng ở đây,” Gabe lên tiếng.
Jo đạp phanh. “Em dừng lại nhé? Mình cần đổ xăng, mà Ursa cũng đói rồi.”
“Con muốn ăn pizza!” Ursa đòi.
Gabe quay lại nhìn cô bé. “Có một nhà hàng pizza rất ngon ở trên đường này. Nhà hàng kiểu xưa với máy hát bỏ tiền xu.”
“Con muốn cô Tabby!”
“Chú nghĩ họ không phục vụ món đấy đâu,” anh đáp.
“Chú im đi!”
“Này, nói như vậy là hư đấy nhé,” Jo ngay lập tức cảnh cáo con bé.
Gabe quay lại, nhìn về phía cửa kính chắn gió. Chiếc xe lại rơi vào im lặng. Jo lái xe ngang qua Mattoon.
“Con xin lỗi chú Gabe,” vài phút sau, Ursa lên tiếng.
“Lời xin lỗi được chấp nhận. Chú cũng xin lỗi vì đã phá vỡ kế hoạch của con.” Anh quay xuống để nhìn cô bé. “Con có muốn ăn thử pizza ở nhà hàng mình sắp đi qua không? Lúc bằng tuổi con, chú hay đến đó lắm. Chú cũng hay nghịch máy hát ở đó nữa.”
“Con cá họ không có bài ‘Kẻ Ăn Thịt Người Màu Tím’.”
“Vậy mình sẽ tìm bài gì đó hay ho.”
“Anh phải đảm bảo nơi đó còn hoạt động nhé,” Jo nói.
“Ừ. Dân địa phương hay đến đó lắm, lúc nào cũng đông nghịt.”
Anh dùng điện thoại để tìm nhà hàng. Jo liếc vào gương chiếu băng ghế sau để kiểm tra Ursa. Con bé lại đang vẽ. Bút chì màu và tập vẽ tranh là món quà chuẩn không cần chỉnh. “Con vẽ gì thế?” Jo hỏi.
“Kẻ ăn thịt người màu tím ạ.”
Vẽ vời là một hình thức tự xoa dịu bản thân của Ursa. Khi muốn có thứ gì đó hay nhớ ai, nó thường đặt bút vẽ linh tinh để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Họ đến Effingham lúc chiều tà. Đã trễ nên Jo chỉ muốn ăn qua loa thức ăn nhanh thay vì dừng chân để ăn một bữa tối đàng hoàng. Nhưng nếu Gabe sẵn sàng đối diện với những ám ảnh đeo bám anh từ thuở nhỏ thì cô cũng thế. Có lẽ, kết nối với bố mình là điều mà anh cần làm.
Trong lúc Gabe chỉ đường đến nhà hàng, Ursa ngồi đằng sau hì hụi tô tô vẽ vẽ, toàn tâm toàn ý vào bức tranh mặc dù ánh sáng không đủ. “Con mang đồ nghề vẽ tranh của mình vào bên trong đi,” Gabe nói lúc Jo đỗ xe. “Nướng pizza sẽ mất chút thời gian, nên con có thể tranh thủ vẽ.”
Jo nhìn hàng dài xe mô tô đậu dưới mái hiên của nhà hàng được chăng đèn rực rỡ. “Anh có chắc là nơi này không?”
“Đúng rồi,” Gabe đáp. Anh mở cửa xe chỗ Ursa. “Thật may mắn là nhà hàng này vẫn như xưa. Bãi đậu xe vẫn trải sỏi. Và em xem, đông xe ô tô chưa kìa.”
“Cả xe Harley cũng nhiều nữa,” Jo nói.
“Đúng vậy. Tuyệt nhỉ? Khung cảnh như từ những năm sáu mươi vậy.”
“Em không biết nơi này độc lạ đến thế đấy.”
“Bố anh thì biết. Tiếc là ông không còn nữa. Bố anh thích khung cảnh buổi đêm của nhà hàng này lắm.”
“Nhìn nó có vẻ hơi bặm trợn.”
“Đó là vấn đề của con người thời nay đấy. Họ nhác thấy chút ánh sáng xám xịt trong thế giới thức ăn nhanh của mình và ngay lập tức co vòi rụt cổ. Những nơi như thế này quá sống động so với họ. Nhưng đây là nơi những câu chuyện thực sự thú vị về con người xảy ra.”
“Hình như em sắp được nghe bài giảng văn của thầy Nash thì phải.”
“Ừ, và anh hoàn toàn đồng ý với bố anh. Hãy thử tưởng tượng nơi này được mô tả trong một cuốn sách em đang đọc rồi thay thế nó bằng McDonald’s mà xem.”
“Em nghĩ hai nhà hàng sẽ được dùng với mục đích khác nhau trong cuốn sách.”
“Chính xác. Không so sánh. Một bên sẽ là ẩn dụ cho chuỗi đáng chán trong đời, một bên tượng trưng cho chút ngẫu hứng vẫn lẩn khuất đâu đó.”
“Miễn là ngẫu hứng không bao gồm viễn cảnh các anh lái mô tô xách dao ra đánh nhau thì em ủng hộ.”
“Các tay lái mô tô đánh nhau à, thế thì tuyệt đấy chứ!”
“Anh biết gì không, cái tính giống thầy Arthur của anh hơi đáng sợ đấy,” cô nói.
“Ursa, con có định ra khỏi xe trong thế kỷ này không vậy?” Anh hỏi.
“Con không muốn ăn ở đây,” cô bé đáp.
“Cả con nữa hả?”
“Con không đói,” nó vùng vằng. “Con muốn về nhà.”
“Nơi này an toàn trăm phần trăm mà.”
“Không phải vậy. Chỉ là con không đói thôi.”
“Tối nay con bé sao thế?” Anh hỏi Jo.
“Nó đang thiếu hơi Tabby, chắc sẽ khoai đây. Anh vào trong lấy bàn đi, để em ngọt nhạt với con bé.”
“Anh có nên đưa cho em cái cần tháo lốp để tự vệ không?”
Cô đập vai anh. “Anh đi đi! Lo liệu để mình có bàn trước khi em bở hơi tai ở ngoài này.”
Jo chúi tới cánh cửa để ngỏ và thủ thỉ, “Chú Gabe rất muốn ăn ở đây. Xin con đấy, hợp tác vì chú ấy nhé? Dù con không đói đi chăng nữa?”
“Nơi này nhìn thật ngu ngốc,” con bé cằn nhằn.
“Con mang bút chì và giấy theo, đừng nhìn ngó là được mà.”
Con bé không nhúc nhích.
“Con nghe chú Gabe nói rồi đấy, bố chú ấy rất thích nơi này. Ông ấy đã qua đời cách đây hai năm, và đây là cách chú ấy dùng để kết nối với bố của mình. Con có hiểu như vậy có nghĩa là gì không?”
“Dạ hiểu,” con bé nhún nhường.
“Vậy thì tốt. Mình làm vì chú Gabe nhé. Chú ấy đang ngồi đợi trong kia rồi.”
Ursa lưỡng lự ra khỏi xe. Jo rướn vào trong lấy hộp chì màu và tập giấy cho con bé. Cô nhìn bức vẽ kẻ ăn thịt người màu tím đầu tập giấy. “Đẹp quá!” Cô nhận xét. “Cô thích cách con vẽ cái miệng.”
“Phải to như vậy mới được vì hắn nuốt chửng cả con người cơ mà.”
“Hàm răng trông kinh quá!”
“Nhưng giờ hắn không ăn thịt người nữa. Hắn đến khu rừng ma thuật, nơi Juliet và Hamlet sống, thế là họ dạy hắn cách làm người tốt.”
“Hắn ta còn xuất hiện trong vở kịch về Juliet và Hamlet của con à?”
“Con chưa biết. Con dàn dựng cho hắn ta ở trong khu rừng ma thuật lúc vẽ bức tranh này.”
Hai cô cháu bước lên hàng hiên lót ván đã cũ được thắp sáng rực rỡ bởi dàn đèn. Jo kéo mở cánh cửa gỗ nặng nề, và ngay khi bước vào trong, cô đã hiểu lý do tại sao ông Arthur lại thích nơi này đến vậy. Hầu như toàn bộ nội thất đều được làm bằng gỗ: sàn lót ván, tường ốp gỗ, đến bàn ghế cũng bằng gỗ nốt, mặt gỗ sáng bóng như thấm đẫm thời gian và giai thoại của bao người, như lời Gabe nói. Nơi đây ám mùi gỗ thông, mùi pizza nướng, mùi mồ hôi, mùi rượu whiskey, mùi thuốc lá, tất cả trộn lẫn lại với nhau tạo thành mùi hương tựa rượu ủ lâu năm trong thùng gỗ sồi cũ. Bài hát nổi tiếng những năm 60 “Đôi Bốt Làm Ra Để Đi” [27] của Nancy Sinatra đang được phát từ chiếc máy hát nhấp nháy. Giai điệu như đo ni đóng giày cho nơi này, nhưng lời ca gần như bị át bởi tiếng cười nói. Không gian tối tăm chỉ được thắp sáng bởi dăm ba ngọn đèn màu, ngoại trừ khu vực ba bàn bi da ở sau căn phòng được chiếu đèn chuyên dụng sáng trưng. Quanh bàn, một nhóm đàn ông, phụ nữ xăm trổ đầy mình đang uống bia và tán gẫu trong lúc xem đánh bi da.
Rất nhiều cặp mắt dõi theo Jo và Ursa khi họ tiến đến chỗ Gabe, đang ngồi ở chiếc bàn ngay giữa phòng. Thực khách, theo Jo đoán, đa phần là khách địa phương, có lẽ biết cô và Gabe là dân du lịch. Quần và áo thun của họ không có gì khác biệt, nhưng dòng chữ Cộng Đồng Điểu Học Hoa Kỳ trên áo Jo khiến cô trông như một kẻ lạc loài.
Jo ngồi đối diện Gabe, còn Ursa yên vị trên ghế được đặt giữa hai người ở chiếc bàn vuông con con. “Nhìn cũng hay đúng không?” Gabe hỏi.
“Em xin thú nhận là em cảm thấy như trở về quá khứ vậy. Nhưng em nghĩ họ đều biết chúng ta là những kẻ du hành vượt thời gian.”
“Họ không quan tâm đâu. Mình đang ủng hộ kinh tế địa phương mà.” Anh cầm tay Ursa và ngắm nghía móng tay con bé sơn màu tím oải hương. “Màu này đẹp quá. Cô Tabby có sơn cả móng chân cho con không?”
Ursa gật đầu. “Sơn màu tím than ạ.” Thủ bút chì trên tay, con bé khòm người hí hoáy vẽ kẻ ăn thịt người màu tím, gương mặt gí sát tờ giấy để có thể nhìn rõ bức tranh dưới ánh đèn tù mù.
Gabe mở thực đơn. “Con muốn ăn pizza gì, Ursa?”
Con bé không buồn ngẩng đầu. “Chú muốn gọi gì cũng được ạ.”
Jo không ăn nhiều thịt đỏ, thịt ướp muối lại càng không, do vậy họ gọi một bánh pizza cỡ lớn, nửa rau củ nửa xúc xích và một Pepperoni.
“Cô bé uống gì nhỉ?” Nữ phục vụ trạc tứ tuần với lớp trang điểm đậm và bím tóc đỏ tết đuôi sam hỏi.
Ursa vẫn tiếp tục vẽ.
“Cocktail cho con nít thì sao?” Gabe đề nghị. “Ngày trước chú từng uống ở đây.”
“Dạ được,” Ursa đáp mà chẳng buồn ngẩng lên.
Jo nhìn vào bức tranh mà con bé cặm cụi từ nãy đến giờ. Nó đang vẽ cây cối xung quanh kẻ ăn thịt người màu tím. “Đó là khu rừng ma thuật à?” Jo hỏi.
“Dạ.”
“Trông giống rừng rậm nhỉ?”
“Ma thuật để bảo vệ hắn.”
“Hắn ta không thể tự dùng răng để bảo vệ bản thân mình à?”
“Khi xung quanh có những điều xấu xa thì không ạ.”
Gabe rướn mày nhìn Jo, cảm nhận được con bé đang khó ở. “Con muốn chơi với máy hát không?” Anh hỏi. “Không có ai đang dùng cả.”
“Nếu chú muốn thì chú cứ dùng đi,” Ura đáp.
“Để chú xem họ có bài hát của con không.” Anh rời khỏi bàn, đoạn đến chỗ máy hát.
“Có chuyện gì sao, Ursa?” Jo ân cần hỏi han con bé.
“Con không muốn đến đây,” con bé đáp.
“Cô xin lỗi. Cảm ơn con vì đã làm thế vì chú Gabe.”
Bài hát đầu tiên Gabe chọn, “Như Mùi Tinh Túy Thanh Xuân” [28] , vang lên trước khi anh quay trở lại bàn.
“Anh là fan của Nirvana à?” Cô hỏi khi anh ngồi xuống ghế.
“Không quá cuồng nhưng anh thích bài này.”
Nước cho Jo, bia cho Gabe và cocktail trẻ em cho Ursa được đem ra. Gabe nâng ly, “Chúng ta cùng nâng ly nào!”
Jo cầm nước lên. “Vì điều gì?”
“Vì đám cưới của mẹ Katherine và thầy George. Mong nó được dài lâu.”
“Thật sao?”
“Tuyệt vời đấy chứ. Ít ra trong nhà anh có người không còn dang dở.”
Anh nâng ly.
“Ursa, chúng ta đang nâng ly đấy.” Jo nhắc nhở con bé.
“Con không hiểu. Bà Katherine là mẹ chú mà,” Ursa nói, hóa ra con bé vẫn nghe từ nãy đến giờ.
“Đúng vậy,” anh đáp.
“Bà ấy sắp cưới ạ?” Cô bé hỏi.
“Có thể là như thế,” Jo nói.
“Thầy George là ai vậy ạ?”
“Là thầy George Kinney đấy,” Jo đáp.
“Chủ căn nhà của mình phải không ạ?”
“Không phải nhà của mình,” Jo sửa. “Nhưng con nói đúng. Giờ nâng ly nào!”
Ursa cụng ly với hai người bọn họ rồi thưởng thức cocktail. Sau ngụm cocktail ngọt lành đầu tiên, con bé uống hết phần còn lại trong chớp mắt. “Thầy George kết hôn rồi ạ?”
“Ừ,” Gabe trả lời, “nhưng sắp tới thì không còn như vậy nữa.”
“Họ sắp ly hôn ạ?”
“Nôm na là thế.”
“Mẹ chú già rồi, sao kết hôn được chứ?” Ursa hỏi.
“Ở tuổi nào, con người cũng có thể yêu mà,” Jo đáp.
Câu trả lời không lọt vào tai con bé nữa. Nó ngây ra như phỗng, trố mắt nhìn bên kia căn phòng. Jo nhìn theo ánh mắt của nó. Hóa ra, Ursa đang nhìn về hướng quầy rượu. Một thanh niên vẻ ngoài lôi thôi đang áp tai vào điện thoại và liếc về phía họ. Khi bắt gặp ánh nhìn của hai cô cháu, anh ta xoay ghế, quay mặt vào quầy. Ursa tiếp tục dán mắt vào thứ gì đó, nhưng Jo không tài nào xác định được.
“Hai cô cháu nhìn gì mà như bị thôi miên thế? Có anh chàng nào đẹp trai đằng đấy à?” Gabe hỏi.
Ursa lấy bút chì xanh vẽ thêm một chiếc lá vào khu rừng ma thuật.
“Anh là anh chàng tuấn tú nhất nơi này rồi,” Jo đáp.
“Chỉ đơn giản vì đối thủ của anh là các ông lái xe mô tô già khú thôi.”
Anh đã nhầm. Thực khách nơi đây tương đối trẻ, nhất là những người ngồi ở quầy rượu. Anh thanh niên Ursa chăm chú nhìn rời khỏi ghế, bước qua bàn bọn họ, vừa đi vừa gườm gườm. Ursa nhìn theo bóng dáng anh ta rời khỏi nhà hàng.
“Con biết người kia à?” Jo hỏi.
“Người nào ạ?” Con bé thắc mắc.
“Người con vừa nhìn đấy.”
“Con đang nhìn thứ ngoài cửa.”
“Móng ngựa ấy à?”
“Tại sao nó lại ở đó ạ?”
“Để ban hạnh vận cho những ai bước qua ngưỡng cửa. Nó là một dạng mê tín ấy mà.”
Ursa dán mắt vào móng ngựa thêm vài giây trước khi quay trở lại bức vẽ của mình.
Giờ đây, khi đã mở lòng đón nhận tương lai của bà Katherine và ông George, tâm trạng của Gabe tươi tỉnh hơn hẳn. Phần nào cũng nhờ nhà hàng này. Anh và Jo tán gẫu về âm nhạc cùng dăm ba câu chuyện trước khi pizza được đem ra, còn Ursa cứ cặm cụi vẽ mãi, khu vườn bảo vệ người ngoài hành tinh màu tím của con bé càng lúc càng chi tiết hơn.
Gabe hết lời tán tụng món pizza. Jo cũng thấy ngon miệng, nhưng cô có cảm giác việc ông Arthur thích nhà hàng này khiến Gabe cảm thấy pizza ở đây ngon hơn. Anh giành thanh toán hóa đơn và để một khoản tip hào phóng cho cô phục vụ.
Trên đường về thị trấn, Jo dừng lại đổ xăng và đưa Ursa đi vệ sinh vì con bé không chịu dùng nhà vệ sinh ở nhà hàng. Con bé vẫn tỏ ra dè dặt đến lạ. Jo đoán nguyên nhân cô bé tâm trạng như vậy là vì mệt và hy vọng nó sẽ ngủ trên đoạn đường về nhà.
Vừa đi, Jo và Gabe vừa tán phét một số chuyện, nhưng họ không nhắc đến chuyện của thầy George vì Ursa vẫn chưa ngủ. Con bé cứ nhấp nhổm không yên, hết ngồi bên này lại dịch sang bên kia, và hơn một lần, Jo phải dặn con bé cài dây an toàn.
Khi rẽ vào đường cao tốc của quận, Jo để ý ánh đèn trong gương chiếu hậu. Chiếc xe phía sau cũng rẽ theo họ và chạy suốt mười cây số vào Đường Turkey Creek. “Đừng nói họ cũng rẽ ở đây luôn nhé,” cô lầm bầm.
“Ai kia?” Gabe hỏi.
Ursa nhìn vào gương chiếu hậu.
“Chiếc xe đằng sau chúng ta,” Jo đáp. “Em thề nó chạy theo mình từ nãy đến giờ.”
Khi Jo rẽ vào Đường Turkey Road, chiếc xe đột ngột tăng tốc và biến mất.
“Chắc họ bị lạc ấy mà,” Gabe trấn an cô. “Họ thấy tấm bảng Đường Cụt và nhận ra đây không phải con đường họ tìm.”
Jo lái xe đến con đường mới được trải sỏi dẫn đến nhà anh nhưng cô dừng xe ở bên ngoài để đảm bảo Lacey không trông thấy Ursa. Cô bước ra khỏi xe để chào tạm biệt anh. “Chuyến đi vui đấy chứ? Dù gặp phải thầy George?”
“Thú vị lắm, chắc chắn là thế. Kiểu này anh khỏi ngủ rồi.”
Cô mỉm cười. “Gợi ý gì đấy? Em có nên để ngỏ cửa không nhỉ?”
Anh hôn cô. “Để chìa khóa chỗ thông thường nhé. Đêm xuống em nên khóa cửa cẩn thận.”