Chương 32
Jo đã lật giở mọi cuốn tạp chí trong phòng chờ của khu chăm sóc đặc biệt, ngay cả cuốn Súng và Sân vườn, nhìn cuốn này, cô tự nhủ nếu còn sống, người mẹ theo chủ nghĩa hòa bình và thích chăm nom vườn tược của cô hẳn sẽ thấy hứng thú. Chỗ ngồi ưa thích của cô là cạnh chiếc bàn cô có thể kê bên chân đang băng bó của mình lên. Cô luyện tập hàng giờ, dùng nạng đi đi lại lại quanh phòng. Cô dùng gian dành cho người khuyết tật trong nhà vệ sinh của phòng chờ để tắm rửa và đánh răng, rồi sau đó ngủ trên ghế sô pha. Cô dùng bữa khi Gabe mang thức ăn tới. Anh vẫn ở khách sạn gần đó, cứ tối đến, anh giặt và phơi khô quần áo của cô trong phòng mình.
Tabby muốn ngồi đợi cùng Jo nhưng cô không thể nghỉ thêm một ngày nào nữa ở chỗ làm. Còn Gabe muốn Jo từ bỏ, anh cho rằng cảnh sát sẽ không đời nào cho cô gặp Ursa, nhưng Jo không chấp nhận điều đó. Cô muốn gặp Ursa lần nữa. Và cô biết chắc như đinh đóng cột rằng cô bé cũng muốn gặp mình.
Việc cô ngồi lỳ ở đây lan khắp bệnh viện. Sang ngày thứ ba, bác sĩ phẫu thuật của Jo đến nói chuyện với cô. Ông nói cô có nguy cơ bị nhiễm trùng vì áp lực và khả năng bị huyết khối do ngồi quá nhiều. Nhân viên an ninh của bệnh viện cũng đến gặp cô vào hôm đó. Họ bắt cô đi chỗ khác, nhưng Jo nói rằng cô chỉ chịu đi chừng nào được nhìn thấy Ursa. Họ nói cảnh sát sẽ dùng vũ lực để đưa cô đi, song điều đó chưa biến thành sự thật.
Jo quan sát từng người ra vào hành lang khu chăm sóc đặc biệt của Ursa. Cô chú ý cảnh sát và những người nhìn ra dáng quan chức bước qua cửa. Một phụ nữ tóc xù điểm bạc rất hay xuất hiện, và Jo nghi ngờ đó là cố vấn do tòa chỉ định cho Ursa. Người phụ nữ này hay đưa mắt nhìn Jo khi cô ngồi đợi cửa phòng chăm sóc đặc biệt mở. Ban đầu, bà nhìn cô với vẻ dửng dưng. Nhưng sang ngày thứ ba, trong ánh nhìn của bà không che giấu được phần nào ngưỡng mộ.
Vào ngày thứ tư cố thủ, Gabe mang đồ ăn trưa cho cô. Mắt anh thâm quầng, xương gò má lộ rõ. Anh vẫn giữ liên lạc với chị Lacey và mẹ mình nhưng không nói với họ chuyện Jo được cho ra viện sau ba ngày.
Gabe cởi ba lô, ngồi xuống bên cạnh cô. “Gà tây, phô mai provolone, bơ và xà lách ăn kèm bánh mì,” anh nói và đưa cô túi giấy màu trắng.
“Anh không ăn à?”
“Anh không đói.”
“Em ước giá mà anh về nhà đi.”
“Còn anh ước phải chi em dừng hành động điên rồ này lại,” anh nói.
“Em không làm được.”
“Có khi con bé không còn ở đây nữa đâu. Anh nghĩ người ta chuyển nó đi rồi.”
“Em dám chắc con bé vẫn nằm trong kia. Người phụ nữ với mái tóc xù mới vào đó chừng một tiếng trước.”
“Thậm chí em còn không biết liệu bà ấy có dính dáng gì đến Ursa hay không mà!”
“Theo em thì có. Bà ấy lúc nào cũng nhìn chằm chằm vào em.”
“Không nhìn mới lạ - vì điều em làm rõ là điên khùng. Em cần phải ra khỏi đây và tìm luật sư.”
“Em không cần luật sư.”
Thay vì lời ra tiếng vào với cô, anh lắc đầu và quay đi.
“Anh có mang quần áo sạch cho em không?”
“Có, nhưng vẫn còn ẩm.”
Khi cô ăn xong bánh mì, anh nhắm mắt và tựa vào ghế. Jo hôn lên má anh. “Em không muốn quay lại với đám chim của em à?” Anh hỏi, mắt vẫn nhắm nghiền.
“Em mang nạng thì sao quay lại được, Tanner và Carly đang giúp em hoàn thành công việc của mình rồi.”
Anh mở mắt nhìn cô. “Anh tưởng em muốn đảm bảo họ làm cho ra hồn chứ?”
“Tanner buộc phải làm cho ra hồn.”
“Tại sao?”
“Vì anh ta đang lợi dụng tổ chim của em để lấy lòng thầy Shaw. Thầy ấy đã rất giận khi anh ta đá em như thể em là Typhoid Mary [29] sau khi bác sĩ chẩn đoán em ung thư.”
“Anh vẫn không tài nào tin nổi hắn ta làm vậy.”
“Em thì tin. Tanner là…”
Cánh cửa khu chăm sóc đặc biệt mở ra. Jo nhìn vào đôi mắt sắc như dao của người phụ nữ tóc xù. Chiếc váy xám nhạt cùng áo màu đào làm nổi bật làn da bánh mật của bà ấy. Tướng người bà giống Lacey, chắc nịch và mạnh mẽ, nhưng chiều cao có phần khiêm tốn hơn.
Người phụ nữ tóc xù bước thẳng đến chỗ Jo và Gabe. “Cô là Joanna Teale đúng không?” Bà hỏi.
“Vâng,” Jo đáp.
“Còn anh hẳn là Gabriel Nash,” người phụ nữ nói và dừng chân trước mặt họ.
“Vâng,” anh trả lời, giọng pha chút căng thẳng.
Bà khoanh tay và nhìn xuống Jo. “Thế… cô ở ngoài này bao lâu rồi?”
“Hôm nay là ngày thứ tư,” Jo thành thật.
“Vậy là ngay sau cuộc phẫu thuật. Cô ngoan cố y như cô bé đó.”
“Ý bà là Ursa?” Jo hỏi.
“Chứ còn ai trồng khoai đất này? Trước nay tôi chưa từng gặp đứa trẻ nào bướng bỉnh như con bé.”
“Tôi hiểu cảm giác của bà,” Jo nói. “Con bé cứng đầu cứng cổ lắm, nó húc tôi cho đến khi tôi chào thua mới chịu.”
“Cô biết không, lần đầu nghe chuyện, tôi không tưởng tượng nổi tại sao cô lại hành động như vậy. Làm sao cô không đem con bé đến cảnh sát cả tháng trời? Sao cô không biết việc mình làm là sai chứ?”
“Tôi biết việc mình làm là sai.”
“Nhưng cô bé ngoài hành tinh đó đã choáng ngợp đầu óc cô với năng lực siêu nhiên của con bé rồi phải không?”
“Con bé vẫn bảo mình là người ngoài hành tinh à?”
“Phải, tôi biết hết về hành tinh của nó rồi đấy. Hành tinh đó tên là Hetrayeh, và da của những người sống ở hành tinh đó giống như ánh sao.”
“Cô bé có kể với bà về năm điều kỳ diệu không?”
“Chắc chắn là có rồi. Cô có biết tại sao con bé không trở lại hành tinh của mình sau điều kỳ diệu thứ năm không?”
“Con bé đã giải thích thế nào vậy?”
“Con bé bảo nó quyết định ở lại vì thấy cô thương yêu nó. Điều kỳ diệu thứ năm đã giữ con bé ở lại thay vì ra đi.”
Jo không kìm được, ngoảnh mặt đi nơi khác.
Người phụ nữ tóc xù đợi cô bình tĩnh trở lại. “Cô có muốn biết một bí mật nho nhỏ không? Cô thử đọc ngược từ Hetrayeh lại xem.”
Jo và Gabe nhìn nhau, cố tìm cách làm thử.
“Không dễ, đúng không?” Bà hỏi. “Những người có bộ não bình thường làm điều này chậm lắm.”
“Eyarteh?” Gabe lên tiếng.
“Âm th không thể đảo ngược trừ khi có phụ âm ở giữa. Hai người thử làm ở cuối xem.”
“Earth! Là Trái Đất!” Jo bất ngờ.
Người phụ nữ gật đầu.
Jo thử đọc ngược lại tên của Ursa. “Ursa Ann Dupree là Earpood Na Asru. Con bé bảo đó là tên của mình trên hành tinh kia.”
“Vậy là cô hiểu rồi đấy,” bà chốt lại. “Còn con bé, nó thực hiện việc này nhanh lắm. Tôi đưa cho nó một cuốn sách và tốc độ đọc ngược của con bé ngang ngửa tốc độ đọc xuôi.” Người phụ nữ mỉm cười khi thấy Jo và Gabe bối rối. “Không, con bé không phải người ngoài hành tinh. Nhưng theo một cách nào đó thì đúng, nhất là trong mắt chúng ta. Con bé là một thiên tài. Năm học lớp một, IQ [30] đo được của con bé là 160.”
“Hèn gì!” Jo cảm thán.
“Giờ mới vỡ lẽ đúng không?” Bà chìa tay về phía Jo. “Tôi là Lenora Rhodes từ Dịch vụ Trẻ em và Gia đình.” Jo và Gabe lần lượt bắt tay bà. “Tôi được giao cho một nhiệm vụ bất khả thi là tìm cách để Ursa kể chuyện xảy ra vào đêm con bé chạy trốn.”
“Cô bé không chịu kể với bà sao?” Jo hỏi.
Lenora kéo ghế ngồi xuống trước mặt họ. “Con bé nói nó chỉ kể với cô thôi, Jo ạ. Suốt năm ngày nay, chúng tôi tìm mọi cách nhưng con bé nhất quyết đòi cô.”
“Thông minh thật,” Gabe nhận xét.
“Tôi suýt tí nữa đã bứt trụi tóc của mình. Con bé thông minh quá,” bà Lenora nói. “Tôi sẽ nói với hai người những gì tôi biết, đổi lại hai người phải giúp tôi.”
“Con bé có gia đình không?” Jo hỏi.
“Họ hàng duy nhất còn sống của con bé là người bà nghiện ma túy sống trong xe moóc và người ông mắc Alzheimer sống trong viện dưỡng lão. Nó còn một người chú bặt vô âm tín vì bị cảnh sát truy nã nữa.”
“Nếu con bé không nơi nương tựa, tôi muốn đăng ký trở thành mẹ nuôi của nó.”
“Hượm đã nào. Chuyện gì cũng phải có đầu có đuôi. Cô có đồng ý nói chuyện với con bé không?”
“Tất nhiên rồi. Bà có biết chuyện gì xảy ra với bố mẹ con bé không?”
Lenora nhìn quanh để đảm bảo không ai nghe thấy. Bà ngồi trên ghế, chúi người về phía trước. “Chúng tôi biết tất cả mọi chuyện về bố mẹ con bé. Họ lớn lên ở Paducah, Kentucky. Có lẽ Ursa thừa hưởng sự thông minh ấy từ bố mình, Dylan Dupree. Lúc trẻ, cuộc đời anh này minh khai đạo lộ, dạng người làm gì cũng thành công, cho đến khi phải lòng Portia Wilkins vào năm hai đại học. Số phận run rủi thế nào mà một trong những sinh viên thông minh nhất trường lại qua lại với một trong những học sinh quái chiêu nhất trường. Portia là một cô gái xinh đẹp, có lẽ nguyên nhân là vì thế.”
“Hoặc có thể cô ấy cũng thông minh như anh ta, thế nên anh ta mới bị thu hút,” Jo nói. “Rất nhiều thanh thiếu niên thông minh vướng vào rắc rối mà.”
“Đúng thật,” Lenora gật gù. “Bất kể lý do là gì, từ lúc giao du với Portia, cuộc đời Dylan tuột dốc không phanh. Anh ta vướng vào nghiện ngập và rượu chè, điểm số thì luôn đội sổ, và suốt ngày sinh chuyện. Mùa hè năm ba lên năm tư, Portia dính bầu. Khi cả hai gia đình đều không ủng hộ quyết định giữ lại đứa bé của đôi trẻ, Dylan và Portia liền bỏ trốn. Họ quá giang ra khỏi Kentucky và chu du đến Effingham, Illinois.”
“Hai người họ có kết hôn không?” Jo hỏi.
“Có, nhưng sau khi Ursa được sinh ra. Portia phục vụ bàn, còn Dylan làm nhân viên thời vụ. Năm Ursa lên hai, thu nhập hai vợ chồng đủ để cả gia đình chuyển vào một căn hộ tươm tất hơn. Tuy không có lý lịch tư pháp nhưng chúng tôi cho rằng Dylan và Portia thường xuyên sử dụng chất kích thích và rượu bia.”
“Tại sao bà lại nghĩ như vậy?” Jo hỏi.
“Vì khi Dylan chết đuối, họ đã phát hiện rất nhiều thuốc kích thích nặng đô trong thi thể anh ta. Năm đó, Ursa lên năm.”
“Tội nghiệp con bé,” Gabe chép miệng.
“Những người bạn ở hồ khai rằng cậu ta đang phê thuốc lúc bước xuống bơi. Ursa ở trên bờ với mẹ, lúc đó cô ta say đến nỗi không biết trời đất trăng sao gì.”
Lenora ngưng nói khi có một cặp đôi bước ra từ thang máy. Bà đợi đến khi họ bước qua cửa phòng khu chăm sóc đặc biệt mới tiếp tục. “Dylan là trụ cột trong nhà, nên sau khi anh ta qua đời, mọi thứ vỡ trận. Ba năm tiếp theo, Portia vướng vào rắc rối liên tục. Cô ta làm phục vụ nhưng năm lần bảy lượt bị đuổi việc, rồi bị bắt giam vì tội sử dụng thuốc kích thích và bị điều tra vì viết séc không hợp lệ. Cô này cũng bị tước bằng do lái xe khi trong người có nồng độ cồn. Năm Ursa lên lớp hai, trường học yêu cầu điều tra Portia vì tội bỏ bê con trẻ. Ursa đến lớp trong bộ quần áo bẩn thỉu, và nhiều lần, người ta trông thấy con bé lang thang trên sân chơi khi giờ học đã kết thúc từ lâu. Hành vi của cô bé càng lúc càng lạ…”
“Con nít thông minh hay bị cho là kỳ cục mà,” Jo nói.
“Họ cũng đã xét đến vấn đề đó. Nhưng cô bé thường xuyên phá bĩnh trong giờ học. Cô bé thường xuyên đọc ngược mọi thứ và giơ tay đòi kể cho giáo viên những câu chuyện điên rồ.”
“Con bé chán ấy mà,” Gabe nói. “Bà cứ thử tưởng tượng xem chương trình học lớp Hai sẽ nhàm chán như thế nào đối với một người có IQ cao như thế?”
Bà Lenora mỉm cười. “Tôi rất vui khi thấy hai người bảo vệ con bé. Nhưng một đứa bé hành xử như vậy thường là dấu hiệu của tình hình gia đình căng thẳng. Lúc điều tra nhà ở, các nhân viên xã hội đã phát hiện, về cơ bản, Ursa tự lo cho bản thân. Con bé biết cách nấu những món đơn giản như nui và phô mai, tự làm bài tập, chuẩn bị sách vở và tự đi đến trạm xe buýt mà không cần ai giúp đỡ. Quần áo của con bé bẩn thỉu vì nó không tự mình đi đến tiệm giặt là được. Sau khi Dylan qua đời, Portia phải chuyển vào một phòng trọ rẻ mạt, không có máy giặt hay máy sấy gì cả.”
“Các nhân viên xã hội có cân nhắc đến chuyện tách con bé khỏi mẹ nó không?” Jo hỏi.
“Tình hình phải tệ lắm thì họ mới làm thế. Họ kết luận những gì xảy ra không phải là điển hình đối với một đứa trẻ sống với bà mẹ đơn thân. Nhưng điều họ không biết là Ursa đã nói dối khi họ hỏi con bé về việc mẹ nó có dùng chất kích thích và rượu chè không. Portia nghiện nặng đến mức cô ta phải buôn phấn bán hương để có tiền chơi thuốc. Cô ta làm phục vụ ở một quán bar kiêm nhà hàng…”
“Nhà hàng ấy tên gì?” Jo thắc mắc.
“Không phải nơi cô cậu dừng lại ăn vào đêm xảy ra vụ xả súng.”
“Bà biết cả chuyện đó sao?”
“Tôi biết mọi chuyện,” bà Lenora đáp. “Chúng tôi cho rằng Ursa từng đến nhà hàng đó, nhưng không phải vì mẹ con bé từng làm việc ở đó. Nơi cuối cùng Portia làm việc là một địa điểm xô bồ, và cô ta đã tìm được một gã đàn ông sẵn sàng bao nuôi để thỏa mãn cơn nghiện của mình. Không có bằng lái nên một nhân viên phục vụ làm chung hay chở cô ta đi đi về về. Một ngày tháng Sáu, cô này đến đón Portia ở nhà trọ như thường lệ nhưng gọi mãi không thấy ai trả lời. Suốt hai ngày sau, Portia cũng không xuất hiện ở chỗ làm, một người bạn đã năn nỉ chủ nhà trọ của Portia cho phép cô này vào phòng trọ. Bước vào bên trong, họ tìm thấy mảnh giấy ghi chú được đính trên tủ lạnh ghi rằng cô ta và bạn đã đưa Ursa đến Wisconsin chơi.”
“Lúc đó đã hết học kỳ trên trường rồi à?” Jo hỏi.
“Phải, Ursa không đi học nữa. Nhưng người bạn của Portia dám chắc rằng chẳng có bạn bè nào đưa hai mẹ con đến Wisconsin hết. Cô này cũng biết Portia và Ursa không đời nào để lại quần áo như thế. Suốt một tuần liền, cô ta nằn nì cảnh sát, nhưng sau khi cảnh sát bắt đầu hỏi thông tin, cô ta đột nhiên bỏ của chạy lấy người. Cô ta sợ gặp rắc rối vì bản thân cô cũng dùng chất kích thích và làm gái. Sau đó, cảnh sát đành buông xuôi vụ việc.”
“Trong khi mạng sống của con bé chẳng khác nào chỉ mành treo chuông ư?” Jo bàng hoàng.
“Họ không có đầu mối, chưa kể người mẹ đã viết giấy để lại. Sang tuần thứ hai, họ không có bằng chứng gì để tìm vì chủ nhà trọ của Portia vứt sạch đồ đạc của hai mẹ con đi và dọn phòng để người thuê phòng mới có thể chuyển vào. Đã hai tháng Portia chưa trả tiền trọ.”
“Lý ra cảnh sát không nên để chủ nhà trọ làm như thế,” Jo trầm ngâm.
“Hai tuần trước, họ phát hiện thi thể Portia trong một cái hố đất.”
“Trời ơi!” Gabe kinh ngạc.
“Họ có biết tại sao cô ta chết không?” Jo hỏi.
“Cái xác đã phân hủy, nhưng có bằng chứng bên phải hộp sọ bị thương nặng. Mức độ phân hủy khớp với ngày cô ta mất tích. Có thể cô ta qua đời vào đêm ngày mùng Sáu tháng Sáu.”
“Ursa xuất hiện trước sân nhà tôi vào ngày mùng Bảy tháng Sáu,” Jo kể.
Bà Lenora gật đầu. “Một tuần trước, cô cậu dừng ở Effingham ăn tối và cũng đã để ý thấy rằng Ursa có vẻ sợ sệt một người đàn ông. Có thể kẻ này đã ra lệnh cho hai gã kia bám theo các vị về nhà. Cô đã khai với cảnh sát rằng Ursa nói với cô Họ cũng sẽ giết cả cô trước khi đám người kia bắt đầu nã súng.”
“Những kẻ ấy đã sát hại Portia,” Gabe kết luận.
“Có thể,” người phụ nữ nói, “và chúng tôi cho rằng Ursa đã chứng kiến sự việc.”
“Tại sao Ursa lại bị cảnh sát canh gác nếu những kẻ thủ ác đã chết?” Jo thắc mắc.
“Ai mà dám chắc chỉ có hai kẻ dính líu? Có thể người đàn ông nghe điện thoại ở nhà hàng cũng tham gia vào vụ giết người. Chúng tôi cho rằng Ursa biết kẻ này và biết những gì xảy ra vào đêm mẹ con bé chết.” Bà Lenora rướn người thêm về phía Jo. “Để biết được nguồn cơn, chúng tôi cần cô giúp.”
“Khi nào?”
“Ngay hôm nay. Sự an toàn của con bé phụ thuộc vào cô, Joanna. Cô phải khiến con bé khai ra.”