Chương 38
Một tháng sau, vào một ngày mát mẻ hiếm hoi cuối tháng Tám, Ursa đứng giữa Gabe và Jo, tay nắm chặt hai người. Đằng sau cây thánh giá bằng đá cẩm thạch trắng, mục sư đánh xe vào con đường dẫn ra khu mộ rồi lái đi. Lenora Rhodes cũng nổ máy chạy theo. Không ai đến tiễn Portia Wilkins Dupree về nơi an nghỉ cuối cùng, ngay cả mẹ cô. Portia qua đời ở tuổi hai mươi sáu trong khi cố gắng bảo vệ con gái mình. Hóa ra, mẹ cô bé bằng tuổi Jo.
Ursa buông tay Jo và Gabe, chăm chút xếp những bông hoa thành hình một chòm sao mới xung quanh ngôi mộ. “Tạm biệt mẹ. Con thương mẹ nhiều,” cô bé lên tiếng chào sau khi kết thúc.
Rồi con bé tiếp tục nắm tay họ. “Con muốn qua thăm bố nữa.”
Cả ba người đi qua ngôi mộ của Dylan Joseph Dupree. Anh được chôn cạnh mẹ mình, phần đất trống sát bên ngôi mộ của bà là dành cho chồng. Bố của Dylan sống trong viện dưỡng lão gần đó, đầu óc ông lẩn thẩn do căn bệnh Alzheimer nên chẳng biết cháu nội mình là ai. Vì không còn đất để chôn Portia bên cạnh Dylan và bố mẹ chồng, nên Jo mua một miếng gần mộ phần Dylan nhất có thể. Thể theo nguyện ước của Ursa, cây thánh giá trên mộ Portia cũng giống như cây ở mộ Dylan.
Qua đến ngôi mộ của bố, Ursa buông tay Jo và Gabe. Con bé lấy một tấm hình gấp gọn từ trong túi ra và đặt dưới thánh giá. Đó là hình Thiên Hà Chong Chóng trong chòm sao Đại Hùng.
Dylan thích mê bất cứ điều gì liên quan đến trăng sao. Trước khi cuộc đời mình biến thành mớ bòng bong, anh muốn trở thành một nhà vật lý thiên văn. Anh đặt tên con gái mình là Ursa theo chòm sao Đại Hùng trên bầu trời, thậm chí dạy cho cô bé tên các vì sao và chòm sao. Khi Ursa sợ bóng tối, anh mở hé cửa sổ rồi thủ thỉ vào tai cô bé ma thuật rơi từ những vì tinh tú đang chảy vào cửa sổ. Anh nói ma thuật sẽ luôn giữ cho con gái an toàn. Sau khi bố qua đời, tối nào Ursa cũng mở toang cửa sổ để ma thuật lọt qua. Nhờ vậy mà con bé thoát được những kẻ suýt chút nữa đã kết liễu đời nó.
Ursa bước qua cây thánh giá và hôn lên đỉnh. “Con thương bố lắm.” Đoạn nó chỉ về phía sau. “Đây là cô Jo và chú Gabe. Bố chắc chắn sẽ thích hai người họ cho xem. Chú Gabe thích thiên văn y như bố vậy.” Con bé vuốt phẳng bức tranh vẽ hình thiên hà rồi quay lưng.
“Con đã sẵn sàng để đi chưa?” Jo hỏi.
“Dạ rồi ạ,” con bé đáp.
Họ còn một ngôi mộ nữa cần viếng. Cả ba leo lên xe Jo và lái từ Paducah, Kentucky lên Vienna, Illinois. Khi đến gần Đường Turkey Creek, Ursa chúi người hết cỡ về phía giữa khoảng trống hai ghế trước. Kể từ đêm được trực thăng mang đi tại ngã tư này đến Saint Louis phẫu thuật, cô bé chưa có cơ hội quay lại lần nào.
“Gì thế này?” Jo thốt lên khi con đường hiện ra trong tầm mắt. “Em du hành vượt thời gian à?”
“Anh tưởng em bảo bọn anh nhìn không quá giống nhau?” Gabe hỏi.
“Vì khoảng cách tuổi thôi.”
Phiên bản Gabe luống tuổi mỉm cười vẫy tay chào ba người họ từ chiếc ghế dưới tán dù xanh và tấm bảng TRỨNG SẠCH.
“Anh chưa kể với em thầy ấy đã trở thành Chú Bán Trứng mới.”
“Anh cũng có biết đâu,” Gabe phân bua.
“Thầy ấy chưa làm vậy bao giờ sao?”
“Anh cũng bất ngờ y như em.”
Jo đậu chiếc Honda bên cạnh xe tải trắng của Gabe. “Thầy dùng cả xe của anh kìa.”
“Anh bảo bố dùng nó cho công việc đồng áng,” Gabe giải thích. “Xe ông đẹp quá, chạy đường sỏi khéo hỏng hết.”
“Em từng có kinh nghiệm đau thương đây.”
Ursa thoắt xuống từ cửa sau và chạy đến quầy trứng. Ông Geoge Kinney đứng dậy bắt tay cô bé. “Con hẳn là Ursa.”
“Dạ vâng ạ,” con bé đáp.
“Ông là George, rất vui được gặp con.”
“Sao ông nhìn giống chú Gabe vậy ạ?” Ursa hỏi.
“Vì chú Gabe có hai người bố, trong đó một là ông,” ông trả lời.
Gabe ôm lấy bố mình.
“Mọi chuyện thế nào?” Ông George hỏi han.
“Không có gì khúc mắc ạ,” Gabe đáp.
“Bố mẹ cứ lo họ đổi ý.”
“Đó là lý do bố ra đây đợi bọn con về à?”
“Bố ra đây vì đống trứng chất cao đến nóc thì có.” Ông dang tay về phía Jo. “Con cũng qua đây nào, Wonder Woman.”
“Ngực của con khá là trống vắng so với nữ anh hùng đó ạ,” Jo e dè.
“Vậy càng tốt,” ông George đáp, siết chặt cô trong vòng tay.
“Bọn con đang làm đám tang cho Gấu Nhỏ,” Ursa lên tiếng.
“Ồ, hay quá nhỉ,” ông đáp. “Ông nghe nói chú chó giỏi lắm.”
“Giỏi nhất thế giới ạ,” Ursa tự hào.
“Mình đi thôi,” Gabe nói. “Jo phải lên đường ngay sau bữa trưa.”
“Bố sẽ dọn dẹp và gặp con ở nhà,” ông George chào.
“Thầy cần bọn con giúp gì không ạ?” Jo hỏi.
“Thôi nào, thầy chưa già đến mức ấy.”
Jo, Gabe và Ursa lái xe xuống con đường gồ ghề của Turkey Creek. Ursa rướn người thật cao để nhìn ra ngoài cửa sổ. “Cảnh vật khác quá,” con bé thốt lên.
“Cây cỏ đua nở, lại sắp sửa chuyển màu nữa,” Jo đáp.
“Cờ cắm tổ chim đâu rồi ạ?”
“Cô đã gỡ xuống sau khi bài nghiên cứu kết thúc rồi. Đám chim sẻ đất màu chàm cũng sắp sửa di cư rồi.”
“Chúng sắp bay đi ạ?”
“Chúng sẽ vắng mặt vài tuần, nhưng chỉ trong mùa đông thôi. Sang xuân, chúng sẽ về lại.”
Họ lái xe vào khu đất Nhà Kinney, rẽ lên căn nhà gỗ màu vàng xinh xắn trên đồi. Trước khi tắt máy, Jo ngước nhìn cây hồ đào.
Ursa lao khỏi ghế rồi chạy ra bãi cỏ sau nhà.
“Ursa, lối này kia mà!” Gabe gọi con bé.
“Con hái hoa cho Gấu Nhỏ!” Cô bé đáp.
Jo nhìn con bé biến mất vào đám cỏ rậm rì. Gabe nắm tay kéo cô lại gần. “Anh vẫn bán trứng chứ?” Cô hỏi.
“Kể từ sau vụ bắn súng, anh không bán trứng nữa.”
“Anh có định bán lại không?”
“Anh chưa biết.” Anh nhìn về phía con đường, đôi mắt xa xăm. “Quầy trứng là sợi chỉ kết nối anh với thế giới bên ngoài.”
“Giờ anh có thứ nào lớn lao hơn để kết nối chưa?”
Anh mỉm cười nhìn cô. “Nói đúng hơn là sợi chỉ đã bị cắt, và anh rơi vào thế giới thật.”
“Thế tình hình ra sao?” Jo hỏi.
“Tốt lắm. Nhưng thỉnh thoảng anh không dám tin mọi chuyện lại thuận buồm xuôi gió đến vậy. Nếu lại có biến cố xảy đến thì sao?”
“Những người thương yêu anh sẽ giúp anh.”
Anh hôn cô. Cùng lúc, Ursa cũng vòng tay quanh bọn họ, một tay choàng qua Jo, tay kia ôm lấy Gabe. Con bé gí đầu vào giữa hai người.
Sau khi Ursa chuẩn bị xong xuôi, anh dẫn cả hai cô cháu đến ngôi mộ của Gấu Nhỏ. Trên một cây thánh giá làm bằng gỗ tuyết tùng bóng loáng, anh đã khắc tên GẤU NHỎ, bên dưới là dòng chữ, “Chú chó hy sinh vì những người mình thương”.
Ursa sụt sịt và đưa tay chùi má.
“Con thích cây thánh giá này không?” Gabe hỏi.
“Không có gì để chê ạ,” cô bé đáp. Nó đặt bó hoa gồm cúc hoàng anh, cúc dại tím và cúc thạch thảo trên đụn đất lấm tấm chồi non.
“Con muốn ai phát biểu gì không?” Jo hỏi.
“Con muốn hát cho Gấu Nhỏ bài hát ưa thích của con. Bố của Ursa, ý là bố của con, thường hát cho con mỗi khi chuẩn bị đi ngủ.”
“Thế thì hay quá,” Gabe nói.
Ngắm nhìn phần đất bao bọc chú chó, Ursa cất tiếng hát, “Một vì sao nhỏ lấp lánh xa. Ánh sáng soi chung cho muôn nhà. Một vì sao nhỏ lấp lánh xa. Ở mãi cao xa trên bầu trời. Sao sáng lung linh như viên ngọc. Một vì sao nhỏ lấp lánh xa. Ánh sáng soi chung cho muôn nhà.” [33]
Gabe siết chặt tay Jo.
Sau khi hát xong, Ursa ngồi xổm xuống, vỗ lên mô đất. “Chị thương em lắm, Gấu Nhỏ.”
Họ quay lại xe và lái về nhà Nash.
“Xe của ai đây ạ?” Ursa hỏi khi chiếc xe dừng lại. “Ai đến vậy chú Gabe?”
“Con vào trong xem thử đi,” anh nói.
Ursa nhảy khỏi xe và chạy lên hàng hiên. Jo cùng Gabe theo sau. Họ muốn nhìn thấy phản ứng của cô bé.
“Con vào được không ạ?” Ursa thỏ thẻ.
“Từ khi nào con biết hỏi vậy?” Lacey nói vọng từ sau cửa chắn.
Ursa nhoẻn miệng cười. “Chú Gabe ơi, chú còn nhớ không? Cái lần bọn con cứu chú ấy?”
“Chú vẫn nhớ như in,” anh đáp.
“Con vào đi,” bà Lacey đáp và đẩy cửa ra.
Ursa bước vào, nét mặt chuyển từ kinh ngạc sang sung sướng khi tất cả mọi người đồng thanh hát vang bài “Chúc mừng sinh nhật”. Những quả bóng bay màu tím than và tím oải hương bay khắp phòng khách, tường gỗ và trần nhà cũng được chăng đầy những rải ruy băng cùng màu. Các tấm bảng ghi dòng chữ MỪNG CON TRỞ LẠI, URSA và CHÚC MỪNG SINH NHẬT 9 TUỔI được treo ở phía trên chiếc bàn xếp đầy các món ăn trưa và chiếc bánh ga tô lấm tấm rắc sao bạc. Chưa hết, để thêm phần rộn ràng cho phòng tiệc, đám mèo con được thắt nơ rực rỡ màu sắc lởn vởn dưới chân mọi người.
“Con không hề biết hôm nay là sinh nhật con đấy!” Ursa reo lên.
Jo không muốn ngày mẹ cô bé được chôn cất lại rơi đúng sinh nhật của con bé, nhưng đó là ngày duy nhất mà cô cùng bà Lenora có thể đến Paducah. Jo và Gabe đã lên kế hoạch cho bữa tiệc để con bé có thể vui vẻ.
Gabe giới thiệu Ursa với vợ chồng con gái ông George cùng cậu con trai đang học cấp hai của họ. Gabe và con gái ông đã trở nên thân thiết, nhưng người chị còn lại trong nhà ông George vẫn chưa quen được với ý tưởng mình có một cậu em trai ngoài giá thú.
Chồng của Lacey giới thiệu bản thân với Ursa. Trong khi Troy bắt tay cô bé, một chiếc vòng với mặt pha lê hình ngôi sao xuất hiện trong lòng bàn tay con bé. “Nó xuất hiện từ đâu ấy nhỉ?” Ông hỏi.
“Con không biết!” Ursa reo lên.
“Con có thích không?”
“Dạ có!”
“Vậy nó là của con rồi.”
Đó là lúc Jo phát hiện hóa ra luật sư Troy Greenfield là một ảo thuật gia nghiệp dư.
Jo kéo Ursa ra một góc, nói nhỏ với con bé rằng Tabby rất muốn tham dự bữa tiệc nhưng không thể vì chị gái của cô ấy từ California đến thăm. Tabby muốn lái xe đưa chị ra sân bay, mà tình cờ thế nào, nó trùng với giờ tổ chức bữa tiệc.
“Không sao ạ,” Ursa đáp.
Jo đưa cô bé chiếc hộp cỡ bự bọc giấy in hình những chú mèo. “Đây là quà mà cô ấy gửi.”
“Con mở được không ạ?”
“Tất nhiên là được,” Jo ôn tồn.
Ursa ngồi lên sàn, xé lớp giấy gói và nhấc nắp hộp lên. Con bé mặt sáng bừng, nhấc con thú nhồi bông to mềm mang hình dạng sinh vật lạ màu tím ngoác miệng cười khoe hết hàm răng, chân tay dài lẻo khoẻo ra khỏi hộp. Như người ngoài hành tinh trong bài hát, nó có một con mắt ở ngay giữa, sừng dài và hai cánh. Trên tay nó siết thứ gì đó kỳ cục. “Kẻ ăn thịt người màu tím! Mềm như gối luôn!”
Ursa hào hứng mở những món quà còn lại: một cặp ống nhòm nhỏ và hướng dẫn thực địa chim từ Jo, cuốn sách bậc trung về sinh thái sông suối từ ông George, bộ vẽ màu nước từ Lacey, áo len màu oải hương với mặt chú mèo trắng từ con gái ông George, cuốn Giấc Mộng Đêm Hè bìa cứng với hình minh họa rựa rỡ màu sắc từ bà Katherine.
“Chết thật, chú quên tặng quà cho con mất rồi,” Gabe cất tiếng.
Ursa mỉm cười, thừa biết anh đang nói đùa.
“Chậc, chú đoán chú phải tặng con gì đó mới được.” Anh nhìn quanh, tay xoa xoa cằm. Anh bước qua phòng khách và nhấc Juliet cùng Hamlet lên tay. “Thế mấy chú mèo này thì sao? Chú nghe bảo bố mẹ nuôi mới sẽ cho con nuôi mèo đấy.”
Ursa ngẩng đầu nhìn Jo. “Thật ạ? Con được nuôi ạ?”
“Cô đoán mẹ nuôi của con tốt tính lắm,” Jo đáp.
Cô bé nhận lấy hai chú mèo và vùi mặt vào chúng.
“Có vẻ con đã ảnh hưởng tích cực đến số phận của Juliet và Hamlet rồi nhỉ?” Gabe nhận xét.
“Nhờ hạt quark của con đấy ạ,” Ursa đáp.
“Khoan đã,” anh chặn ngang. “Chú tưởng mình đã dẹp chuyện hạt quark sang một bên rồi?”
“Sao dẹp được ạ? Con vẫn khiến những điều tốt đẹp xảy ra mà.”
“Vậy sao?”
“Cô Jo dặn con không nói về Ursa như thể con không phải bạn ấy, nhưng con không giả vờ làm Ursa không có nghĩa con không phải người ngoài hành tinh.”
Jo và Gabe đưa mắt nhìn nhau, còn Ursa, như thường lệ, đánh hơi được ngay sự bối rối của họ. “Không sao đâu ạ,” con bé nói với Jo. “Con vẫn làm theo lời cô nói mà.”
“Cô Jo đã nói gì với con?” Gabe hỏi.
“Cô ấy bảo có thể xem người ngoài hành tinh như tâm hồn của Ursa, nên Ursa và người ngoài hành tinh chính là một chỉnh thể.”
“Nghe hay quá,” bà Katherine cảm thán.
“Dạ phải,” Ursa đáp. “Nhưng ngược lại thì chuẩn hơn ạ: Ursa là tâm hồn con, vì con là người đến từ những vì sao.”
Ai nấy đều lặng thinh, ngẩn ngơ dưới thứ ma thuật kỳ lạ của Ursa.
“Vậy cô bé ngoài hành tinh với tâm hồn con người có quan tâm đến bánh sinh nhật không nhỉ?” Ông George hỏi.
“Dạ có ạ!” Ursa reo vang.
“May quá,” ông đáp. “Ông cứ lo phải tự mình ăn hết cả cái bánh.”
Mọi người thắp chín ngọn nến và lại hát vang bài “Chúc Mừng Sinh Nhật” tặng Ursa. Jo không thích việc vừa ăn trưa xong đã phải khăn gói lên đường, nhưng cô muốn Ursa về tới tổ ấm mới trước khi trời tối. Cô cùng Gabe gói ghém quà sinh nhật của con bé và để hai chú mèo vào chiếc lồng mà Lacey mua cho.
Khi họ mang lồng ra ngoài, Ursa òa lên khóc lúc thấy chú mèo mẹ. “Mèo mẹ không muốn con lấy mèo con đi!”
“Chúng hết bú sữa mẹ rồi mà,” Gabe nói.
Chú mèo mướp màu cam cọ vào chân cô bé.
“Con thấy chưa?” Anh trấn an. “Nó đang bảo con hãy mang con nó đi đấy.”
Sau khi ôm tạm biệt Ursa và Jo ở hàng hiên, mọi người bước vào trong để Gabe có thời gian riêng tư với hai cô cháu.
“Thầy George và mẹ anh đã nói với anh ngày cưới chưa?” Jo hỏi.
Anh đặt lồng mèo ra băng ghế sau của chiếc Honda. “Hai tâm hồn lãng mạn này bảo sẽ đợi cho đến khi lá chuyển màu, nên chưa biết chính xác thời gian.”
“Mong là sẽ được báo sớm một chút,” Jo nói.
“Anh cũng đã nói với hai người như vậy rồi.”
“Con được tham gia đám cưới của ông George và bà Katherine không ạ?” Ursa hỏi.
“Chú không biết nữa,” Gabe trả lời. “Tùy thuộc vào việc bố mẹ nuôi có cho con tham gia hay không.”
“Có chứ ạ,” Ursa khẳng định.
“Con chắc chứ?” Jo hỏi. “Cô nghe nói họ là tuýp người sẽ bắt con ăn mấy thứ màu xanh con ghét mà.”
“Nếu họ làm vậy, con sẽ đào tẩu cho mà xem.”
“Thôi, mình không được làm thế nữa đâu nhé,” Gabe dặn. Anh cài dây an toàn và ôm cô bé. “Chú sẽ nhớ con lắm, thỏ con.”
“Không lâu đâu ạ,” Ursa úp mở.
“Tại sao không?”
“Hạt quark của con.”
Anh lùi khỏi xe và nhìn Jo. “Xem ra số phận chúng mình vẫn đang dập dềnh trong biển hạt quark nhỉ?”
“Chuyến đi thăng trầm ra phết,” Jo nói. Hai người trao nhau nụ hôn và cái ôm thật chặt. Họ không biết khi nào mới được đoàn tụ. Gabe phải thu hoạch và gieo trồng vụ thu cho nông trại, còn Jo sẽ dạy học và đi học vào kỳ thu này. Nhưng cô sẽ về tham gia đám cưới của bà Katherine và ông George bất kể bận rộn ra sao. Cô thì thầm vào tai Gabe, “Em không nghĩ em có thể đợi đến khi lá đổi màu.”
“Anh biết. Có lẽ anh sẽ chôm bộ màu vẽ của Ursa và tô màu toàn bộ đám lá chết tiệt.”
Jo nổ máy và lái xe đi, nhìn anh lùi dần về sau qua chiếc gương chiếu hậu.
“Cô đừng lo, cô sẽ gặp chú trước đám cưới thôi,” Ursa lên tiếng.
“Dạo này con chắc như đinh đóng cột về mấy hạt quark nhỉ?”
“Con rành hơn nhiều rồi ạ.”
Suốt chặng đường dài, Ursa đọc cuốn sách được tặng dịp sinh nhật, ôm ấp kẻ ăn thịt người màu tím bằng bông, đùa giỡn với hai chú mèo qua cửa lồng. Khi họ rời khỏi xa lộ liên tiểu bang, Ursa nhìn ra ngoài cửa sổ, quan sát quê hương mới của mình. Jo đánh xe vào con đường hai bên rợp bóng cây, nhuốm sắc vàng tà dương. Trước khi lái xe lên lối vào nhà, cô dừng lại ngắm nhìn căn nhà ốp ván trắng, bừng nở sắc hoa cuối hè.
Tabby bước lên hiên, mỉm cười vẫy tay.
Ursa leo ra khỏi xe, cố gắng giữ đám mèo trong tay.
“Con cất chúng vào lồng đi đã,” Jo dặn. “Chúng mà nhảy xuống là dễ lạc lắm.” Jo nhìn Tabby để ra hiệu đỡ giúp hai chú mèo, nhưng cô bạn đang trao đổi với ai đó trên điện thoại với vẻ mặt hết sức nghiêm túc.
“Không lạc đâu ạ,” Ursa đáp. Cô bé ôm cặp mèo đang quẫy đạp vào sát ngực. “Ước gì mèo của bác Frances Ivey cũng ở đây. Nó có thể sẽ trở thành mẹ nuôi của Juliet và Hamlet.”
“May mà bác Frances không có ở đây đấy. Bác ấy không cho phép có con nít, mà cô chưa kể với bác ấy chuyện của con đâu.”
“Sắp có một biến cố thay đổi điều đó rồi ạ,” Ursa lấp lửng.
“Là sao?”
“Cô cứ đợi mà xem.”
Khi họ bước lên lối vào, Tabby chạy xuống bậc tam cấp. “Bà sẽ không bao giờ đoán được chuyện này đâu!”
“Tabby! Bà chào cô con gái tôi mới nhận nuôi đã nào.”
“Ừ nhỉ…” Cô cất điện thoại vào túi và hôn lên má Ursa. “Chúc mừng sinh nhật, cô bé tuyệt vời nhất vũ trụ.”
“Con rất thích kẻ ăn thịt người màu tím bằng bông mà cô tặng con,” Ursa nói với Tabby.
“Cậu ấy đến từ Purpletonia, một hành tinh xa ơi là xa,” Tabby giới thiệu. “Ôi chà, mấy chú mèo con xinh quá nhỉ?”
“Chú Gabe tặng con đấy ạ.”
“Thế có chuyện gì vậy?” Jo hỏi.
“Cô Frances Ivey gọi, tôi vừa mới cúp máy xong. Bà sẽ không tin nổi đâu. Cô ấy sẽ cưới cô Nancy và ở lại Maine! Cô ấy muốn biết liệu mình có nghĩ tới việc mua luôn căn nhà không.”
Jo nhìn Ursa. “Được rồi, chuyện này hơi lạ rồi đấy…”
“Chuyện gì?” Tabby tò mò.
“Ursa vừa nói sẽ có biến cố xảy ra thay đổi luật cấm con nít.”
Tabby nhoẻn miệng cười. “Là con làm đấy hả? Cô bé ngoài hành tinh?”
Ursa reo lên mừng rỡ. Đám mèo con bám lấy tóc con bé hòng thoát khỏi vòng tay. Chúng nhảy xuống đất rồi chạy thẳng lên bậc tam cấp, tựa hồ đi theo một con đường trải hạt quark vô hình. Juliet nằm thẳng cẳng trên tấm thảm chào mừng, còn Hamlet ngả lưng ngay bên cạnh, chân khẽ khều cằm Juliet.
Ursa tay trái nắm tay Jo, tay phải nắm tay Tabby. Cô bé kéo hai người phụ nữ sát vào người, tựa hồ một chú chim non rúc vào tổ. Nó mỉm cười nhìn hai chú mèo vờn nghịch trên hiên tổ ấm mới. “Là con làm nó xảy ra đấy.” Cô bé ngước mặt lên. “Phải không cô Jo?”
“Chuẩn rồi, Gấu Lớn.”
HẾT