← Quay lại trang sách

Chương 15

"Mẹ, Donnie có một, mẹ biết đấy, một câu hỏi."

Kathryn, đang nghĩ: Mẹ biết đấy. Nhưng cô hiếm khi chỉnh đốn con cái trước mặt người khác. Cô sẽ dạy bảo chúng một cách nhẹ nhàng sau đó. Cô cụng đầu mình vào con trai, cậu gầy còm và có mái tóc sáng màu. Cao gần bằng cô rồi. "Được thôi. Đó là gì vậy?."

Donnie Verso, mười ba tuổi với mái tóc màu đen, cùng lớp với Wes, nhìn cô. "Cháu không biết phải gọi cô là gì."

Ánh hoàng hôn bao quanh ba người họ, khi tất cả đứng trên hiên nhà rộng rãi - được bạn bè và gia đình biết đến với cái tên "Hiên nhà" - đằng sau là căn nhà phong cách kiến trúc Victorian của Kathryn. Ngôi nhà sơn màu xanh thẫm với hàng rào đã chuyển màu xám do thời tiết, cửa chớp và đồ trang trí. Nó nằm ở phía Tây bắc Pacific Grove. Bạn có thể, nếu thích mạo hiểm bằng cách lăn ra ngoài hiên, thoáng thấy đại dương cách đó khoảng tám trăm mét.

Wes chêm vào: "Cậu ấy không biết nên xưng hô với mẹ là cô Dance hay Đặc vụ Dance."

"Ồ, cháu thật lịch sự khi hỏi thế, Donnie. Nhưng vì cháu là bạn của Wes, cháu cứ gọi là cô Kathryn."

"Ôi, cháu không nên xưng hô với mọi người như thế. Ý cháu là với người lớn. Bằng tên riêng của họ. Bố cháu dạy cần phải biết lễ phép."

"Cô có thể nói chuyện với ông ấy."

"Không cần ạ. Chỉ là bố sẽ không thích điều đó."

"Vậy thì gọi cô là cô Dance." Wes đã chia sẻ với bạn bè của mình rằng bố cậu bé đã qua đời nhưng Kathryn biết bọn trẻ hiếm khi dùng những từ ngữ mỹ miều như bà, cô, chị.

"Tuyệt." Mặt cậu bé sáng bừng lên. "Cô Dance."

Với mái tóc xoăn và khuôn mặt như thiên thần, Donnie sẽ sớm trở thành nam châm hút các cô gái thôi. Có khi giờ cậu bé đã thế rồi, cô nghĩ. (Còn Wes? Đẹp trai. và tốt bụng. Một sự kết hợp nguy hiểm: đã bắt đầu khiến các cô bé rung động rồi. Cô có chiều hướng muốn hãm lại sự phát triển của các con mình, nhưng cô biết là ngăn sóng vỗ vào cát ở Vịnh Spanish còn dễ hơn). Donnie sống cách đây không xa, có thể di chuyển bằng xe đạp, điều này khiến Kathryn thấy biết ơn - là một bà mẹ đơn thân, dù có một mạng lưới hỗ trợ tốt như của cô, bất cứ thứ gì giúp làm giảm đi nhiệm vụ phải lái xe đều là một sự may mắn. Cô nghĩ Donnie trông sẽ sáng sủa hơn nếu không mặc áo hoodie hay quần bò baggy... nhưng ngày nay thủ khoa của các lớp trung học và các ca sĩ nhạc pop đều ăn mặc giống như những tên trong băng nhóm đường phố, vậy nên cô là ai mà được quyền đánh giá cơ chứ?

Vừa từ cơ quan về, Kathryn không đi qua cửa trước mà đi qua sân bên cạnh và cổng - để chắc rằng nó được khóa - sau đó bước lên hiên. Điều đó tức là cô chưa nói lời chào với những thành viên bốn chân của ngôi nhà này. Chúng giờ chạy lên phía trước để được xoa đầu và, nếu may mắn, hy vọng được món gì đó (than ôi, hôm nay chẳng có gì). Dylan, là một con chó béc-giê, được đặt tên theo tên của một người nhạc sĩ - ca sĩ huyền thoại, còn có Patsy, một con chó Retriever lông nhẵn, với sự tôn trọng cô Cline, ca sĩ hát nhạc đồng quê mà Kathryn yêu thích.

"Donnie ở lại ăn tối được không mẹ?" Wes hỏi.

"Nếu điều đó được cô đồng ý, cô Dance."

"Cô sẽ gọi cho mẹ cháu," thủ tục thôi.

"Được ạ. Cảm ơn cô."

Các cậu bé quay lại với trò chơi của mình và nhảy xuống sàn hiên gỗ đỏ, nhấm nháp một ít khoai tây chiên và uống trà. Trong nhà Kathryn không có bóng dáng của soda.

Kathryn tìm thấy số điện thoại nhà của Donnie và gọi. Mẹ cậu bé đã cho phép cậu ở lại ăn tối, nhưng phải về trước chín giờ.

Cô cúp máy, rồi quay trở lại phòng khách nơi mà bố cô, ông Stuart, và con gái mười tuổi Maggie đang ngồi xem ti vi.

"Mẹ! Mẹ đi vào từ cửa sau?"

Dĩ nhiên là cô đã không nói với con bé rằng cô vừa đi kiểm tra hàng rào và xem cổng đã thực sự được khóa chưa. Hai vụ án đều đang mở, với vô số những kẻ xấu, những người có thể, nếu chúng thực sự muốn, đến tìm cô.

"Cho mẹ ôm cái nào, con yêu."

Maggie vui vẻ làm theo. "Anh Wes và Donnie không cho con chơi cùng."

"Mẹ chắc rằng đó là trò chơi dành cho con trai."

Khuôn mặt hình trái tim của Maggie nhăn lại. "Con không biết nó là gì. Con nghĩ là không nên có đồ chơi con trai và đồ chơi con gái riêng."

Ý kiến hay. Nếu và khi Kathryn tái hôn, Maggie đã tuyên bố rằng con bé sẽ là "phù dâu" - dù ở bất kỳ độ tuổi nào. Con bé cũng đã được học về chủ nghĩa nữ quyền ở trường và khi trở về nhà sau các buổi học môn xã hội học, con bé đã tuyên bố, với sự vui mừng của Kathryn, rằng mình không phải là người nữ quyền. Con bé là một người đòi quyền bình đẳng.

"Bố!" Kathryn chào bố mình.

Ông Stuart đứng dậy và ôm con gái. Ồ độ tuổi bảy mươi, và dù dấu ấn suốt thời gian ông ở ngoài trời với công việc của một nhà sinh học biển đã hằn lên da thịt, nhưng ông Stuart trông vẫn trẻ hơn tuổi. Ông cao khoảng gần mét chín, bờ vai rộng, mái tóc bạc, dày và rối. Những vết mổ và điều trị bằng laze của các bác sĩ da liễu cũng đã để lại dấu ấn và giờ ông hiếm khi ra ngoài mà không đội mũ rộng vành. Ông Stuart đã nghỉ hưu, nhưng khi không phải trông bọn trẻ hay chăm nom quanh nhà ở Carmel, ông làm việc ở Thủy cung Vịnh Monterey vài ngày một tuần.

"Mẹ đâu rồi ạ?"

Bà Staunch Edie Dance là một y tá về tim mạch tại Bệnh viện Vịnh Monterey.

"Bà ấy phải trực ca đêm, lấp ca trống. Nên chỉ có mình bố tối nay thôi."

Kathryn đi thẳng vào phòng ngủ, rửa chân tay và thay đồ thành chiếc quần bò đen, kết hợp với áo cánh bằng lụa và áo len màu đỏ tía. Ồ vùng duyên hải miền trung, sau khi mặt trời lặn, trời có thể sẽ trở lạnh và bữa tối hôm nay lại ở ngoài hiên.

Khi cô đi xuống cầu thang và đi vào hành lang, một người đàn ông bước vào từ cửa chính. Jon Boling, hơn bốn mươi tuổi, không cao lắm. Anh chỉ cao hơn Kathryn một chút nhưng gầy - chủ yếu là do đạp xe và thi thoảng nâng tạ (tạ mười một cân chỗ anh và tạ đôi năm cân chỗ nhà cô). Mái tóc thẳng, thưa của Jon trông khá giống Kathryn, nhưng sẫm hơn màu hạt dẻ một chút, và không có những sợi bạc thi thoảng xuất hiện như cô (nó tình cờ biến mất sau chuyến đi tới Rite-Aid hay Save Mart).

"Nhìn xem, anh mang theo một đống quà Hy Lạp này." Jon đang cầm hai túi lớn từ một cửa hàng Địa Trung Hải ở Pacific Grove.

Hai người hôn nhau và anh theo cô vào bếp.

Jon là giáo sư ở một trường đại học gần đó, anh dạy môn Văn học Khoa học viễn tưởng, và một lớp có tên là Vi tính và Xã hội. Anh mô tả những thứ mình dạy giống như một vài môn học kỹ thuật nhàm chán. "Một chút toán học, một chút kỹ thuật." Anh còn tham mưu cho các công ty ở Thung lũng Silicon. Anh dường như là một thiên tài hiếm có trong thế giới của những chiếc hộp - những cái máy tính. Kathryn biết điều này thông qua báo chí và nhận xét của Wes về kỹ năng của anh trong việc lập trình: sự khiêm tốn được cài đặt trong gen của Jon. Anh viết code như cách mà Richard Wilbur hay Jim Tilley làm thơ. Trôi chảy, thông minh và hấp dẫn.

Họ đã hẹn hò được một thời gian, suốt từ khi cô thuê anh hỗ trợ một vụ liên quan tới máy tính.

Khi dỡ những hộp moussaka, sốt taramasalata, bạch tuộc, và các thức khác, anh để ý thấy cánh tay của cô. "Chuyện gì đã xảy ra ở đó thế?."

Cô cau mày và nhìn theo mắt anh. "Ồ." Mặt kính chiếc đồng hồ của cô đã bị vỡ. "Là vụ Serrano đó." Cô giải thích về cuộc rượt đuổi ở Cục Điều tra, khi tên đó tẩu thoát sau buổi thẩm vấn.

"Em không sao chứ?" Đôi mắt dịu dàng của anh nheo lại.

"Không có gì nguy hiểm cả. Chỉ là em có cú ngã không được êm ái lắm thôi."

Cô nhăn mặt khi kiểm tra mặt kính đã bị vỡ. Chiếc đồng hồ này là quà Giáng sinh từ những người bạn ở New York, Lincoln Rhyme - một nhà tội phạm học lừng danh và cộng sự của anh, Amelia Sachs. Cách đây mấy năm, cô có giúp họ trong một vụ có liên quan tới tội phạm cho thuê có tầm cỡ được biết tới với cái tên Thợ Đồng Hồ. Cô tháo chiếc dây da màu xanh đậm và đặt chiếc đồng hồ bị hỏng lên bệ lò sưởi. Cô sẽ mang nó đi sửa sớm.

Jon gọi, "Mags ơi?."

Kathryn thấy cô con gái nhảy lên và chạy tới chỗ cửa ra vào. Cô bé nhăn trán lại. Rồi gọi, "Geia!."

Jon gật đầu, "Kalos!."

Kathryn cười lớn.

Anh nói, "Anh đã nghĩ chúng ta nên học một ít tiếng Hy Lạp để tôn vinh bữa tối nay. Wes đâu rồi?."

"Đang chơi ngoài hiên với Donnie."

Jon nhiều khi cũng kiêm luôn việc trông nom bọn trẻ; khối lượng công việc dạy học của anh cũng không nhiều, và công việc cố vấn thì anh có thể làm ở bất kỳ đâu. Anh biết rõ thời khóa biểu của bọn trẻ và bạn bè của chúng như Kathryn. "Donnie có vẻ ngoan. Hơn Wes một tuổi nhỉ?."

"Vâng, mười ba tuổi."

"Có một lần bố mẹ cậu bé tới đón. Người mẹ dễ mến lắm. Ông bố thì không nói gì nhiều." Jon cau mày. "Anh tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Rashiv? Nó với Wes từng rất thân thiết với nhau một thời gian. Thằng nhóc đấy thông minh lắm. Môn toán ấy."

"Chẳng biết nữa. Bọn trẻ nó hay thay đổi." Kathryn vẫn luôn nghĩ Wes già dặn hơn tuổi, và gần đây thằng bé có xu hướng thích gần Donnie và những người lớn tuổi hơn. Cô nhớ là Rashiv nhỏ hơn Wes một tuổi. Maggie thì vốn thích chơi một mình, dạo gần đây đã bắt đầu chơi cùng một nhóm có bốn bé gái cùng lớp (và Kathryn còn bất ngờ hơn khi biết rằng, bốn cô bé đó khá nổi tiếng, hai đứa là thí sinh dự thi Hoa hậu Mỹ, một đứa sẽ là một hoạt náo viên tương lai).

Jon rót rượu và chuyển những chiếc ly cho người lớn.

Chuông cửa vang lên.

"Con sẽ mở cửa!" Maggie chạy về phía trước.

"Chờ chút, Mags." Jon biết rằng Kathryn hiện đang dính vào mấy vụ tiềm tàng nhiều nguy cơ, và nhanh chóng bước ra cổng cùng con bé. Anh nhìn ra, sau đó để Maggie mở cửa.

Khách mời là những người bạn thân thiết của gia đình. Steven Cahill, chạc tuổi Jon, đang mặc một chiếc áo poncho. Anh ta có mái tóc đuôi ngựa muối tiêu và gần đây còn để râu kiểu David Crosby. Đứng bên cạnh là Martine Christensen. Mặc dù có tên như thế, nhưng cô không hề mang trong mình dòng máu Scandianavian. Cô có nước da ngăm đen và trông khêu gợi, thừa hưởng một phần từ những cư dân nguyên thủy của vùng này: Ohlone Indian, tộc người sống rải rác nhờ săn bắt và hái lượm ở dọc ven vùng duyên hải từ bờ biển Big Sur tới Vịnh San Francisco.

Steven và bọn trẻ của Martine, hai cậu bé sinh đôi nhỏ hơn Maggie một tuổi, theo họ đi lên phía cửa trước, một đứa mang theo hộp đàn ghi-ta của mẹ mình, đứa kia xách theo một mẻ bánh brownie. Maggie dẫn hai cậu bé sinh đôi và hai chú chó ra sân sau, bên dưới hiên. Kathryn mỉm cười, để ý thấy cô bé đã chạy tót sang bên cạnh anh trai mình, chẳng quan tâm trò chơi dành cho con trai có vấn đề gì. Cô bé bị mấy anh phớt lờ.

Mấy đứa nhỏ tuổi hơn cùng những người bạn bốn chân đã tự tạo ra một trò chơi ngẫu hứng và hỗn loạn với đĩa bay.

Người lớn thì tụ tập quanh chiếc bàn ngoài trời trên hiên nhà.

Đây chính là khu sinh hoạt chung của ngôi nhà - quả thực vậy, về cuộc sống của nhiều người mà Kathryn biết, gia đình và bạn bè. Trên diện tích gần sáu mét vuông, trải rộng từ bếp tới sân sau là những chiếc ghế dùng ngoài trời, ghế dài và vài cái bàn khác kiểu nhau. Những chiếc đèn trang trí Giáng sinh, những quả cầu màu hổ phách, đèn trên cao, một chậu rửa và một chiếc tủ lạnh lớn là các món đồ trang trí chính. Cũng có một số chậu cây cảnh, nhưng ít hoa. Phía dưới, trong khu sân sau, có thể tìm thấy những cây bụi họ sồi và cây phong, bãi cỏ, hoa mặt khỉ, cây cúc tây, hoa đậu cánh chim, dây leo khoai tây và cỏ ba lá. Có một vài cây rau xanh cố gắng sinh tồn nhưng bị lũ sên tàn phá không xót thương.

Chỗ hiên này từng tổ chức hàng trăm bữa tiệc lớn nhỏ, những bữa ăn gia đình êm ấm hay những đêm ngồi nhâm nhi tách cacao, chỉ có bốn người họ. Rồi, gần đây thì chỉ có ba người. Chồng cô đã cầu hôn cô ở đó, và gần như tại chính địa điểm ấy Kathryn đã đọc lời điếu văn cho anh.

Tối nay trời khá lạnh và ẩm, vì vậy Kathryn bật máy sưởi chạy bằng propan lên, chiếc máy làm bầu không khí trở nên ấm cúng.

Người lớn ngồi quanh bàn uống rượu, nước ép hay nước lọc và trò chuyện về... mọi thứ. Đó chính là điểm tốt của cái sân hiên này. Mọi chủ đề đều có thể được nói đến và tranh luận. Và chính tại đây, tất cả mọi thứ liên quan tới các vấn đề của thành phố, bang, đất nước và thế giới được giải quyết, bàn đi bàn lại.

Martine hạ giọng hỏi, "Mọi người đã nghe về vụ quán bar Solitude Creek chưa?."

"Tớ đang lo vụ đó," Kathryn nói.

"Không phải chứ!"

"Katie," bố cô lên tiếng, "cẩn thận nhé." Như những ông bố bà mẹ thường làm.

Steven nói, "Công ty đó rồi sẽ phá sản, công ty vận tải ấy. Và người tài xế, anh ta cần phải bị ngồi tù, cô có nghĩ thế không?."

Kathryn nói, "Vẫn chưa phải lúc để công bố. Nên đừng nói gì cả." Cô không bận tâm chờ đợi sự gật đầu tán thành của mọi người. "Đó không phải là lỗi của người tài xế. Và đó cũng không phải một vụ tai nạn đơn thuần."

"Nghĩa là sao?" Martine hỏi.

"Chúng tôi vẫn đang điều tra, nhưng có ai đó đã leo lên chiếc xe tải và lái nó rồi dừng chắn các cửa, sau đó châm lửa gần đó để làm mọi người hoảng loạn." Liếc nhìn bọn trẻ để chắc chắn rằng chúng không nghe thấy. "Và mọi người đã bị hoảng. Người bị thương, người chết là do họ bị giẫm đạp lên nhau và bị ngạt thở. Máu vương vãi khắp nơi."

"Động cơ gây án là gì?" Jon hỏi.

"Đó vẫn là điều bí ẩn. Chỉ cần biết được động cơ là bọn em có thể truy tìm kẻ tình nghi. Nhưng hiện tại thì chưa có tiến triển."

"Trả thù chăng?" Steven suy đoán.

"Luôn là một giả thiết cần phải cân nhắc. Nhưng không có vị khách hay nhân viên hoặc đối thủ nào nổi bật."

Martine nói, "Tôi mắc chứng sợ không gian hẹp. Tôi không thể tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra nếu bị kẹt trong đám đông đó."

Ông Stuart Dance dùng tay vuốt mái tóc rối của mình. "Ta không biết là từng nói với con chưa, Katie, nhưng ta đã từng có lần chứng kiến một sự hỗn loạn như thế. Con người. Ý ta là. Nó thật khủng khiếp."

"Gì cơ ạ?"

"Chắc là con đã nghe về nó. Hillsborough, ở Sheffield, nước Anh? Hai mươi lăm năm trước. Ta vẫn còn gặp những cơn ác mộng. Mọi người có muốn nghe về nó không?"

Kathryn thấy bọn trẻ vẫn không nghe thấy gì. "Bố kể đi ạ.