← Quay lại trang sách

Chương 21

Kathryn Dance bước vào "Gal's Wing" hay GW.

Khu vực này thuộc Phân khu Trung Tây của Cục, nơi hoàn toàn ngẫu nhiên có bốn người phụ nữ làm việc ở đó: Kathryn, Connie Ramirez, đặc vụ CBI diêm dúa nhất trong văn phòng này, Grace Yuan, phụ trách hành chính văn phòng, và Maryellen Kresbach.

Tên của khu vực này do một đặc vụ nam đặt, khi người này cố gắng gây ấn tượng với một đối tượng hẹn hò và khoe mẽ về nơi làm việc của mình nên đã đưa ra liên tưởng như thế. Anh ta giờ đã bị đá ra khỏi CBI, không nghĩ rằng có lẽ sự phá hoại lặp lại của văn phòng anh ta, bao gồm cả với những sản phẩm vệ sinh phụ nữ đã góp phần gây ra chuyện đó.

Trớ trêu thay, những người phụ nữ ở đây đã nhất trí giữ lại cái tên này. Một niềm tự hào.

Đồng thời là một lời cảnh báo.

Cô nhận tách cà phê mà Maryellen đưa, cảm ơn cô ấy và thò tay lấy một trong những chiếc bánh quy ngon tuyệt của người phụ nữ này, rồi đi thẳng vào phòng mình.

"Đôi dép đẹp đấy. Được. Xuất sắc." Maryellen đang nhìn vào đôi xăng-đan bằng da màu nâu hiệu Stuart Weitzman Filigree của Kathryn (và cô tự hào nói rằng đã mua được nó chưa tới nửa tiền). Đôi dép hợp với chiếc váy lanh dài màu cà phê của cô. Chiếc áo len hôm nay cô mặc có viền trắng, khoác ngoài là chiếc áo thể thao màu đen. Sự nhượng bộ hôm nay về màu sắc là chiếc dây màu sáng mà Maggie đã cột vào đuôi tóc tết của mẹ mình. Màu đỏ.

Cô nhận lời khen này - Maryellen là một người phụ nữ biết được những đôi giày nào độc khi nhìn thấy chúng.

Trong phòng của mình, Kathryn ngồi phịch xuống ghế, nghĩ rằng cô nhẽ ra phải chế ngự được tiếng cọt kẹt của nó, nhưng rồi, như mọi lần, cô đều quên.

Cô vừa trở về từ cụm rạp Marina Hills Cineplex, nơi vừa có phát hiện về một người đàn ông bị tình nghi là hung thủ của vụ quán Solitude Creek. Quản lý của rạp chiếu phim đã nhìn thấy một người mặc bộ quần áo giống như theo mô tả của nhân chứng, với cùng vóc dáng như thế. Đối tượng thấy mình bị phát hiện nên đã bỏ chạy, gần như khẳng định rằng hắn chính là thủ phạm.

Kathryn cùng vài người đã tiến hành một cuộc thăm dò, nhưng không có thêm nhân chứng nào khác nhìn thấy hắn ta. Không xe và không có thêm mô tả nào. Cô cảm thấy khó chịu khi biết rằng một trong những chiếc xe cảnh sát tìm kiếm kẻ tình nghi đã đỗ ngay trước rạp chiếu phim; cô phân vân liệu có phải vì Steve Foster "vô tình" để lộ thông tin về thủ phạm, và người quản lý rạp phim đã đánh động, khiến hắn tẩu thoát trước khi cảnh sát kịp nhìn thấy.

Thi thoảng, cô cho rằng, những lỗi lầm và sự bất cẩn của đồng nghiệp - cũng như của chính bản thân - cũng có thể trở thành kẻ thù giống như tên tội phạm mà mình đang săn lùng vậy.

Dĩ nhiên, sự bỏ lỡ này cũng đủ bực bội rồi. Nhưng rắc rối lớn hơn chính là hắn rõ ràng đã lên kế hoạch cho một cuộc tấn công khác. Không như lời của Steve số Một rằng hắn đã cao chạy xa bay rồi. Có lẽ giờ đây khi biết mình đã bị phát hiện, hắn sẽ chạy trốn khỏi khu này. Chắc chắn là hắn sẽ thay đổi ngoại hình hoặc ít nhất cũng bỏ đi bộ quần áo. Nhưng liệu hắn có định tấn công lần nữa không? Cô gửi thêm một biên bản ghi nhớ cho tất cả cảnh sát địa phương để cảnh báo các quản lý của những địa điểm mà cô xác định rằng đối tượng tình nghi đã chủ định cho cuộc tấn công lần hai.

Khi cô đang với điện thoại gọi cho Michael O'Neil, thì TJ Scanlon bước vào. Cậu ta mặc một chiếc áo thun mang tên Beck (không phải kiểu áo Grateful Dead như bạn nghĩ đâu), kết hợp với quần bò và khoác ngoài một chiếc áo thể thao kẻ sọc. Đó là kỷ nguyên Mùa hè của Tình yêu 1 bắt nguồn từ những năm sáu mươi; TJ chất đầy những hiện vật phản văn hóa thuộc về một kỷ nguyên và lối sống đã kết thúc rất lâu trước khi cậu ta chào đời trong căn nhà theo phong cách hippie của mình ở Carmel Valley.

Cậu ta ngồi xuống ghế đối diện cô.

"Ôi, ôi sếp. Ôi trông có vẻ nghiêm trọng vậy. Có chuyện gì xảy ra sao?"

"Cậu chưa nghe tin gì à? Người bạn từ Sacramento của chúng ta đã để lộ thông tin nhận diện về kẻ tình nghi."

"Ôi không. Steve Foster sao?"

"Phải." Cô đáp, "Và có người đã nhìn thấy hắn."

"Tin tốt đấy chứ, nhưng nhìn biểu cảm của cô như vậy thì tôi đoán là không hay rồi."

"Hắn đã biết mình bị phát hiện và biến mất."

"Chết tiệt. Vậy hắn đã rời thành phố."

"Hoặc biến thành một nghệ sĩ hóa trang - ai biết được? Giày đế bệt. Nhuộm tóc. Quần áo mới. Và," cô nói thêm một cách dứt khoát, "có thể hắn vẫn đang tiếp tục nhắm vào một nơi nào đó. Ngay lúc này. Trước khi chúng ta có thể tập hợp lại."

Cô nói với TJ về rạp chiếu phim, là nơi mà rõ ràng tên đó đang lên kế hoạch cho một vụ tấn công mới.

TJ gật gù. "Theo đúng gu của hắn. Cụm rạp đông đúc."

Kathryn liếc thấy tập tài liệu trong tay cậu ta.

TJ nói, "Có thể có thứ gì đó có ích. Tôi đã lần theo được cô bé đó. Trish."

Kathryn đã giao nhiệm vụ cho cậu ta tìm hiểu về cô bé mà cô gặp ở hiện trường vụ án Solitude Creek.

"Michelle Cooper - người mẹ đã qua đời. Con gái là Trish Martin. Lấy theo họ bố của cô bé."

Giống như họ của Maggie và Wes là Swenson.

"Cô bé mười bảy tuổi. Không có số điện thoại của cô bé nhưng đây là số điện thoại nhà của người mẹ." TJ nói thêm, "Địa chỉ ở đường Seventeen Mile Drive."

Kathryn có thể hình dung ra câu chuyện về gia đình này. Người chồng lừa dối vợ, bị vợ phát hiện, anh ta chi trả mọi khoản chi phí cho ngôi nhà nằm ở khu phố sang chảnh nhất bãi biển Pebble. "Cậu có địa chỉ và số điện thoại của ông bố không? Quý ông Thân thiện. Cô bé có lẽ đang ở cùng anh ta, tôi đoán thế."

"Rất tiếc, tôi chưa có được. Cần tôi điều tra không?"

"Tôi sẽ thử số của mẹ cô bé trước."

Mặc dù sẽ chẳng có bất cứ cuộc nói chuyện nào.

"A lô?" Một giọng đàn ông nghe máy. Cô khựng lại. Chết tiệt, cô biết đó là ai.

"Làm ơn cho tôi gặp Trish Martin."

"Ai vậy?"

Không may là cô phải chơi trò chơi này một cách thành thật rồi. "Đặc vụ Kathryn Dance, của Cục Điều tra California. Đó có phải anh Martin? Tôi..."

"Phải, tôi đã gặp cô. Tôi vẫn nhớ. Làm sao cô biết tôi ở đây?"

Một câu hỏi kỳ quặc.

"Tôi không biết. Tôi đang gọi để gặp Trish. Việc này rất quan trọng. Tôi hy vọng..."

"Tại sao?"

"Có tiến triển trong quá trình điều tra. Những cánh cửa ở quán Solitude Creek đã bị chặn lại một cách có chủ ý. Cái chết của vợ anh và cả những người khác, họ bị giết, không phải là tai nạn."

Im lặng. "Tôi có nghe nói. Nó ở trên bản tin. Họ đang tìm kiếm một gã nào đó. Một tay công nhân hay gì đó."

"Đúng vậy. Và chúng tôi đang điều tra xem liệu có ai từng nhìn thấy hắn không. Con gái anh có vẻ thông minh và có trí nhớ tốt. Tôi hy vọng."

"Con bé quá buồn rồi."

"Tôi hiểu thời gian này với cô bé là rất khó khăn, và với cả gia đình anh nữa. Nhưng việc biết được chính xác điều gì đã xảy ra ở đó là rất quan trọng."

"Ồ, vậy cô sẽ phải thực hiện việc đó mà không có con gái tôi." Có một tiếng nói gần đó. Anh ta nói vọng ra từ điện thoại, "Không có gì cả. Tiếp tục đi, con yêu."

Đó hẳn là Trish. Cô bé sẽ chuyển qua ở cùng bố mình, Kathryn đoán vậy. Có thể cô bé đang đóng gói đồ.

"Anh Martin, chuyên môn của tôi là thẩm vấn mọi người. Tôi đã từng trò chuyện với hàng trăm thanh thiếu niên, thường trong các tình trạng bị chấn thương. Tôi hứa với anh là sẽ thận trọng với những suy nghĩ của Trish. Tôi..."

Anh ta gằn giọng. "Nếu cô còn gọi cho chúng tôi nữa, tôi sẽ yêu cầu lệnh cấm cô."

Kathryn đáp, "Hừm, anh Martin, thực sự thì không hề có cơ chế nào để làm thế cả. Sao chúng ta không lùi lại một bước và.."

Anh ta dập máy.

Kathryn phân vân liệu có phải một trong những tiền đề của việc ly hôn là sự tàn nhẫn về tinh thần của anh ta đối với người vợ cũ, bên cạnh việc lừa dối cô ấy.

Cô gác điện thoại. TJ nhìn cô. "Gạch cô bé ra khỏi danh sách đi. Có lẽ cô bé không biết gì cả. Nhưng.."

"Cô ghét những thứ khó chịu, sếp ạ."

Đúng thế. Cô rất ghét.

"Có thứ gì hữu ích trong khi thăm dò không?"

TJ đã nói chuyện với những người có mặt ở quán bar, sàng lọc tỉ mỉ những gì thu thập được, những động cơ và nghi phạm tiềm năng. "Không có thêm gì về sự trả thù của những nhân viên hoặc những vị khách bất mãn. Tôi nghĩ mình sẽ kiểm tra xem liệu có động cơ nào liên quan tới việc đả thương thành viên trong ban nhạc, hay phá hủy sự nghiệp."

"Ý kiến hay." Kathryn đã không nghĩ tới điều đó.

"Nhưng tôi không cho là vậy. Hiện nay, thị trường âm nhạc vẫn còn yếu ớt - việc giết một ai đó để có đà tiến không mang lại nhiều kết quả cho lắm. Này sếp, tôi đang phân vân. Có phải 'cằn nhằn' cũng có nghĩ là đang vui không?"

Cô lục lọi trong ngăn kéo và tìm thấy một chiếc đồng hồ Timex cũ, chạy bằng pin. Cô đeo nó vào và liếc nhìn thời gian. Rồi hạ giọng. "Còn vụ Serrano sao rồi?."

TJ đáp, "Khoảng một giờ nữa. Nó được thiết lập. Tôi vừa nói chuyện với Al Stemple xong."

Al Stemple là người giống với một tay cao bồi nhất ở CBI: cao lớn, trầm tính và khá đáng sợ. Thực ra, giống với một John Wayne hơn. Là một đặc vụ điều tra, anh ta chuyên về những tình huống mang tính chiến thuật. Với bản chất không ổn định của vụ Serrano, tốt nhất nên có một người mạnh mẽ của CBI tham gia vào.

TJ đứng lên và rời đi. Cô chắc chắn rằng lúc cậu ta đứng dậy, cô đã ngửi thấy một mùi dầu thơm dùng sau khi cạo râu hoặc mùi nước hoa.

Phảng phất...

Vài phút sau Kathryn vô tình nhìn ra cửa thì Michael O'Neil xuất hiện. Anh mặc một chiếc áo khoác thể thao kẻ sọc tối màu, cùng áo thun màu xanh lính thủy và quần bò. Kathryn tin rằng từ sau khi ly dị trang phục của anh trông khá khẩm hơn nhiều so với lúc còn sống cùng Anne, người không hẳn là mẫu nữ hoàng nội trợ. Nhưng điều này cũng có thể là trí tưởng tượng của cô mà thôi.

"Vừa gặp TJ. Cậu ta nói là mấy cuộc thăm dò chẳng thu được gì à?"

"Không. Bọn em vừa nói chuyện về bảy, tám người đầu trong danh sách những người có mặt ở quán bar. Không ai trong số họ nhìn thấy đối tượng có vẻ khả nghi cả." Cô nói với Michael rằng TJ cũng đã điều tra theo hướng những nghệ sĩ đố kỵ.

"Được đấy."

"Nhưng chẳng có gì." Cô quay sang hỏi anh, "Có gì tiến triển chỗ rạp chiếu phim không?"

"Không có. Thăm dò toàn bộ, xem lại các băng ghi hình an ninh. Không thấy chiếc xe nào. Chả có thêm manh mối gì. Thế còn chuyện kia thì sao? Công bố mô tả nhận dạng về kẻ tình nghi của chúng ta? Là Charles làm sao?"

Kathryn thở hắt ra. "Là từ Steve Foster. Ông ta phe mình - CBI - ở Sacramento. Ông ta thanh minh rằng đó là một sự cố. Đổ lỗi cho, theo lời ông ta thì, 'ai đó' ở văn phòng của ông ta. Nhưng ông ta đã để lộ nó. Trò chơi quyền lực, em chắc chắn thế."

"Trời ạ."

"Đó không phải là vụ của ông ta. Ông ta không cần quan tâm."

"Em có nghĩ là hắn sẽ lẩn nhanh như thỏ?"

"Nếu là em, em sẽ biến mất," cô nói. "Nhưng là em thì đã không xảy ra cuộc giẫm đạp giết hại ba người. Em không biết điều gì thúc đẩy hắn làm như vậy. Giờ này thì hắn có thể ở Missouri hoặc Washington. Hắn có lẽ đang chuẩn bị tấn công thủy cung."

Michael gật gù và lấy ra từ cặp mình một tập tài liệu màu vàng nhạt có một miếng kẹp bằng kim loại ở trên. Bên trong là một tá giấy tờ. "Đội Khám nghiệm Hiện trường. Họ đã làm việc không ngừng nghỉ. Không có gì ngạc nhiên - tên thủ phạm của chúng ta khá đấy. Hắn có đeo găng tay vải."

Găng tay cao su giúp kẻ phạm tội không để lại dấu vân tay trên những gì hắn chạm vào ở hiện trường, nhưng dấu vân tay của hắn lại lưu lại trong chính chiếc găng tay đó. Những tên tội phạm bất cẩn thường vứt chúng đi mà không để ý đến điều này. Tuy nhiên, găng tay vải thì không chuyển hay lưu lại dấu vân tay.

Michael nói tiếp, "Có những dấu vân tay trên chìa khóa chiếc xe tải Peterbilt, nhưng đều là của người quản lý và tài xế. Chiếc hộp đựng chìa khóa cũng thế. Không có dấu chân. Không có gì trong thùng phi, cùng với lửa, mà có thể hữu ích về mặt pháp y."

Kathryn nói, "Em nghĩ là để lái chiếc xe tải to như thế không phải dễ. Chúng ta có thể dựa vào đó để thu hẹp phạm vi không? Tìm kiếm những ai đã tham gia khóa học lái xe gần đây thì sao?."

"Anh cũng đã nghĩ đến điều đó. Nhưng sau khi kiểm tra trên mạng thì chỉ mất khoảng ba mươi phút để học lái một chiếc xe, kể cả khi em chưa kinh nghiệm gì. Có lẽ không thể phụ lái hoặc lái một chiếc xe có chứa đầy hàng mà không thực hành, nhưng về cơ bản thì hắn chỉ phải lái xe thẳng từ ngọn đồi xuống tới quán bar."

Internet... Nơi bạn có thể học mọi thứ từ việc chế tạo bom tới làm một chiếc bánh để ăn mừng sau khi bạn cho nổ tung mục tiêu đã đặt ra.

Michael nhìn vào tập tài liệu của mình. "Không có băng ghi hình ở khu vực này. Nhánh sông Solitude quá nông cho tàu thuyền hoạt động, nhưng dù sao anh cũng hỏi những ngư dân ở đó. Không thu thập được manh mối gì, cũng không có chiếc thuyền hay ca nô nào bị đánh cắp." Michael có cùng suy nghĩ như Kathryn.

Điện thoại của Kathryn rung lên: một tin nhắn từ TJ. về vụ Serrano. Cô nhắn lại, "KK." Đó là cách nhắn tin mới, ý là "đã hiểu và đồng ý." Một chữ K không thôi thì không đủ. Cô học được cách nhắn tin này từ con trai mình, Wes. Cô nói điều này với Michael. Anh gật đầu. "Bọn trẻ nhà anh còn rất hay nói 'Amen'. Em có để ý thấy thế không?."

"Em biết từ 'nhà thờ'. Khi dùng để nói: 'Nó đúng đấy'. Còn cả 'Đó là vấn đề.'"

"'Vấn đề'?"

Kathryn định nói với Michael về việc lần đầu tiên cô nghe Maggie nói chuyện với bạn của con bé là Bethany trên điện thoại rằng, "Đúng thế, mẹ mình và chú Jon, giống như là có vấn đề đấy." Thay vào đó cô nói: "Em nghĩ đó là một hiện tượng. Còn hơn cả thế. Đầy ý nghĩa."

Cô phân vân liệu Michael có hiểu được sự ngần ngại và giải thích quá mức này không.

Michael đáp, "'Thứ còn tốt hơn 'hiện tượng'. Anh lo rằng bọn trẻ nhà anh cũng dùng những từ đó rồi."

Kathryn cười lớn.

Michael không phải là một người hay nói nhảm. Đối với anh, đây là kiểu huyên thuyên.

Kathryn nhìn xuống tập tài liệu của đội hiện trường vụ án. Cô nói, "Ôi, em phải nói điều này: Rất tiếc, nhưng chúng ta phải hủy buổi đi câu cá."

Michael mê mệt chiếc thuyền của anh. Ít nhất một lần một tuần, anh sẽ làm một chuyến chèo thuyền ra vịnh Monterey. Anh thường đưa bọn trẻ nhà anh và nhà Kathryn đi cùng. Bản thân cô cũng đã đi vài lần, nhưng tai trong của cô và sóng biển lại là những kẻ đồng phạm tồi tệ. Khi thuốc chống say và miếng dán không có tác dụng, cô sẽ bị say sóng và trở nên khó chịu với mọi thứ. Và chuyến đi sẽ bị rút ngắn lại. Cuối tuần trước họ đã bàn về việc sẽ dành một ngày ra vịnh, nhưng trước khi các kế hoạch được chốt thì cô và Jon đã quyết định đưa bọn trẻ tới San Francisco. Kathryn vẫn chưa nói cho Michael biết lý do họ hủy bỏ buổi đi câu. Cô nghĩ là anh đã đoán được. Nhưng anh không hỏi.

Họ nói chuyện một lúc về bọn trẻ, các kế hoạch cho kỳ nghỉ xuân. Kathryn nói về buổi biểu diễn năng khiếu sắp tới ở trường của Maggie nữa.

"Con bé sẽ chơi đàn vi-ô-lông à?"

Nhạc cụ của Maggie. Cô bé có năng khiếu âm nhạc hơn mẹ mình, người chỉ thoải mái với cây ghi-ta nhưng lại không có đôi tai sành về phím đàn tẹo nào. Kathryn trả lời, "Không, con bé sẽ hát."

Michael đáp, "Con bé có một giọng hát hay. Anh còn nhớ lần đưa chúng đi xem The Lego Movie. Bài hát đó là gì nhỉ? Everything is Awesome thì phải? Con bé đã hát suốt trên đường về nhà. Và thế là, anh cũng thuộc lời bài này luôn. Một lúc nào đó, anh sẽ hát cho em nghe."

"Con bé cũng hát bài trong phim Frozen suốt."

"Bài Let It Go. Anh cũng biết bài hát đó." Việc là một ông bố hay bà mẹ đơn thân với quyền nuôi con có thể làm giảm bớt sự căng thẳng, ngay cả đối với những thanh tra điều tra tội phạm cứng rắn nhất. Rồi Michael hỏi Kathryn: "Có chuyện gì không ổn sao?."

Kathryn thấy mình đang cau mày. "Con bé không thoải mái với buổi biểu diễn năng khiếu này. Bình thường thì anh không thể bảo con bé ngừng lên sân khấu được, nhưng lần này con bé lại không thích."

"Con bé từng hát trước đám đông bao giờ chưa?"

"Có. Hàng tá lần rồi. Và giọng con bé chưa bao giờ tốt hơn thế. Em định cho con bé bắt đầu học bài bản nhưng đột nhiên con bé quyết định không muốn. Thật buồn cười. Anh cũng biết là tâm trạng của bọn trẻ hay thay đổi mà. Có một thời gian Wes bị trầm cảm, còn Maggie lúc nào cũng lảng vảng xung quanh như Bella. Thật vui. Và giờ mọi thứ ngược lại." Cô giải thích rằng đó có thể là một rối loạn sau sang chấn đối với cái chết của chồng cô.

Michael nói một cách nhẹ nhàng, "Anh nhớ là Bill đã mất vào khoảng thời gian này."

Michael thân với Bill Swenson, hai người họ thỉnh thoảng làm việc cùng nhau.

"Em mới nghĩ về điều đó. Nhưng khi bọn trẻ muốn tạo một bức tường ngăn..

Với kinh nghiệm của người có con bằng tuổi Maggie, Michael nói, "Anh không biết. Nhưng - hãy kiên trì."

Kathryn gật đầu. "Vậy, Chủ nhật, lúc bảy giờ? Anh và bọn trẻ muốn tới không?" Cô lục túi mình. "Hừm. Có cả đống tờ rơi trong xe về buổi diễn của con bé. Em nhớ là mình có một tờ trong đây." Cô đóng chiếc túi Coach lại.

"Anh có thể báo em sau không? Bọn anh có một vài dự định. Mang theo một người bạn được không?"

"Dĩ nhiên là được chứ."

Anh đang hẹn hò? Cô phân vân. Cũng khá lâu rồi họ không nói chuyện xã giao với nhau, ừ thì, nói chuyện thân mật. Tại sao anh lại không thể hẹn hò với ai đó? Anh đã ly dị được một thời gian. Anh có khuôn mặt ưa nhìn, thân hình chuẩn, có công việc ổn định. Anh vui tính, tốt bụng... và có hai đứa trẻ dễ thương, mà cô vợ cũ ở San Francisco, thì ít quan tâm.

Mẹ của Kathryn gọi anh là "Người bắt," bởi vì anh thích câu cá... và vì chính anh cũng thế.

Cô liếc nhìn chiếc đồng hồ Timex. "Giờ em phải tới hiện trường rồi."

"Vụ của chúng ta?"

"Không. Là vụ khác."

Anh thở dài, nhìn vào bên hông cô nơi nhẽ ra phải có súng ở đó. "Anh sẽ đi cùng em."

"Không phải lần này. Không sao đâu. Em có hỗ trợ mà. Em phải xử lý nó theo một cách đặc biệt. Đây là một chuyện khó." Cô suýt định nói, "Đó là một vấn đề," nhưng từ vẻ lo lắng của Michael, cô biết anh sẽ không hưởng ứng sự hài hước này.

1 Summer of Love: Hiện tượng xã hội xảy ra vào mùa hè năm 1967, có khoảng 100.000 người, chủ yếu là các thanh niên, trong trang phục của dân hippie, cùng đổ về khu Haight Ashbury, San Francisco.