← Quay lại trang sách

Chương 76

Họ đang lái dọc Cao tốc số Một, Michael ngồi sau ghế lái chiếc xe tuần tra của anh, Kathryn ngồi ở ghế phụ. Ỏ ghế sau là Albert Stemple và kẻ tình nghi thú tội, Nghị sĩ Daniel Nashima.

Đây là điều kiện để ông ta thú nhận: đưa ông ta tới hiện trường vụ án, nơi ông ta sẽ nói với Kathryn mọi thứ mà cô muốn biết.

Ông ta không phải đang bị bắt giữ, vì thế không có còng tay, nhưng ông ta đã được khám người xem có vũ khí hay không. Điều đó khiến ông ta thích thú.

Người đàn ông này ngồi ngay ngắn, im lặng, nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ quan sát cảnh vật ngang qua - những cánh đồng nông nghiệp trồng rau mầm của Bỉ và cây a-ti- sô ở bên phải; sang phía tây, bên bờ biển, là những doanh nghiệp nhỏ (quầy lưu niệm và quán ăn) và những bến du thuyền, ngày càng thu nhỏ lại khi họ đi lên phía bắc.

Cuối cùng, họ rẽ khỏi đường cao tốc và vào đường dẫn tới bãi đỗ xe; quán bar ven đường đóng cửa. Công ty vận tải đang hoạt động nhưng Kathryn phân vân rằng họ còn trụ được bao lâu nữa: cô nhớ lại câu chuyện trên bản tin về khả năng phá sản của công ty này.

Michael định dừng lại nhưng ông Nashima bảo anh lái tới cuối bãi đậu xe, cách không xa chỗ Kathryn tìm thấy con đường mòn dẫn tới chỗ tìm ra nhân chứng trong ngôi nhà lưu động, Annette, người nghiện thuốc lá và âm nhạc.

"Hãy cùng đi bộ đi," ông Nashima nói.

Kathryn và Michael nhìn nhau khi họ cùng bước ra khỏi xe và theo sau ông Nashima khi ông ta bắt đầu đi dọc theo con đường mòn. Albert lê bước theo, giày cao cổ tạo ra tiếng ồn trên mặt đường nhựa. Cả anh ta và Michael đều để tay gần vũ khí của họ. Nghi phạm, được trang bị vũ khí, ít nhất phải là một khẩu súng lục chín mi li mét, dĩ nhiên vẫn còn đang tự do.

Liệu hắn có nhắm vào cụm nhà dân không? Và tại sao hắn dường như không quan tâm tới chính quán rượu này?

Tôi sẽ thú nhận...

Tuy nhiên, ông ta không đi trên con đường mòn đó quá xa, trước khi ông ta rẽ trái và đi tới nhánh sông Solitude, qua đám cỏ và quanh đống đổ nát mà cô đã thấy trước đó, tàn dư của những nền bê tông, hàng rào, tường và những cái cột. Khi họ tới gần dòng nước, cô thấy một hàng rào thép rỉ ngăn cách họ với con lạch lấp lánh nước.

Ông ta quay lại với họ. "Khi tôi nói rằng tôi không biết việc tay luật sư đưa ra đề xuất đó, đó là bởi vì một niềm tin mù quáng."

"Chúng tôi biết điều đó," Kathryn nói.

"Tôi đặt tất cả tài sản của mình vào nó khi tôi nhậm chức. Barrett điều khiển mọi thứ với vai trò người được ủy thác. Nhưng anh ta biết những chiến lược kế hoạch và đầu tư của tôi. Và khi anh ta nghe về quán bar này, tôi tưởng tượng anh ta đã đưa ra một đề nghị bởi vì anh ta biết tôi quan tâm tới khối tài sản ở đây."

"Nhưng quỹ uỷ thác đặt ra các chỉ dẫn mà anh ta phải tuân theo trong việc mua bán tài sản và anh ta buộc phải làm theo chúng. Anh ta sẽ mua nó nếu điều kiện là đúng và ngược lại. Tôi không thể nói với anh ta bất cứ điều gì về nó."

Kathryn cảm thấy suy nghĩ A-tới-B-tới-Z của cô có thể kết thúc ngắn gọn trong chữ cái thứ hai mươi sáu.

Ngài Nghị sĩ nói, "Nếu cô biết về quỹ ủy thác thì cô sẽ biết về công ty mà nó sở hữu. Công ty LLC ở Nevada."

"Đúng, đang có kế hoạch xây dựng gì đó ở đây."

"Công ty đó cũng sở hữu tất cả mọi thứ ở đây." Ông ta khoát tay. Ông ta dường như đang ám chỉ mọi thứ từ bãi đỗ xe dọc bờ sông Solitude tới hết chỗ mở rộng, nơi mà Kathryn tìm ra Annette.

Ông Nashima nói tiếp, "Công ty mà tôi đang đề cập tới là công ty Kodoku Ogawa Limited. Tiếng Nhật có nghĩa là 'Nhánh sông cô đơn"'. Ông ta im lặng trong giây lát. "Nhưng, tò mò về từ 'cô đơn'. Trong tiếng Nhật, nó còn có nghĩa là sự cô lập, cảnh hoang tàn, sự tách rời. 'Cô đơn' trong tiếng Anh gợi ý điều gì đó tích cực, có tính tái tạo." Ông ta quay lại nhìn họ với ánh mắt đau khổ. "Các bạn đã hiểu được mục đích của Công ty Kodoku Ogawa Limited chưa?."

Không ai trả lời. Albert đang nhìn chằm chằm ra bãi cỏ, khoanh tay.

Ông Nashima đi tới chỗ một hàng rào cũ bên trên là hàng dây thép gai rỉ. Ông ta chạm nó một cách cẩn trọng. "Vào năm 1942, Tổng thống Franklin Roosevelt đã ký sắc lệnh 9066, cho phép các sĩ quan quân đội có quyền trục xuất bất kỳ người nào ra khỏi 'những khu vực quân sự được chỉ định'. Các bạn có biết những khu vực quân sự đó là gì không? Toàn bộ lãnh thổ bang California và phần lớn các bang Oregon, Washington và Arizona. Và ai bị trục xuất? Những người có gốc Nhật."

"Sự giam giữ," Kathryn nói.

Ông Nashima nói khẽ, "Một từ hoa mỹ dành cho cuộc thảm sát." Ông ta nói tiếp, "Gần một trăm hai mươi nghìn người đã bị buộc phải rời khỏi gia đình mình và đưa vào các trại tập trung. Hơn sáu mươi phần trăm là công dân Mỹ. Trong số họ có cả trẻ em, người già, người bị khuyết tật về tâm thần." Ông ta cười cay nghiệt. "Điệp viên? Kẻ phá hoại? Họ trung thành không kém gì những người Mỹ gốc Đức hay người Mỹ gốc Ý. Hay bất cứ người Mỹ nào cũng như thế. Nếu có một nguy cơ như vậy, thì tại sao ở Hawaii, nơi chỉ có một số ít người Nhật bị bao vây, lẽ nào không có gián điệp hay kẻ phá hoại trong số hàng chục nghìn người vẫn được tự do ở đó sao?."

"Và đây là một trong những trại giam đó?"

"Trung tâm Tái định cư Nhánh sông Solitude. Nó trải dài từ đỉnh đó tới tận đường cao tốc. Thật là một nơi tử tế," ông ta nói một cách cay nghiệt. "Mọi người sống trong những phòng giam lớn, được chia thành những buồng giam rộng sáu mét, với những bức tường không được xây cao tới sát trần. Chỉ có cầu tiêu tập thể, không được phân chia theo giới tính. Hầu như không có sự riêng tư nào cả. Trại giam này được bao quanh bởi hàng rào dây thép gai, gồm năm dây bện lại, và có những tháp súng máy, mỗi cái cách nhau khoảng ba mươi mét."

"Chẳng bao giờ có đủ thức ăn - chỉ có cơm và rau, và nếu các tù nhân muốn nhiều hơn thế, họ phải tự kiếm. Nhưng, dĩ nhiên rồi, họ không thế nào cứ đi xuống đường và mua vài con gà, đúng không? Và họ không thể bắt cá ở con lạch này vì họ có thể bơi đi và rạch cổ những người Mỹ sống xung quanh hay truyền tin về kinh độ và vĩ độ của doanh trại Fort Ord 1 tới hàng trăm chiếc tàu ngầm của Nhật ở Vịnh Monterey đang đợi thông tin," ông ta chế giễu.

Ông ta bước nhanh tới một đồi cát đầy lau sậy. "Tôi đã mô phỏng lại nơi mà người thân của tôi đã bị giam giữ." Ông ta nhìn toàn bộ nơi này.

"Chỗ này chính là nơi ông tôi đã chết. Ông ấy bị đột quỵ. Bác sĩ không có ở trại hôm đó. Họ đã phải gọi một người từ Fort Ord. Nhưng phải mất một lúc vì, dĩ nhiên, tên da vàng có thể giả vờ đau tim để trốn thoát, vì thế họ phải tìm vài tên lính có vũ trang để bảo vệ những nhân viên y tế. Ông ấy đã chết trước khi bác sĩ kịp tới nơi."

"Tôi rất tiếc," Michael nói khẽ.

"Ông ấy, cũng như bà tôi, là một nisei - thế hệ thứ hai, được sinh ra ở đây. Bố tôi là một sunsei, đời thứ ba. Họ đều là công dân Mỹ." Ông ta nhìn mọi thứ với đôi mắt hờ hững, lạnh lẽo. "Chúng tôi cần giữ lại ký ức về những gì đã xảy ra ở đây. Tôi luôn muốn xây dựng một bảo tàng để làm điều đó. Ồ chính nơi này, nơi người thân của tôi bị đối xử một cách tàn tệ."

"Biển báo ở cổng vào sẽ viết 'Bảo tàng và Đài tưởng niệm Solitude Creek Kyoseishu yosho'. Nó có nghĩa là Trại tập trung'. Không phải 'trung tâm tái định cư'. Không phải."

Trước khi kết thúc ông ta nói, "Trước khi các người đến gặp thẩm phán để xin lệnh bắt giữ tôi, hãy tra cứu tài liệu về công ty Kodoku. Đó là một tổ chức phi lợi nhuận. Tôi không kiếm một xu nào ở đó. Ồ, còn về việc giết người để mua lại nơi này với giá rẻ ư? Các người sẽ nhìn thấy từ những kế hoạch mà chúng tôi đã nộp đơn xin giấy phép, tôi không cần cái quán bar này. Nếu Sam Cohen bán thì chúng tôi chỉ ủi quán đi để mở rộng bãi đậu xe. Còn không, chúng tôi sẽ mua vài khu gần Cao tốc số Một. Hoặc, nếu ông Sam thích giữ mảnh đất này, ông ta có thể phá hủy tòa nhà và dựng thành một nhà hàng." Ngài Nghị sĩ nghiêng đầu. "Tôi có thể đảm bảo cho ông ta một lượng thực khách lớn nếu ông ta đưa sushi và sashimi vào thực đơn." Ánh mắt ông ta đang lạc vào đám cỏ đang đung đưa, và những gợn sóng trên làn nước đục của nhánh sông Solitude.

"Tôi biết các người đang nghĩ gì: tôi hẳn đã có thể nói với các người điều này ở văn phòng của mình, đúng vậy. Nhưng tôi không nghĩ chúng ta có thể bỏ lỡ cơ hội để nhắc nhở bản thân rằng sự thù ghét vẫn còn. Những gì xảy ra ở đây mới xảy ra bảy mươi năm trước thôi." Một cái hất hàm về hướng những đường viền bê tông dọc nhánh sông Solitude. "Đó chỉ là một phần nhỏ dấu tích của thời gian. Và nhìn xem hiện giờ, trên Bán đảo này. Những tội phạm thù ghét khủng khiếp trong tháng vừa qua. Những giáo đường Do Thái, những nhà thờ của người da đen."

Ông ta lắc đầu và quay lại hướng bãi đậu xe. "Chúng ta chưa học được gì cả, và đôi khi, tôi ngờ rằng, chúng ta sẽ chẳng bao giờ học được gì."

1 Fort Ord: từng là căn cứ của Quân đội Mỹ ở Vịnh Monterey của bờ biển Thái Bình Dương ở California.