- 6 -
Một lần nữa, ngọn sóng từ phía tây lại xô hai nhánh lục bình lẻ loi tấp vào xóm cầu ván.
Thấy cái ghe lạ hoắc ghé vào, bà con trong xóm liền bu lại hỏi thăm. Trong ghe chỉ có hai người phụ nữ. Họ cho biết mình là một trong những nạn nhân bị quân lính Pôn Pốt sát hại. Gia đình họ, gần cả chục người đều bị giết, chỉ còn có hai mẹ con, may mắn thoát chết nên bỏ chạy về tổ quốc.
Mấy tháng nay họ phải sống cảnh trôi giạt, đi từ bến tàu nầy cho đến bến ghe khác. Bám theo dân thương hồ để mua bán vặt vãnh, kiếm sống qua ngày.
Cùng hoàn cảnh thương tâm như nhau nên dì Sáu đâm ra quyến luyến. Dì chẳng những hết lòng giúp đỡ, còn hô hào bà con mua giúp hàng hóa của họ. Ngay cả cô Năm, chủ tiệm tạp hóa trong xóm cũng mua giùm một ký đường thốt nốt.
Người mẹ bằng tuổi dì Sáu còn cô con gái thì nhỏ hơn Phục sáu tuổi. Hai mẹ con họ đều ốm nhom, da đen nhẻm. Những cảnh tượng kinh hoàng từng chứng kiến khiến người mẹ mang bịnh tâm thần nhẹ. Cô con gái thì già trước tuổi, có đôi mắt nhớn nhác và rất ít khi cười.
Hôm ấy trời gần sáng, mọi người đang chuẩn bị ra đồng, bỗng nghe từ bến đò phát ra tiếng khóc rất to và lời kêu cứu của cô con gái:
-Bớ người ta cứu giùm má tui!
Dì Sáu là người nghe được và chạy đến trước tiên.
Thấy người mẹ nằm cứng đơ sùi cả bọt mép. Cô con gái thì đang vừa lay, vừa gọi một cách thảm thiết. Dì bèn thét gọi con trai tới tấp:
-Phục ơi! Phục ơi! Phục ơi!
Phục đang xới cơm vào chén, nghe tiếng kêu khóc của cô gái liền dừng tay. Chàng biết có chuyện chẳng lành nên khi nghe dì Sáu gọi là ba chân, bốn cẳng phóng xuống bến liền.
Phục vẹt nhóm người đang đứng bao quanh trước mũi ghe. Chàng nhảy xuống ghe, cõng người phụ nữ lên bờ, đặt trên cái đi văng ở phòng khách nhà mình.
Phục chạy qua nhà chú Chín, thót lên chiếc xe đạp đang dựng dưới cầu thang, miệng hỏi:
-Con mượn chiếc xe đi rước thầy nghe chú Chín.
Chưa nghe hết câu trả lời: "Ưà lấy đi con" của thím Chín là đã đã vọt ra tới cổng rồi.
Phục cong lưng đạp vù vù chạy lên xóm trên, lập tức rước liền ông thầy Bảy Chích.
Ai đó đã đi gọi thầy Bảy trước chàng. Phục vừa đi tới đầu cầu ván đã thấy ổng xuống dốc cầu một cái ào. Chắc đang ngủ bị giựt dậy nên đầu tóc của ông thầy Bảy còn bù xù, cái áo bơ lu trắng với hàng núc một bên chưa được gài kín hết. Phục vội quay xe trở lại, vừa kịp đỡ lấy chiếc xe hon đa mà ổng buông ra, dựng vào gốc xoài.
Thầy Bảy lật đật lấy cái ống nghe đặt lên ngực bệnh nhân một hồi lâu. Ông vạch mí mắt, rọi cây đèn pin nhìn vào rồi lắc đầu thở ra một hơi dài và buông ra một câu ngắn ngủn:
-Đi rồi!
Cô gái ngả vật ra như cây chuối bị đốn, bất tỉnh nhân sự chẳng còn biết gì nữa hết...
Người mẹ được chôn trong đất của chú Chín. Cô con gái không muốn để bà nằm một mình nơi xứ lạ. Cô cậy dì Sáu xin giùm với chú thím Chín, cho mình cất cái chòi nhỏ ở ngay bên cạnh mộ. Dì Sáu nhất quyết can ngăn, đem cô về nhà vì sợ con gái ở một mình không ổn.
Dì bàn với thím Chín:
-Thấy con Nhạn (tên cô gái) còn khổ hơn má con tui hồi đó nên tui thương quá chừng, quá đổi luôn chị Chín ơi! Tui tính nhận nó làm con nuôi, chị nhắm có được hông?
Thím Chín gật lia, gật lịa:
-Được chớ sao hông? Chị thì vui còn nó cũng đỡ buồn. Tuổi nó cũng lớn bộn rồi, biết làm, biết ăn, đỡ tay, đỡ chưn...Cái mặt nó hiền rụi hà, chắc chị khiến cái gì là nghe cái nấy.
Dì Sáu lắc đầu:
-Nói có quỷ thần hai vai chứng giám. Tui đem nó về nuôi đâu tính để nhờ.
Dì bộc lộ ý định của mình:
-Hồi còn nhỏ tui thích nghề may dữ lắm! Tui thấy mấy người thợ may suốt ngày ngồi trong nhà, da trắng nõn, để móng tay dài sọc. Họ có quần áo nhiều lắm, đủ màu, đủ kiểu. Bởi vậy tui tính kêu nó bán ghe, sang hết ba cái món đồ bán chưa hết, có thiếu thì tui cho thêm, đặng đủ tiền mua cái bàn máy may mà đi học, rồi làm thợ may cho sướng cái thân.
Thím Chín lật đật nói:
-Được rồi, được rồi! Để tui nhờ chị Ba Sáng nói với má con Tím, cho nó nhận con nhỏ nầy học thí công...
Dì Sáu ngắt lời:
-Người ta dạy học trò, một đứa cả khâu vàng, ai mà chịu cho học hổng lấy tiền...
Thím Chín gắt:
-Thì mình cứ xin thí mạng cùi. Hổng chừng thấy hoàn cảnh của nó họ thương hại. Chị Hai Trắng là người biết ăn chay, làm phước...chắc không nỡ từ chối đâu!
Dì Sáu nói một cách e ngại:
-Từ ngày xảy ra cái chuyện coi mắt, tui mắc cỡ nên hay né mặt chỉ lắm! Mấy lần thấy chỉ đi ngang tui đều ngó lơ. Sợ chỉ ghét rồi...
Thím Chín cự:
-Mắc giống gì mà chị phải mắc cỡ, tránh mặt? Gia đình họ xấu hổ với mình hổng hết chớ ở đó mà... Tui nghe nói họ còn tiếc thằng Phục dữ lắm!
Dì Sáu bán tín, bán nghi:
-Chị nhắm chắc ăn thì nhờ, để hông thôi lại bị bẽ mặt nữa đó.
Thím Chín gật đầu:
-Đừng có lo, lần nầy bảo đảm không có xí hụt đâu!
Thím Chín lại sên mứt dừa rồi đem cho mợ ba Sáng một bịt. Mợ Ba không chịu cầm bịt mứt, mợ nói:
-Lần trước ăn mứt của chị mà hổng có làm tròn phận sự. Bây giờ mặt mũi nào dám cầm, thôi chị chịu khó đem về giùm đi, tui không có lấy đâu!
Thím Chín năn nỉ:
-Ba trái dừa chặt lấy nước uống, còn cái cơm không làm mứt thì cũng đem bỏ. Làm ra tới một chảo đụn ăn làm sao hết? Tui đem chia cho bà con mỗi người một mớ ăn lấy thảo, chớ bộ cho mình ên chị sao mà ngại?
Nói xong thím dúi bịt mứt vô tay mợ Ba rồi lật đật quay về. Mấy ngày sau thím bưng thau đồ xuống bến để giặt, lại gặp mợ Ba cũng đang ngồi với một thau đồ đầy ngập mặt.
Thím Chín ghẹo:
-Cưới dâu đi để nó gặt đồ giùm cho.
Mợ Ba cười:
-Sợ tới chừng đó tui giặt thêm một bộ đồ nữa mới ngộ.
Thím Chín cười:
-Ai biểu chị cưới dâu con nhà giàu, dân cầm viết làm chi cho khổ. Cưới mấy đứa con nhà nghèo, biết chịu thương chịu khó, tay lấm chưn bùn như mình là khỏi cần sai biểu nó cũng làm ro ro. Nhứt là mấy đứa mồ côi, đem nó về rồi coi như con là nó thương chị hổng biết để đâu cho hết!
Mợ Ba cười:
-Như chị Sáu đó phải hông?
Thím Chín ngạc nhiên:
-Chị Sáu chưa có dâu mà!
Mợ Ba chắc lưỡi:
-Thì chỉ đem con Nhạn về ở, bộ hổng phải tính để dành đặng cưới cho thằng Phục sao?
Thím Chín lắc đầu trách:
-Chị nói vậy là oan ức cho chỉ lắm! Chỉ nhận nó làm con gái chớ hổng có ý đó đâu. Chỉ còn tính sắm bàn máy cho nó đi học may, cho có cái nghề để sau nầy khỏe thân, đi đâu cũng hổng sợ chết đói.
Mợ Ba xuýt xoa:
-Không ngờ chỉ tốt tới mức đó. Tui thiệt là bậy vì nghĩ sai cho chỉ. Mà chỉ có tính cho nó học may với ai chưa?
Thím Chín chép miệng:
-Nói nào ngay, chỉ có mượn tui nói với chị là hỏi giùm chị hai Trắng, cho nó học thí công với con Tím mà tui còn ngại miệng quá...
Mợ Ba sốt sắng:
-Có gì đâu mà ngại? Chiều nay tui đi lên nhà chỉ, lấy cái áo bỏ may tự hổm rày rồi nói giùm cho.
Từ hôm xảy ra vụ coi mắt đến nay, dì Hai Trắng hể đi chợ ngang qua chỗ dì Sáu là nghe lòng vô cùng áy náy. Dì biết dì Sáu mang nhiều mặc cảm, nay bị tổn thương nặng nề nên mới tránh mặt dì lâu như vậy! Dì đang muốn tìm cách "làm quen" lại dì Sáu, để hai người chào hỏi nhau một cách tự nhiên, chớ đụng mặt hà hầm mà cố né hoài, trong bụng dì bức rức lắm! Khi mợ Ba rỉ tai về chuyện xin cho Nhạn học thí công, dì đồng ý cái rụp liền.
Dì nói:
- Nghe hoàn cảnh như vậy ai mà không muốn giúp? Huống gì là con gái nuôi của chị Sáu. Dì về nói với chỉ lo mua sẵn cái máy may đi.
Mợ Ba mừng tới bắt khớp, nói liền:
-Máy may thì sắm mấy hồi. Mua xong là rinh lên đây học liền được hông?
Dì Hai lắc đầu:
-Khoan, để tui đi qua chùa, nhờ thầy lựa cho cái ngày nào thiệt tốt mới khai quang điểm nhãn được.
Mợ Ba nghĩ trong bụng:
-"Cái bà nội nầy bị một lần rồi mà còn hổng tởn. Hôm cái đám coi mắt đó, cũng chọn ngày, lựa tháng quá xá cỡ vậy mà có nên cơm, nên cháo gì đâu!"
Dù nghĩ vậy, mợ vẫn cười tươi rói, gật đầu lia lịa:
-Đúng rồi! Đúng rồi! Mình phải lựa ngày cho chắc ăn. Học may đâu phải chuyện giỡn ngộ, rủi trúng ngày xấu, cái cứ cắm đầu học hoài mà hổng ra nghề nổi thì uổng công lắm!
Dì Hai xụ mặt:
-Cái dì nầy! Miệng ăn mắm, ăn muối. Chưa bắt tay vô dạy mà nói ba cái chuyện gì đâu không hà! Con Tím mà nghe được, nó tưởng là dì trù ẽo rồi giận không thèm nhận đó!
Nghe dì Hai Trắng rầy, mợ ba Sáng giựt mình. Mợ nghe nói mấy người làm nghề may là cử đủ thứ nên biết mình lỡ lời. Mợ cố tìm một câu thiệt hay ho để gỡ gạc, nhưng lại sợ càng gỡ càng tầy quầy, giống như cái mối đan tuột chỉ, nên ngồi mà ngậm nghe thôi!
Đúng nửa tháng sau, dì Sáu lại bưng lễ vật qua nhà dì Hai. Lần nầy thiếu cái mâm trầu cau, cũng không có trà, rượu... Thay vào đó là một con gà luộc, dĩa xôi đậu xanh và một mâm ngũ quả.
Trước đó mấy ngày, dì Sáu đã được mợ Ba cố vấn là phải sắm thứ gì mang qua để cúng, rồi phải khấn vái câu gì để bà tổ độ cho con mình học đâu, biết đó.
Rút kinh nghiệm cái vụ không biết cử kiêng, lỡ mồm, lỡ miệng hôm trước, nên lần nầy mợ Ba hỏi dì Hai Trắng không sót một thứ gì, để khỏi bị đổ thừa.
Mợ Ba dặn đi dặn lại dì Sáu:
-Con gà cúng tổ là phải lựa gà mái tơ nghe hông? Đặng sau nầy nó mới sanh sản đùm đề. Mai mốt ra nghề khách mới mỗi ngày một đông.
Rồi mợ nhấn mạnh:
-Dĩa ngũ quả là quan trọng nhứt! Chị phải lựa thứ thiệt ngon, thiệt bự.
Dì Hai gật đầu:
-Cây vú sữa của chị Chín lớn trái, vỏ mỏng, ngọt như đường, tui tính mua một chục rồi thêm...
Mợ Ba hét toáng:
-Không được, không được!
Dì Sáu chưng hửng:
-Sao vậy?
Mợ Ba chắc lưỡi:
-Thợ may kỵ cúng vú sữa với sa bô chê hạng nhứt đó! Bộ chị hổng biết họ sợ bị mấy người khách may đồ chê tới, chê lui rồi bắt sửa đi, sửa lại hay sao?
Dì Sáu giựt mình, cám ơn mợ Ba rối rít:
-Mẹ con tui mang ơn chị hổng biết để đâu cho hết. Chị mà hổng nói, tui bưng tới rồi bị trả về thì mắc cỡ với bà con lần nữa. Chắc phải vạch lỗ mà chui xuống đất.
Sáng hôm đó dì Sáu và Nhạn ăn mặc tươm tất, không ngồi xe lôi cho rình rang. Hai mẹ con tay mang, tay xách lủi thủi cuốc bộ với nhau thôi!
Bắt đầu từ hôm đó, Nhạn được góp mặt với các cô "tiểu thơ" trong xóm. Có điều họ có đóng vàng nên chỉ học thôi, còn cô phải phụ làm việc nhà như rửa chén, gánh nước, quét sân...
Dì Hai và Tím ngại thiên hạ cho là mình bốc lột nên ít dám sai. Cho nên ngày đầu Nhạn rất nhởn nhơ. Khi cô đi học về, dì Sáu hỏi:
-Bữa nay con được dạy món gì?
Nhạn đáp:
-Con học xếp vải cho thiệt thẳng.
Dì Hai hỏi thêm:
-Con có lau nhà, rửa chén phụ hông?
Nhạn lắc đầu:
-Không, hổng ai bắt con làm cái gì hết!
Dì Sáu rầy:
-Con phải làm tự ên chớ đâu đợi sai khiến. Con học thí công, nghĩa là trả bằng cái công chớ hổng phải bằng tiền. Bởi vậy phải làm cho thiệt là nhiều mới được bà thầy thương mà dạy cho đủ món. Ngày mai con tới học, việc đầu tiên là phải mở nắp hết mấy cái lu nước, coi cái nào lưng thì gánh đổ cho đầy tới miệng hết. Rồi quét nhà, quét sân cho thiệt sạch. Trước khi quét sân phải múc nước rải đều cho không bay bụi. Sân quét trước rồi tới nhà. Quét xong xuôi rồi mới lau bàn, ghế, tủ...cho sạch bụi. Có khi còn phải phụ cho heo ăn, chẻ củi, làm cá, nấu cơm nữa. Nhứt là ăn cơm xong phải giành rửa chén cho bằng được nghe hông con!
Nhạn buồn hiu nói:
-Làm hết trọi mấy chuyện đó thì đâu còn thời giờ mà học nữa?
Dì Sáu cầm tay Nhạn, xiết mạnh để truyền nghị lực, dì nhấn mạnh:
-Con nghe lời má đi, bị người ta ghét mới chết chớ làm nhiều không có chết đâu mà sợ!
Rồi dì hỏi:
-Tính luôn con là có mấy đứa theo học?
Nhạn nhẩm trong đầu rồi đáp:
-Năm người, trong đó có chị Nên là đẹp nhứt, nói chuyện ngọt nhứt, may khéo nhứt!
Dì Sáu chụp lấy câu đó mà khuyên liền:
-Vậy thì con nên đi theo nó mà bắt chước.
Rồi dì hỏi tiếp:
-Học vui hông? Con có thích hông?
Nhạn cười:
-Con vui nhứt từ trước tới giờ. Hể cô Tím không có mặt là mấy chỉ giỡn thôi là giỡn. Có một chị tên Ngộ, chỉ nói chuyện nhiều mà có duyên lắm! Hể mở miệng là ai cũng cười rần rần.
Dì Sáu nghiêm giọng:
-Đi vô đó để học chớ hổng phải để giỡn. Con phải né bớt con nhỏ đó cho má. Mấy cái đứa thích chọc cho người ta cười, hay nói tùm lum rồi mang họa lắm! Con đừng có hùa theo nó rồi bị rầy oan mạng nghe hông?
Nhạn xụ mặt xuống, đáp nhẹ hều:
-Dạ!
Trong bụng cứ thắc mắc là tại sao kiếm chuyện nói cho người ta cười mà bị mang họa được.
Từ ngày Nhạn đi học may với Tím, dì Sáu chịu khó bỏ công nhiều vào việc bếp núc. Những bữa cơm của gia đình dì có phần tươm tất hơn trước.
Sáng sáng dì dậy thật sớm, chạy lên chợ mương để mua cá, mua thịt, tôm tép hoặc tàu hủ làm vài món ăn cho Nhạn đem theo để trưa lấy ra dùng. Dì sợ Nhạn ăn uống kham khổ rồi không đủ sức học, cũng ngại má con Tím chê nhà dì nghèo, hoặc hà tiện rồi xem thường.
Dì cũng sắm thêm cho Nhạn ba cái quần đen bằng sa ten tuyết nhung và ba cái áo xoa màu hồng, màu xanh da trời và màu vàng bông mướp.
Nhạn thấy dì lo nấu món nầy, món kia đổi bữa, thì áy náy lắm! Cô bèn khấn vái ăn chay suốt một năm, vừa để cầu siêu cho mẹ ruột vừa giúp má nuôi đỡ cực.
Nhạn chưa biết đi xe đạp nên ngày nào cũng chịu khó lội bộ, sáng đi, chiều về tổng cộng gần bảy cây số. Những hôm công việc nhiều, cô phải gồng mình ở lại ráng làm cho hết, dọn dẹp xong mới dám ra về. Có lần về tới nhà là trời đã tối hù làm dì Sáu lo muốn teo ruột.
Sở dĩ dì Sáu không yên tâm vì trên đường từ nhà dì đến tiệm may, phải băng qua một dãy nhà bỏ hoang. Đó là ba căn nhà ngói của gia đình ông cả Hội giàu nhất làng. Gần mười năm trước ông cả bị ám sát nên tất cả con cháu đều khiếp sợ. Họ bỏ lại nhà cửa, vườn tược, kéo nhau xuống Sài Gòn ở hết.
Cái dinh cơ rộng lớn mênh mông ấy được cả mấy trăm cây ăn trái bao quanh. Hàng rào xương rồng mọc kín bưng còn đứng vững, nhưng hai cánh cổng bị hỏng nặng, không đóng lại được. Nó bị đồn là có ma nên khi phải đi ngang qua lúc trời tối là Nhạn sợ đến cóng giò.
Từ ngày mấy căn nhà ấy không còn người ở, thì trong xóm đó và cả mấy xóm lân cận hay xảy ra những chuyện không hay. Một số mầm mống tội lỗi đã phát sinh và được phát hiện từ nơi ấy! Tất cả những cô gái trong làng, đều ngại phải đi qua đó vào ban đêm.
Nhạn đang là con chim nhỏ lạc loài, nay đã được ở yên trong tổ ấm. Cô lại được má và anh nuôi yêu quý nên cái vẻ thất thần đã biến mất. Nét ủ ê, xơ xác cũng không còn nữa. Người ta bỗng phát hiện là cô khá xinh, cười rất có duyên, chỉ tiếc một điều là Nhạn rất ít chịu cười.
Những hôm đi về trể, cô hay bị các tên đực rựa đang đi "cà nhõng" trên đường bám theo và buông lời chọc ghẹo. Mặc cảm là mình là dân trôi giạt, khiến Nhạn không dám có phản ứng mạnh trước những lời trêu cợt sỗ sàng của những tên được liệt vào hàng "cà chớn" đó.
Việc Nhạn được gia đình dì Sáu cưu mang, giúp dì Sáu và Phục gặt thêm nhiều thiện cảm của bà con lối xóm nói chung và gia đình dì hai Trắng nói riêng.
Dì Hai cũng như những người có tánh đa nghi, đều cho rằng dì Sáu nhận Nhạn làm con chỉ để nhờ vả mà thôi! Chừng thấy cô chẳng mó tay vào việc đồng áng, lại được cho đi học may, rồi lột xác, xinh đẹp, phổng phao lên từng ngày thì họ mới chịu tâm phục, khẩu phục cả hai mẹ con dì Sáu.
Dì Hai thường tìm cách nói chuyện riêng với Nhạn, khai thác triệt để cái tính ngây thơ của cô gái mới mười bảy tuổi ấy. Mục đích để tìm hiểu thêm về cuộc sống và tính cách của dì Sáu và Phục, nhờ vậy mà dì được biết là Phục là một người con chí hiếu nên càng tiếc hùi hụi.
Một hôm dì tâm sự với Nhạn:
-Tại con Tím nó ngu si khờ khạo, nghe lời đâm thọc, hổng biết nhìn người, mới xảy ra trắc trở. Chớ hông thôi con với nó bây giờ dám làm chị dâu em chồng rồi đó!
Rồi dì cứ lập đi lập lại câu nói đó một cách tiếc rẻ, mục đích để thấu tai dì Sáu. Hơn ai hết, Dì Hai biết rằng chỉ có cách xóa đi chuyện cũ, gã Tím cho Phục thì cái gút mới được tháo, sợi chỉ mới suông... Chuyện mai mối sau nầy mới thành công và mấy đứa con gái của dì mới được tống đi xuôi rót.
Dì Sáu nghe Nhạn kể lại đến mấy lần thì hiểu ra ý đồ của dì Hai Trắng. Dì còn đang do dự, không biết có nên nhờ thím Chín mở lời với mợ Ba Sáng một lần nữa, thì dì Hai Trắng đã tiến tới một bước. Số là hôm nhà mợ Ba Sáng làm đám cưới cho con trai, cả nhà dì Hai đều được mời. Dì Hai muốn tạo cơ hội cho dì Sáu thấy được cái khéo, cái đẹp của con gái mình nên bắt Tím phải theo dì đến phụ việc nấu nướng.
Cậu mợ Ba vốn tánh phô trương, hay sĩ diện với bà con họ hàng và lối xóm. Hơn nữa lại là đám cưới đầu tiên trong gia đình nên tổ chức hết sức rình rang, chỉ kém cái đám của nhà dì Bảy mà thôi.
Cho dù rất e ngại chánh quyền chú ý, nhưng vì đàng gái là gia đình có máu mặt ở cái xứ Tân Huề, họ có tới mười mấy mẫu đất mà chỉ có một cô con gái duy nhứt. Cậu mợ Ba nghĩ hai vợ chồng con trai mình sau nầy sẽ lãnh trọn phần hương hỏa, nên cho là có trách nhiệm phải làm cho con dâu nở mày, nở mặt.
Mợ đãi mấy chục mâm, cả hai thứ chay và mặn. Món mặn dĩ nhiên là do thím Chín đảm nhiệm, riêng món chay mợ ép dì Sáu phải phụ trách cho bằng được. Mợ viện lý do là dì Sáu chuyên nấu cho chùa nên rành mấy món chay, khiến dì không có cách chi từ chối. Bất đắc dĩ phải nhận mà rung gần chết!
Còn cả tháng mới đến ngày cưới nhưng cái đám con nít trong xóm hết sức nôn nao, chộn rộn. Đứa nào có bà con với gia chủ, cũng được cái ánh vinh quang đó chiếu sáng nên trông mặt mũi có phần sáng sủa, ăn nói tự tin hơn ngày thường nên được đám bạn lóc chóc của chúng nể nang hơn một chút. Câu chuyện về cái đám cưới sắp tới luôn có trong các cuộc nói chuyện của chúng.
Con Hãnh, cháu kêu cậu Ba bằng bác ruột ngày nào cũng bị hết đứa nầy đến đứa khác hỏi:
-Mầy có được đi rước dâu hông?
Con nhỏ nầy đâu có biết chắc nhưng vẫn gật đầu:
-Có chớ sao không?
Thế là bị cật vấn tiếp:
-Má mầy có may đồ mới cho mầy chưa?
Cái nầy thì nó biết là chưa, nhưng nói đại:
-May rồi.
Mấy đứa kia chưa chịu buông tha cứ đeo theo hỏi tiếp:
-Đồ màu hay đồ bông?
Phóng lao thì phải theo lao, nó đáp:
-Đồ bông.
Mấy đứa bạn của nó chẳng phải không tin, nhưng muốn bổ xung cho đầy đủ cái bức tranh đang vẽ trong trí tưởng tượng của chúng nên chưa chịu buông tha:
-Bông màu gì?
-Màu đỏ.
Thế là chiều hôm đó con Hãnh đeo xà nẹo một bên bà má của mình, đòi bà phải sắm cho nó một bộ đồ bông màu đỏ và xin được đi rước dâu.
Nhà nó vốn không khá giả. Má nó đang rầu vì cái khoản tiền chịu lạy không nhỏ sắp chi, nên nổi giận quất cho nó mấy roi. Ba nó bèn nhảy vô can thiệp. Ông biểu bà bán bớt một con heo đi để có tiền xoay sở. Bề gì cũng phải sắm đồ mới cho nó vì chỉ còn chưa được một tháng nữa là tới tết rồi.
Rồi cái ngày trọng đại đó cũng đến. Hôm che rạp, chẳng những tất cả trai tráng trong xóm có mặt đầy đủ mà còn kéo thêm một số thanh niên xóm trên, xóm dưới nữa. Họ chủ yếu lo việc chặt lá dừa, lá đủng đỉnh để trang hoàng, làm heo, làm gà và đờn ca giúp vui.
Phục vừa có tài kết cổng bằng bông đủng đỉnh, vừa có chân trong ban văn nghệ trong xóm, nên trong các cuộc lễ lạc, nhất là lễ cưới, rất được trọng dụng.
Buổi tối trước hôm rước dâu, nhà mợ Ba vui như hát bội. Cái máy phát điện của nhà cậu hai Thọ được mượn về. Mấy ngọn đèn nê ông được bắt từ trong bếp ra tới tận cổng. Con nít cả xóm qui tụ lại. Tụi con gái chui vô bếp kiếm ăn còn đám con trai chùm nhum ngoài sân. Bộ ngựa gõ được khiêng ra ngoài để ban đờn ca tài tử, toàn là nam giới, ngồi cho mát.
Mấy cô gái rút hết vào trong bếp, mỗi cô được giao canh lửa một cái bếp lò nên các chàng trai, cho dù không biết hút cũng tìm cớ chạy vô xin mồi thuốc.
Tím được giao canh nồi cháo gà. Cô lo hớt bọt, chụm lửa và khuấy cái vá xuống tận đáy đều đều để cháo không bị khét. Mồ hôi tươm đầy mặt, cô vừa móc túi lấy cái khăn mù xoa ra lau, vừa nghe đầy tai những lời mợ Ba và thím Chín ca tụng hai má con dì Sáu.
Mợ Ba nói:
-Cái thằng Phục nó khéo tay quá mức! Chị ra mà coi, nó kết cái màng bằng bông đủng đỉnh đẹp hết chỗ nói luôn! Còn đẹp hơn cái cổng của nhà chị Bảy năm ngoái nữa đó.
Thím Chín bồi vô:
-Chị còn chưa biết hết cái tài của nó như tui đâu. Nó mà tóm lưỡi câu là cá ăn giựt không kịp. Nó chuốc giùm tui cái đòn gánh, coi còn khéo hơn ba con Nhu một bực. Nói về cái chuyện có hiếu thì nó hơn hết cái đám con trai trong làng mình. Mỗi lần chị Sáu "ể" mình, nó đi bổ thuốc rồi đem về sắc, ngồi quạt lửa canh thuốc thấy mà thương.
Tím biết họ cố ý nói cho mình nghe nên trong lòng không khỏi bực bội.
Nồi cháo chưa chín mà tiếng đàn đã réo rắc, khiến các cô gái trong bếp cùng dừng tay lắng nghe. Mấy đứa con nít đang ngồi chồm hổm chực làm, chực ăn, cũng bỏ chạy ra xem hết ráo!
Một giọng nam cất lên bài "Đám cưới đầu xuân". Bản nhạc quá hợp, người hát quá hay nên vừa chấm dứt là nhận được một tràng pháo tay vang dội.
Thấy Nhạn từ ngoài sân bước vào, nét mặt tươi như bông bụp, Tím hỏi nhỏ:
-Ai hát mà hay quá vậy Nhạn?
Nhạn đáp bằng một giọng tự hào:
-Anh Hai của em chớ ai!
Tím nghe vậy thì lấy làm ngượng nên làm thinh không hỏi nữa.
Các bản nhạc thông dụng thuở ấy đa số đều buồn. Cho dù được dùng trong đám cưới, nhưng những bài như: "Đồi thông hai mộ"; "Những đồi hoa sim"; "Hàn mặc tử"; "Chuyện tình Lan và Điệp"...đều được các "ca sĩ" cây nhà lá vườn lần lượt đem ra trình bày.
Phục hát hay nhứt nên được bà con yêu cầu đích danh hoài làm dì Sáu và Nhạn nở mặt, nở mày với bà con trong bếp quá chừng!
Những bản nhạc buồn mang đặc tính của chất trầm tích, dễ bám vào đáy lòng, gây cồn cào và ở lại rất lâu, nhất là trong tim của các cô gái trẻ.
Thoạt đầu Tím chỉ nghe để mà nghe rồi dần dần rung động. Không những cô mà hầu hết các cô gái trong bếp đều dành cho "danh ca" Phục cả một lòng hâm mộ. Cho nên khi Phục nghĩ xả hơi, vào bếp mồi thuốc thì cô nào cô nấy cũng thầm mong anh ghé vào cái bếp lò của mình.
Không phải những lời ca tụng về tánh chăm chỉ, giỏi giang, hiếu hạnh... mà chính cái giọng ca, tiếng đàn... Cái tài lẻ ấy đã khiến Tím xóa bỏ cái thành kiến của cô đối với Phục, và giành cho chàng một chút cảm tình.
Cho nên khi Phục vô tình ghé vào chỗ Tím để xin mồi lửa (vì cô ngồi gần nhất). Tím chẳng những đưa cho chàng cái que củi cháy phừng phực mà còn tặng thêm một nụ cười mĩm chi khiến y ta chới với.
Sáng hôm sau Tím mặc cái áo dài màu xác pháo, đeo cây kiềng vàng và đôi khoen tòn teng có hình như tấm màn trúc, cũng bằng vàng để đi rước dâu.
Mợ Ba quá đổi kinh ngạc, không phải vì cô quá đẹp mà bởi hôm trước khi lên danh sách, cho dù mợ khẩn khoản mời, Tím vẫn khăng khăng từ chối.
Sự đổi ý đột ngột của Tím làm mợ Ba lâm vô cảnh khó xử.
Ở thôn quê trong đám cưới cái gì cũng phải xài số chẳn. Người dự phải đủ đôi đủ cặp, đồ đạc phải đúng bon một bộ. Tím đột ngột nhảy vô thành ra có tới bảy cô gái. Cậu Ba ổng vò đầu bức tai, nói bảy là thất mà thất có nghĩa là mất, như thất mùa chẳng hạn...
May sao thím Chín nảy ra sáng kiến:
-Cho con Nhạn đi rước dâu luôn, vậy là được tám người, tốt nhứt hạng đó!
Dì Sáu nói nhỏ:
-Nó đâu có áo dài...
Thím Chín hăm hở:
-Để tui lấy cái áo của con Nhu cho nó mặc. Hai đứa nó vóc mình xêm xêm, cũng ốm ốm, cao cao...Chắc hổng ai biết mặc áo khính đâu!
Nhạn đang ngồi chồm hổm, một chưn bỏ xuống đất, một chưn đè lên cái bàn nạo, hai tay cầm nửa trái dừa khô nạo sột sột...
Thím Chín chạy tới hối lia lịa:
-Con bỏ đó đi tắm liền đi!
Nhạn ngạc nhiên chưa kịp hỏi đã bị lôi ra khỏi bếp. Cô bị bắt phải dội nước cho bay mùi khói và thức ăn, rồi tức tốc thay đồ vẽ mặt.
Bên cạnh nhan sắc được trau chuốc và vẻ tự tin của Tím. Dáng dấp ngượng nghịu, cái áo dài màu cà hơi rộng và gương mặt trang điểm đơn sơ của Nhạn trông mới dễ mến làm sao!
Hai chiếc tàu lớn đã đậu sẵn dưới bến từ lúc hừng đông. Mỗi chiếc có thể chứa hơn bốn chục người. Chúng được treo những sợi dây thật dài, căng từ mũi tàu tới sau lái, gắn vô số các cây cờ đủ màu hình tam giác, trông thật đẹp và vui mắt. Đàng trai chỉ đi một chiếc, còn một chiếc chạy theo để đón họ hàng đàng gái đưa dâu.
Đám con trai lóc chóc đứng đầy nghẹt trên bờ. Chúng nhìn đăm đăm hai chiếc tàu và đếm mấy cây cờ, nói bá láp rồi cười với nhau một cách khoái chí.
Mấy đứa con gái nhỏ bu nghẹt trong buồng, ngắm các mỹ nhân đang chuẩn bị đi rước dâu. Các cô gái mặt hoa da phấn đang soi mình trong gương, sửa lại mái tóc và vuốt lại tà áo cho nhau.
Đúng giờ hoàng đạo, ông Út, trưởng lão và là người cao tuổi nhứt xóm, đốt ba cây nhang cắm lên bàn thờ, trình báo với tổ tiên rồi dẩn đầu đoàn rước dâu xuống bến.
Chú rể, nhân vật chính trong buổi lể, chỉ được mọi người ngó qua một cái rồi thôi. Chiếc áo dài the màu xanh dương cùng cái khăn đống đội trên đầu chẳng giúp chú đẹp hơn ngày thường chút nào. Để chú đỡ tủi thân, một ông bác trong xóm, vỗ vai chú một cái rồi nói:
-Cái thằng nầy bữa nay coi bảnh tỏn quá.
Chú cười cười, cái mặt sượng ngắt.
Một ông bác khác vỗ cái vai bên kia rồi dặn:
-Một lát nhớ lạy cho đẹp, đừng có khớp nghe con.
Chú càng cúi đầu thấp hơn, "dạ" nhỏ xíu như tiếng muỗi kêu.
Các chàng trai bị chìm lỉm dưới những chiếc áo dài đủ màu của các cô gái. Cô nào cũng đẹp gấp bội ngày thường, khiến họ cứ phải ngẩn ngơ, dụi mắt.
Phục chẳng được tự nhiên trong bộ đồ tây và đôi giày da của Nghệ. Chàng lúng túng vì mái tóc, cho dù được chải đi, chải lại, vẫn không chịu nằm sát xuống. Tuy vậy nhờ cái vầng hào quang còn sót lại từ cái đêm văn nghệ vừa rồi, nên không bị các cô gái xem là lượm thượm mà còn được coi là độc đáo.
Người vui và sung sướng nhứt hôm nay, không ai khác mà chính là con Hãnh. Nó mặc bộ đồ mới tinh vừa may xong hồi chiều hôm qua, má nó không dám giặt sợ hổng kịp khô nên những đường phấn xanh trên vải vẫn còn lộ rõ. Nó đi một cặp với con Nên, con nhỏ nầy cũng mặc một bộ đồ mới tinh có điều khác màu, khác bông. Mặt mày chúng đều tươi rói. Tụi nó phấn khích quá xá cỡ, nên khi khổng, khi không mà hai đứa bỗng cầm tay nhau rồi nhảy tưng tưng một lượt.
Chú thím Chín và vợ chồng Nhu dứt khoát từ chối không chịu đi rước dâu, cho dù mợ Ba đeo theo năn nỉ muốn ráo nước miếng, làm mở tự ái quá xá.
Sở dĩ mợ Ba cố nài ép vì vợ chồng chú Chín nổi tiếng rất hòa thuận, lại có của ăn của để. Mợ Ba muốn họ tham dự để hai vợ chồng sắp cưới lấy hên. Trước đây hầu như đám nào hể mời là chú thím đều có mặt, hổng đưa thì rước. Thế mà bây giờ lại khăng khăng từ chối khiến cậu mợ Ba cảm thấy hết sức mất mặt.
Mợ Ba nói một cách hờn mát:
-Tui biết nhà mình hổng bằng ai nên má con chị đâu có chịu đi rước dâu.
Bất đắc dĩ, thím Chín phải kề tai mợ Ba nói nhỏ. Mợ Ba trợn mắt hỏi:
-Mèn đét ơi! Thiệt hả?
Thím Chín gật đầu một cách ngượng nghịu.
Mợ Ba kèo nài tiếp:
-Vậy thì chị biểu vợ chồng con Nhu nó đi rước dâu cho vui. Cái tàu rộng minh mông mà đi le hoe có mấy người, coi hổng có xôm chút nào!
Thím Chín lại kề tai mợ Ba, nói còn nhỏ hơn lần trước. Lần nầy con mắt mợ Ba còn trợn dữ hơn, còn cái miệng thì tròn vo, hổng nói nổi một tiếng!
Nét mặt biểu lộ một sự ngạc nhiên tột bực của mợ Ba khiến thím Chín quê đậm, quê đà.
Sau một phút định thần, không biết vô tình hay cố ý, mợ bèn hỏi:
-Vậy là bà ngoại với má thằng "Nhưn" sắp sửa có em bé một lượt hả?
Thím Chín làm bộ không nghe.
Thím làm thinh, cắm mặt nhìn đăm đăm vào nồi thịt kho to tổ bố đang ngồi trên cái hỏa lò, bàn tay cầm cái vá nhôm cứ vớt bọt trong nồi bỏ vô chén đều đều.
Mợ Ba thấy thím tập trung quá cao độ nên không dám hỏi nữa, từ từ đứng lên rồi rút lui một cách nhẹ nhàng, không quên liếc thử coi sắc mặt thím có đổi hay không?
Thím Chín chẳng mắc cỡ hay giận được lâu, bởi đang toàn tâm, toàn ý, săn sóc cho cái đứa con cưng của mình là nồi thịt kho Tàu.
Ở xóm Cầu ván nói riêng và làng Phú Lâm nói chung, trong bất cứ cái đám cưới nào, to hay nhỏ, nghèo hay giàu cũng không thể thiếu cái món nầy.
Ngoài cái việc được đa số bà con ưa chuộng, nó còn được dùng làm khuôn vàng thước ngọc để đo lường sự khéo léo của các vị bếp trưởng.
Thím Chín sở dĩ nổi tiếng như cồn, sự nghiệp nấu ăn hết sức vẻ vang, chín chục phần trăm là nhờ nó, chớ chẳng phải món tây, món u gì ráo!
Nồi thịt kho của thím Chín lừng danh bởi lớp mỡ chín bệu trong veo, vàng như mật ong, gắn dính khắng vào phần thịt hồng hồng. Mùi thơm ngào ngạt, vị đậm đà, màu thắm tươi khiến chỉ nhìn, ngửi thôi cũng đủ làm cho cái bao tử nhoi nhói, cồn cào, thổn thức.
Sở dĩ nó thơm, ngon, hấp dẫn... đến mức đó, là nhờ thím Chín có cái bí quyết ướp thịt và đem hết tâm huyết ra mà lựa từng trái dừa một.
Nếu gia chủ có làm heo, thím sẽ bắt tay ngay khi miếng thịt còn nóng hổi. Nếu không, thím chịu khó dậy thiệt sớm tới tại lò mổ, để chờ họ ra thịt, mua rồi xách về liền.
Trước tiên, thím mài cây dao yếm có cái bản rất to, sao cho cái lưỡi bằng sắt nhíp xe hơi của nó, bén ngót như cái lưỡi bào cạo râu (thiếu điều sợi tóc bay ngang cũng bị cắt làm hai).
Thím xắt tảng thịt to đùng thành những miếng vừa ăn, chớ không bự tổ chảng như đa số bà con hay làm. Bởi nếu cắt to quá, khi ăn phải rỉa ra mất đẹp. Miếng thịt của thím bề bản chừng ba ngón tay và dày chừng vài phân thôi, miếng nào cũng được cắt ngọt xớt, bằng chan nhau như cầm thước mà đo.
Để cho miếng thịt được trong, thím thoa nước cốt trái chanh lên giáp vòng miếng thịt rồi thím ướp kha khá đường vô trước. Nếu xài đường móng trâu, đường sắt, đường chảy, đường thẻ...Thím chịu khó thắng đường cho kẹo lại rồi mới đem ướp vào thịt. Thím trộn, xóc lên để nó thấm đều, đem hong ở chỗ mát và có gió, ướp khoảng một, hai tiếng đồng hồ là đem kho được.
Thím lựa mấy khúc củi me nước, (chúng ít khói và than chắc, nóng hơn củi tre, củi gòn nhiều) rồi tự mình gầy bếp. Thím nổi lửa tưng bừng, chờ hết khói rồi đặt cái nồi thịt lên. Lửa càng lớn thì thịt sẽ săn lại càng nhanh, khi kho nước mới càng trong.
Lúc mùi đường vừa bốc lên, thím nhấc liền cái nồi xuống để không bị khét rồi xóc mấy cái cho đều. Kế tiếp thím bắc lên bếp trở lại. Vừa bỏ tay ra khỏi hai cái quai nồi là chụp cái thau nước dừa mà trút vô liền. Cái thứ nước mát, ngọt nầy được lấy từ những trái dừa xiêm, không già, không non (nước dừa già sẽ làm màu thịt bị sậm đen, nước dừa non cho mùi, vị kém ngọt, kém thơm và màu không tươi), đã được lược qua cái khăn bằng tấm vải mùng gấp làm đôi.
Lúc nầy một nhúm muối hột được cho vào. Vẫn để lửa to cho nồi thịt sôi bùng lên, thím canh cho tới khi nước đã sủi tăm, bọt trồi lên từng đợt liền lập tức bớt lửa. Phải nhanh tay nếu chậm bọt sẽ bị chìm làm nước đục ngầu, lợn cợn. Báo hại miếng thịt chẳng những không ngon, không trong mà cũng bớt thơm.
Thím dùng cái vá rất cạn hớt cho bằng hết lớp bọt đóng từng mảng trên mặt. Đợi khi nước thật trong, không còn nhả bọt nữa, mới cho nước mắm vào và để lửa riu riu.
Cái nồi thịt kho Tàu bắt đầu dậy mùi kể từ khi nầy và càng lúc càng thơm ác liệt!
Thím Chín thường tuyên bố là mình không thèm xài tới cái lưỡi để nếm, chỉ cần hít qua một hơi thôi, cũng đủ biết cái nồi thịt kho đó mặn hay lạt, ngon hay không rồi.
Trong suốt quá trình nấu, nồi thịt kho không được đậy nắp vì sẽ bị đục. Mùi thơm được phóng thích, tha hồ bay khắp xóm mà chọc ghẹo dạ dày của mấy người lân cận.
Nhóm đờn ca tài tử đã ăn cháo gà no cành hông rồi mà vẫn thèm chảy nước miếng. Thậm chí cậu Ba Sáng, cái ông chủ nhà sắp làm sui, cũng cầm lòng không đậu.
Cậu Ba rình cho mọi người đi ngủ hết rồi mới lọ mọ chui xuống bếp bới một tô cơm nguội. Cậu bưng cái rổ thưa có tấm thớt me nặng chịt dằn lên, đang được đậy trên nồi thịt xuống. Cậu lấy cái vá vớt hai cục thịt, khỏa bớt lớp mỡ trên mặt cho trôi bớt rồi múc một ít nước chan vào.
Miếng thịt múc lên coi chắc lọi vậy mà khi chui vào giữa hai hàm răng, chưa kịp cắn là cái lớp mỡ béo ngậy đã muốn tan ngay trong miệng.
Một cảm giác quá tuyệt vời khiến cậu Ba cảm thấy cuộc đời thật là đáng sống!
Vừa nhai cậu vừa nghĩ thầm:
- "Ngày mai cho dù mình có ngồi bàn ăn đàng hoàng, trước mặt ê hề món, chắc chắn hổng thể nào ngon bằng phân nửa cái tô cơm nầy đâu".
Mợ Ba nghe tiếng lục đục liền chạy ngay vô bếp. Trống ngực của mợ đập đùng đùng vì sợ cái nồi thịt kho bị mấy con mèo hoặc chó cạy nắp.
Cậu Ba đang ngồi chồm hổm trước cái lò với nồi thịt kho ngay trước mũi, đang nhai nhai, nuốt nuốt một cách khí thế, thấy vợ bước vô thì hơi sượng sượng.
Mợ Ba hỏi:
-Thịt kho có vừa ăn hông ông?
Cậu Ba nhắm hai con mắt, lắc đầu qua lại đúng ba lượt rồi nói:
-Ngon hết sẩy bà ơi!
Không giống như con rể và con gái, chú thím Chín đón đứa con thứ nhì của mình kém hăng hái, hay nói đúng hơn là chẳng có chút xíu nhiệt tình nào.
Họ cố làm ra vẻ thản nhiên, nhưng vẫn để lộ sự miễn cưỡng cộng với nét bẽn lẽn trên mặt mỗi khi bà con láng giềng lân la hỏi đến.
Đứa con nầy là một món quà không chờ, không đợi, hoặc chờ đợi quá lâu nên đâm chán, không còn muốn có nữa. Cả chú lẫn thím đều đã thích nghi với cương vị làm ông ngoại, bà ngoại, nay rớt giá làm ba, làm má nhứt là ở cái tuổi nầy nên cảm thấy bẽ mặt làm sao!
Đã vậy còn mang bầu một lượt với con gái nữa! Thiệt là chướng mắt, thiệt là trái khoái, thiệt là ngặt mình! Làm như thể họ đang thi đua với nhau vậy.
Sáng nầy thím Chín bưng rỗ xuống sông rửa cá. Dì Bảy và mợ Ba đang ngồi trên cây cầu gòn, vừa xả đồ vừa nói chuyện với nhau coi mòi rôm rả lắm! Họ bỗng im bặt khi vừa trông thấy thím.
Thím Chín nhạy cảm lắm! Thím biết ngay là hai người đó đang nói tới mình nên bỗng nổi giận ngang xương. Rồi chợt nhớ lúc có bầu mà giận hờn ai thì đứa con trong bụng sau nầy sẽ mang cái tánh cộc cằn quạu quọ, thím đành nuốt cái cục giận xuống mà cười nói bình thường với họ.
Vừa bưng rỗ cá lên nhà, lát sau thím nghe tiếng dì Bảy léo nhéo:
-Chị Chín ơi! Chị Chín ơi! Có ở nhà hông vậy?
Thím Chín còn "sùng" trong bụng lắm! Thím chẳng muốn lên tiếng chút nào, tính để cho dì Bảy gọi tới tắt tiếng, chịu hết thấu rồi về.
Thế rồi thím nhủ thầm:
-"Mới gặp dưới bến mà làm thinh là con mẻ biết mình bị "chạm nọc", chắc còn cười thêm trong bụng".
Thím đành đáp:
-Ơi! Có chuyện gì hông chị Bảy?
Dì Bảy đáp bằng một giọng vui vẻ háo hức, y như một đứa bé gái có hai cục kẹo trong túi, kêu con bạn của mình ra để cho bớt một cục vậy:
-Thì ra đây rồi biết!
Dù chưa biết chuyện gì, nhưng qua cái kiểu nói của dì Bảy, thím Chín cũng đoán được tới chín chục phần trăm là chuyện vui nên lật đật bước ra.
Thím vừa mở cánh cửa cổng là dì Bảy lách vô liền. Dỉ trách:
-Ban ngày đâu ai dám ăn cướp mà bế cổng dữ vậy?
Thím Chín cười giả lả:
-Con gà mái mới xuống ổ. Sợ nó dắt bầy con ra đường rồi xe cán chết.
Dì Bảy chỉ mấy cái lỗ thư rỉnh dưới chân hàng rào bông bụp:
-Ba cái lỗ chó đầy nhóc, chui ra cái một, đóng cửa chi cho mệt.
Thím Chín mời:
-Chị vô nhà ngồi chơi!
Dì Bảy lắc đầu:
-Tui còn đi bổ thuốc cho ba thằng Công. Chị Hai Thọ nhờ tui đưa cái nầy cho chị.
Rồi dì móc túi lấy ra hai chai dầu nước xanh đưa cho thím Chín.
Thím Chín trợn mắt mà nhìn, mấy giây sau mới hỏi:
-Sao khi không mà cho tui? Còn cho tới hai chai...
Thím còn định hỏi thêm là tại sao mợ Hai không tự tay đưa cho thím mà phải nhờ dì Bảy, nhưng rồi thấy hỏi như vậy có vẻ gay cấn quá nên thắng lại liền.
Dì Bảy biết thím thắc mắc điều gì nên chặn nói trước:
-Hôm qua tui có lại nhà chị Hai, gặp lúc chỉ đang khui thùng hàng của thằng Thụ gởi về. Nó có ghi trong thơ là gởi cho chị một chai, con Nhu một chai. Chỉ cũng cho tui một chai rồi nhờ cầm lại cho chị. Chỉ nói nó gửi có một lố hà! Không đủ đâu vào đâu nên cho lén lén sợ bà con phân bì.
Thím Chín xua tay:
-Ít thì để chỉ chia cho họ hàng, tui không có lấy đâu!
Dì Bảy lắc đầu:
-Tui cũng nói y như chị vậy đó, cái rồi chỉ năn nỉ quá cỡ nên không cầm không được. Chỉ cũng sợ chị từ chối nên nhờ tui ráng nói vô giùm.
Thím Chín vẫn không chịu cầm. Dì Bảy bèn nhét hai chai dầu vô túi áo của thím rồi quày quả kiếu:
-Thôi lấy giùm đi mà! Chị vô nhà đi, tui xuống tiệm ông chệt Lến đây!
Rồi dì tức tốc bỏ đi liền.
Thím Chín thở dài, nói lầm bầm:
- Vậy là giáp cái xóm nầy, ai cũng biết hết trơn, hết trọi.
Thím Chín không ngớt van vái phật bà Quan Âm cho thím sanh sau Nhu một tháng, để nuôi con gái cho cứng cáp rồi tới phiên nó nuôi mình.
Thím đem cái mối lo đó nói với chồng. Chú Chín gạt phắt:
-Bà đừng có lo, tới chừng đó vợ ai nấy nuôi!
Thím hỏi lại bằng cái giọng nghi ngờ pha lẫn ngán ngẫm:
-Ông nuôi kiểu nào? Đâu nói thử tui nghe!
Chú gãi đầu sồn sột rồi nói:
-Bất quá nhờ chị Sáu với con Nhạn vài ba bữa?
Thím vặn lại:
-Hổng lẽ bắt họ giặt quần dơ cho tui hả?
Chú Chín lại gãi đầu tưng bừng thêm một lần nữa. Đây đúng là cái công việc khó khăn nhứt đối với chú. Không phải chú gớm, cũng không phải sợ bị mất mặt mà bởi một lí do duy nhất mà chú không thể vượt qua được: Chú có cái bịnh hể thấy máu là xỉu.
Thím Chín lại thở ra:
-Nghĩ tới cái lúc bồng đứa con đỏ hỏn trên tay, sao mà tui ngán ngược.
Chú Chín bắt bẻ:
-Lúc trước tui nghe bà xúi con Nhu sanh thêm hai ba đứa để bà nuôi giùm cho. Sao bây giờ con của mình mà bà than, bà sợ nuôi hổng nổi?
Thím Chín thở dài:
-Tại ông hổng biết chớ, nuôi con nó khác nuôi cháu. Ở cái tuổi nầy nuôi cháu thì khoái chớ hổng ai ham nuôi con. Rảnh rang lâu quá rồi bây giờ kè kè một cục, cực trần thân.
Chú Chín an ủi vợ:
-Thôi bà ráng đi, biết đâu lần nầy nó lòi ra một cục con trai. Lẩm rẩm mà bà giống má chồng của bà quá! Hồi đó bà nội con Nhu cũng sanh tui một lượt với chị Hai sanh con Thủy. Ai cũng khen là nhà tích đức nên cuối cùng cũng có một đứa con trai nối giõi.
Rồi chú an ủi vợ:
-Cái thằng nhỏ nầy nhứt định phải có hiếu với tụi mình.
Thím Chín bắt bẻ:
-Rủi con gái thì làm sao?
Chú Chín nói như đinh đóng cột:
-Lần nầy chắc chắn là con trai, bà tin tui đi!
Thím Chín thắc mắc:
-Ông vịn vô đâu mà nói nghe ngon quá vậy?
Chú Chín gục gật cái đầu:
-Kỳ nầy đổi đầu con nên bà ốm nghén khác hơn lúc mang con Nhu.
Rồi chú nhắc:
-Hồi đó bà toàn là ưa món chua. Cóc với ổi ăn cả rổ còn chưa đã thèm, nhớ hông?
Thím Chín gật đầu:
-Nhớ chớ sao không! Ăn thay cơm luôn bởi bây giờ mới bị cái bịnh đau bao tử. Còn bây giờ thì thèm ăn mấy cái thứ gì đâu không...
Chú Chín chợt nhớ ra, thò tay móc trong túi áo ra một cây phấn đưa cho thím.
Thím Chín cầm viên phấn trắng bóc lên, cho vô miệng cắn một cái "cóc" rồi nhai rau ráu. Chú Chín nhìn vợ bằng cặp mắt vô vàn ngưỡng mộ, ông nói:
-Chèng ơi! Bà ăn phấn coi bộ còn ngon hơn ăn kẹo. Thèm cái giống gì mà kỳ lạ quá, hổng có giống ai một chút nào hết trơn, hết trọi! Mấy bà bầu sao mà thèm làm chi ba cái thứ hổng bổ béo gì hết, khó ăn gần chết. Sao hổng thèm mấy món cao lương mỹ vị cho nó đáng cái công mang nặng đẻ đau?
Thím Chín nuốt xong rồi nói:
-Ai mà muốn! Tui còn đỡ chớ có người còn thèm mấy thứ nghiệt hơn. Hồi đó tui nghe bà ngoại con Nhu nói, có người lột hột vịt rồi bỏ hết vỏ vô miệng mà ăn. Có người đang nhổ cỏ cái cầm cục đất cày lên nhai ngon lành. Có người quẹt cức gà sáp lên tay liếm... tui cũng đâu có tin.
Chú Chín bỗng hỏi:
-Mấy lúc sau nầy sao bà kho cá, trộn gỏi hổng nghe thơm tho gì ráo?
Thím Chín lại thở ra:
-Bây giờ tui mà nghe mùi tỏi, mùi hành là mửa chết bỏ! Thôi ông ráng chịu đựng, nhắm mắt mà nuốt đại đi, chừng đôi ba tháng nữa là đâu mới vào đó lận.
Thím Chín nói như xin lỗi chồng vậy, làm chú Chín nghe thương vợ quá chừng! Ổng không hề do dự, bỏ phe ta theo phe "địch" liền.
Chú hạ quyết tâm phải chiến thắng bản thân, phen nầy dốc hết sức ra mà nuôi vợ đẻ để làm gương cho cái đám đàn ông, nhứt là con rể.
Chú bèn nói:
-Bà đừng có mở lời nhờ chị Sáu hay con Nhạn gì hết nhe!
Thím ngạc nhiên:
-Sao vậy? Hồi nãy ông mới biểu mà bây giờ lại đổi ý cấp kỳ, lạ vậy?
Chú Chín cười:
-Ai ăn người nấy chịu. Con mình đẻ mai mốt mình nhờ, bắt chỉ cực coi sao được?
Thím Chín "xì" một tiếng dài thòn:
-Nói nghe ngon lành quá! Ráng mà giữ lời nghe hông? Đừng có để cho tui ăn cơm nguội cứng quèo, rồi mò ra lu múc nước uống đó!
Chú cười:
-Bà đừng có lo. Kỳ nầy tui cho bà ăn sườn nướng đã thèm, khỏi ăn cá làm chi cho mắc xương. Quần áo bà với thằng nhỏ tui giặt bằng xà bông thơm rồi ủi thẳng băng luôn.
Thím Chín cười còn lớn hơn:
-Để tui banh hết cỡ hai con mắt ra coi ông làm được mấy ngày. Cái người chỉ có một đôi dép mang trong chưn mà nhắc hoài còn hổng thèm rửa. Tới nổi tui ngứa con mắt muốn chết, lâu lâu phải lấy bàn chải chà cho sạch giùm. Tui mà hổng mó tay vô chắc nó đóng đất nhìn khỏi có ra luôn mà ở đó...
Chú Chín gật đầu, giọng hăm he:
-Hồi trước thì vậy chớ từ rày trở lên bà coi...
Rồi chú hỏi:
-Bà tính ngăn đôi cái buồng lớn ra để hai mẹ con nằm riêng, hay là cứ để y như vậy rồi kê thêm một bộ giạt nữa đặng nằm chung cho vui?
Thím suy nghĩ giây lâu rồi nói:
-Ngăn làm hai cho thằng rể của mình vô nựng vợ, nựng con được tự nhiên.
Chú lại hỏi tiếp:
-Bà có tính nằm lửa hông? Đặng tui biết mà đi dặn cô Năm mua than đước giùm.
Thím Chín cự:
-Củi cả đống xài hổng hết, mắc gì đi mua than về nằm.
Chú lắc đầu:
-Đừng có hà tiện bà ơi! Củi khói nhiều độc dữ lắm!
Thím Chín lẫy:
-Vậy thì thôi, khỏi nằm.
Chú Chín tưởng thiệt nên gật đầu:
-Nghe bà nói tui mừng quá. Hổm rày thằng Nghệ nó cứ biểu tui khuyên bà là đừng có nằm lửa. Nó nói nằm lửa chỉ lấy được cái hơi nóng mà phải hít khí độc, lợi không có mấy mà nguy hiểm tới tánh mạng chớ hổng phải chuyện chơi. Bà với con Nhu sanh trúng cái mùa nực nên đâu có cần. Bất quá tới lúc đó mình xin thầy Bảy mấy cái chai nước biển bỏ không, nấu nước sôi chế vào, để cặp hai bên hông mấy đứa nhỏ là tụi nó cũng đủ ấm rồi. Còn bà với con Nhu thì xức dầu cho nhiều vô.
Thím Chín vừa nghe chồng nhắc tới chữ "dầu", mặt mày bỗng rạng rở. Thím liền thò tay vô túi áo, móc hai chai dầu con ó ra khoe:
-Chưa gì hết mà có người cho má con tui hai chai dầu xanh rồi nè!
Chú Chín sầm mặt xuống rầy vợ:
-Bà lấy làm chi...
Thím Chín hỏi chặn:
-Ông biết của ai cho hông mà biểu đừng có lấy?
Chú Chín đáp lại bằng một câu hỏi:
-Bà đếm thử coi trong xóm nầy có mấy nhà có con là Việt Kiều?
Thím Chín tiu nghỉu, tưởng được chồng nhảy vô vui chung, nào ngờ ổng suy nghĩ cong cong, quẹo quẹo như cái ống vòi bình tích.
Thím ngẫm đi, ngẫm lại lát sau bỗng thấm. Thấy mình nhận hai chai dầu ngó bộ coi hổng được. Bây giờ đem trả lại chắc còn kỳ dữ nữa!
Thấy vợ không trả lời mà ngồi chù ụ, chú Chín cho là thím tiếc hai chai dầu, nên nói:
-Bà có thích thì cất hết để dành xài mình ên thôi! Đừng có nói cho con Nhu nghe chuyện nầy, mắc công nó nghĩ ngợi lung tung không tốt.
Thím Chín nói:
-Thích thì mua xài chớ lấy của họ làm chi. Để tui gởi chị Bảy đưa trả giùm.
Chú Chín bắt lỗi:
-Người ta đưa bà thì bà trả cho người ta, mắc gì phải nhờ chị Bảy cho kéo dây kéo nhợ ra tùm lum. Tới tai người nầy người kia cho sanh thêm chuyện.
Thím Chín cự:
-Bộ tui còn con nít hay sao mà hổng biết cách xử sự? Tại họ hổng có đưa cho tui, đưa qua tay chị Bảy, thì bây giờ tui đưa cho chị Bảy nhờ trả lại là phải thế lắm rồi!
Chú lật đật xuống nước:
-Tui đâu có biết là như vậy! Bà đưa chị Bảy là đúng đó!
Thấy thím còn quạu chú vội đổi đề tài:
-Bữa nào bà theo con Nhu đi khám một lần cho chắc ăn. Mình cũng lớn tuổi rồi, đừng có ỷ y.
Thím trề môi:
-Chờ ông nhắc chắc tui đi đẻ mắc tiêu rồi.
Chú giựt mình:
-Bà đi hồi nào mà tui hổng hay?
Thím trả lời:
-Cái bữa ông đi ăn đám cưới ở Cải Dầu. Tui không chịu đi theo là để ghé Châu Đốc đó, ông nhớ hông?
Chú gật đầu:
-Thì ra là vậy?
Thím nói tiếp:
-Tui tính đi thẳng vô nhà thương lớn cho chắc ăn. Chừng tới đó tui hết hồn luôn ông ơi!
Chú Chín ngạc nhiên:
-Có cái gì ở trỏng mà bà hết hồn?
Thím chắc lưỡi:
-Người ta đi phá thai rần rần, giữa ban ngày, ban mặt luôn.
Chú Chín cười:
-Thì bây giờ cái chuyện đó được nhà nước cho phép mà, đâu có cấm cản gì đâu mà phải làm lén lút.
Thím thở dài:
-Tui đi khám coi ra làm sao mà họ tưởng là tui đi bỏ. Họ rầy tui dữ quá, nói hơn ba tháng rồi nạo bỏ nguy hiểm lắm, biểu tui về rồi hai tháng sau lại chích thuốc vô đặng đẻ non. Tui nghe mà hai cái đầu gối run lập cập, nói với mấy cổ là tui để sanh chớ đâu có bỏ.
Chú Chín trợn mắt:
-Chèng đéc ơi! Sao mà bà xớn xác dữ vậy, may hông thôi... Rồi sao nữa?
Thím để tay lên ngực, nói tiếp:
-Mấy cổ cự tui dữ quá! Nói ở cái tuổi nầy mà đẻ làm chi, không tốt, rồi hỏi tui coi có được mấy đứa con. Tui nói mới có một đứa thôi, cái họ nói "vậy thì được". Rồi họ lấy cái ống nghe đặt lên ngực tui, nghe một lát rồi nói là cái thai mạnh lắm. Họ đưa cái giấy biểu tui đi lấy máu để thử. Tui sợ quá, ra khỏi cái phòng đó là đi thẳng ra bến đò về nhà luôn. Tính ra chợ mua vải về may tả mà tại sợ mất hồn, mất vía nên quên tuốt luốt.
Chú Chín nói giọng tiếc rẻ:
-Phải bà nán lại mà xin bác sĩ cái toa thuốc bổ thai đặng mua về uống.
Rồi chú nhắc:
-Sao tui chưa thấy bà mua nếp than về làm cơm rượu?
Thím Chín nói:
-Còn sớm mà!
Chú hỏi:
-Bộ hổng phải làm xong còn phải chôn xuống đất để càng lâu, càng tốt sao?
Thím Chín lắc đầu:
-Mỗi người mỗi kiểu. Bà ngoại con Nhu hồi đó có dặn kỹ càng. Rượu làm xong đậy nấp cho thiệt kín, đem chôn đúng một trăm ngày lấy lên xài là tốt nhứt, để lâu quá cái chất âm dư cũng không có tốt.
Chú Chín chắc lưỡi:
-Bà ngoại sắp nhỏ làm rượu nếp than ngon hết biết! Hồi đó bà có cho tui uống thử mấy lần. Tui rót tới phân nửa cái ly xây chừng thôi mà vừa uống qua khỏi cổ là máu chạy rần rần, người nóng rang. Bà uống hết cái hủ rượu đó nên bổ không biết bao nhiêu mà nói! Sữa lên đầy nhóc tới nổi con Nhu vừa bú vừa sặc. Cái thứ rượu gì mà ngon quá mạng, bây giờ nhắc lại tui cũng còn thèm.
Nhiệt tình đang dâng cao ngùn ngụt. Hôm sau chú Chín đốn cây gòn dưới bờ sông rồi kêu người đến cưa ra thành ván để ngăn đôi cái buồng.
Chú đem mấy tấm ván ra phơi nắng, trở qua trở lại cho nó không bị cong vểnh một bên. Phục thấy chú loay hoay một mình thì nhảy vào góp một tay.
Vừa bợ một đầu ván để nhấc lên, chàng vừa hỏi:
-Phơi ván chi vậy chú Chín?
Chú Chín cười:
-Cưa để sẵn đó vài tháng sau mới đem ra xài.
Phục hỏi:
-Bộ chú tính sửa nhà hả?
Chú lắc đầu:
-Để dành lót ổ cho bả với con Nhu.
Phục chới với:
-Bộ chú với anh Nghệ sắp có thêm một đứa nữa sao?
Chú Chín gật đầu. Thấy Phục có vẻ bán tín, bán nghi chú ngỡ y không tin vào cái "bản lĩnh đàn ông" của mình, nên vừa giải thích vừa tâm sự:
-Ông trời ngẫm ra mà có cái tánh lắc léo hơn ai hết. Hồi trước chú trông có thêm một đứa con trai gần chết, mà chờ từ năm nầy qua năm khác, không thấy nó chui ra. Chú với thím rầu hết biết! Mạnh ai nấy lo hỏi thăm. Hết người nầy chỉ thuốc rồi tới người nọ chỉ thầy. Ai mách cái gì là làm liền cái nấy, từ chuyện ăn uống, làm phước cho tới đi chùa. Chùa Lá, chùa Ngói, chùa Ông, chùa Bà...gì gì cũng đi ráo! Lạy gần muốn sói trán mà ổng không thèm ngó. Bây giờ già cúp bình thiếc, không cầu không thỉnh nữa cái tự nhiên ổng thảy đại vô nhà, cho một lần hai cục, đứa con, đứa cháu. Hỏi coi có mắc cười hông?
Phục buột miệng:
-Chú thì đã đành, còn anh Nghệ thì làm sao mà có con cho được?
Chú Chín cười hô hố:
-Cái thằng nầy nói nghe ngộ dữ! Tao hết xíu quách rồi mà còn đúc nổi một đứa. Nó đang độ trai tráng, máy còn tốt quá mạng mà thua sao?
Phục nghe chú Chín hỏi như vậy thì giựt bắn mình, lật đật bào chửa:
-Tại cháu nghe ảnh nói chờ cho thằng Nhân lớn lớn một chút rồi mới tính.
Chú Chín cười còn to hơn:
-Bây chưa có vợ nên không biết. Ba cái chuyện đó khó mà giữ lời hứa lắm!
Câu chuyện vừa nghe được như cây dầm ghim sâu vào tay rồi mắc kẹt luôn trong đó. Nó khiến Phục đau xót, bức rức không thể chịu nổi.
Chiều hôm ấy Phục kêu đói bụng, hối dì Sáu nấu cơm sớm sớm.
Dì Sáu lật đật đi làm mấy con cá rô để nấu món canh chua bông súng. Cá tươi còn bông súng non xèo, mới hái bẻ nghe cóc cóc.
Dì biết Phục ưa món canh chua nầy nhứt hạng nên ráng o cái nồi canh. Dì chịu khó ngâm me trước, đem nhồi chỉ lấy nước trong rồi bỏ xác, sợ thả vô luôn thì cái hột của nó sẽ ra nước chát ngầm, mất ngon. Dì ra cái giàn rau của thím Chín ngắt mấy lá rau tần đem vô nêm. Canh chua cá rô, nêm rau tần là đúng điệu nhứt!
Canh sôi ục ục, dì cho muối đường vô nếm cho vừa miệng rồi thả cá vào, kế đó bỏ tiếp bông súng. Dì múc canh ra tô rồi mới cho rau tần xắt nhuyễn vô, tô canh liền thơm lừng. Màu lục của rau tần bỗng xanh thẫm lại, khiến những lát ớt nằm bên trên cùng trông càng nóng đỏ, điệu đà, hấp dẫn!
Đặt mâm cơm lên chõng dì Sáu bảo Phục:
-Ăn cho hết cái tô canh nầy nghe đừng có chừa, má ăn chay.
Rồi không bỏ đi mà ngồi ghé một bên nhìn Phục ăn, trong bụng chắc mẫm sẽ được trông thấy nét mặt rạng rỡ và nghe những lời khen ngợi.
Chờ hoài không nghe Phục nói tiếng nào, dì hỏi:
-Canh má nêm như vậy có vừa miệng hông?
Phục chợt nhớ ra, liền gật đầu:
-Ngon lắm má!
Rồi hỏi:
-Sao má hổng ăn luôn?
Dì Sáu lắc đầu:
-Má chờ con Nhạn về ăn chung cho nó vui!
Thấy Phục ăn chỉ một chén rồi xá đũa. Dì hỏi, giọng buồn thiu:
-Sao nói đói bụng mà ăn ít quá vậy?
Phục chống chế:
-Chắc tại nuốt lẹ quá nên no ngang. Má đừng lo, lát về con ăn nữa.
Nói xong liền đứng lên bước thẳng ra cái lu ngoài hàng ba, múc một gáo nước đầy, xúc, rửa miệng rồi xách cây đờn đi xăm xăm ra cổng.
Dì Sáu kêu lại hỏi:
-Mới ăn xong mà đi đâu đó!
Phục không dừng bước, chỉ ngoái đầu lại