← Quay lại trang sách

- 9 -

Cam giả bộ tài tình quá khiến dì Hai tin là cô ngủ ngon chẳng nghe được gì ráo. Dì xét thấy không cần dặn dò cô phải hàn kín cái miệng lại.

Ngay sáng hôm sau Cam liền thông báo cho mấy chị em trong nhà của mình biết về cái tin "giựt gân" đó mà không một chút e dè, cũng không yêu cầu họ phải giữ kín. Cô cũng không quên nhín chút thời giờ báo liền cho mấy người bạn thân của mình. Chị em của Cam cũng làm y chang như cô vậy.

Thế là cái đám cưới bí mật tuyệt đối của dì Sáu và thầy Bảy bị bật mí banh chành.

Cái tin nóng hổi vừa thổi vừa nghe đó nhanh chóng được bà con khắp xóm rỉ tai nhau. Họ nói thật nhỏ nên mắt phải mở to hết cỡ để trợ lực thêm cho hai cái lỗ tai đang dựng đứng. Nó mang tính cách "vô tiền khoáng hậu" nên ai mà biết được thì mừng như có của quý. Ngay lập tức họ nghe ngứa ngáy toàn thân, chẳng thể nào giữ riêng cho mình mà phải đem khoe mới hả lòng, hả dạ.

Cô Tám "tự nhiên"(gọi là vậy vì trong bất cứ câu nói nào cô cũng chen chữ "tự nhiên" vào cho bằng được, dù nghe chẳng "tự nhiên" chút nào), vừa nghe xong là xách nón đi cái vù qua nhà dì Sáu Lữ liền. Dì Sáu Lữ gặp cô cũng mừng tới nhảy dựng lên.

Cả hai nói một lượt:

-Chị biết tin gì chưa, chị Sáu với thầy Bảy...

Hóa ra họ đều vừa nghe tin đó nên cùng nôn nóng gặp nhau.

Niềm vui của họ bị "lợn cợn" vì phát hiện mình không phải là người biết trước.

Cả xóm đều háo hức chờ đợi đến ngày ấy, ai cũng muốn chứng kiến tận mắt sự kiện đặc biệt đó. Khi đi mời (ở quê bà con chưa dùng đến thiệp, chỉ cần mời "miệng" là đủ) khách đến dự đám cưới, dì Sáu đi ngang qua nhà mợ Hai Thọ mà không ghé vào (dì không định mời mợ Hai vì sợ bị bà con chê trèo cao), liền bị mợ Hai chạy ra kêu lại mà hỏi:

-Ủa chị Sáu đi mời đám cưới hả? Bộ chê tui nghèo hổng có tiền mừng hay sao mà không...

Dì Sáu lật đật chống chế:

-Đâu có, đâu có! Tại tui thấy nhà chị buông tấm sáo kín mít nên nghĩ chắc cả nhà đang ngủ. Tui hổng dám phá cái giấc trưa, định bụng chiều mới ghé!

Để không phụ lòng bà con, dì phải ghé từng nhà, cái danh sách khách mời cứ tiếp tục dài ra. Ai được mời cũng tỏ vẻ vui mừng, hí hửng, kể cả những người dì chỉ tiếp xúc vài lần.

Dì Sáu vô cùng cảm động và ngạc nhiên trước những tấm thạnh tình ấy. Xem ra dì là người duy nhứt không biết chút xíu nào về cái đám cưới của mình.

Đúng ngày rằm, ngay sáng sớm, chiếc tàu rước dâu được gắn mấy sợi dây giăng từ cột cờ ra tận mũi và sau lái với vô số lá cờ nhỏ hình tam giác đủ màu, đã đậu sẵn dưới bến. Cái "bích cúp" trên tàu phát ra toàn những bài vọng cổ mùi mẩn. Một đám con nít, trai có, gái có, đứng hoặc ngồi chồm hổm trên bờ đăm đăm nhìn xuống. Đứa thì dỏng tai nghe, đứa thì đưa ngón tay trỏ vừa chỉ vừa đếm từng cây cờ. Mấy đứa con trai nghịch ngợm lượm mấy cục đá trên mặt đường ném xuống sông cho nước văng lên tàu chơi, báo hại ông tài công phải rát họng la rầy từng chập.

Đến giờ rước dâu, đoàn người ăn mặc lịch sự bắt đầu xuất hành. Đi đầu là chú Chín rồi tới Phục, chú rể phụ, dì Sáu, các cô bác lớn tuổi, những đôi vợ chồng đề huề... Mấy cô gái xinh đẹp mặc áo dài đủ màu, mỗi cô bưng một cái xửng có phủ vải đỏ bên trên. Tất cả đều bước một cách trịnh trọng giữa hai hàng con nít chen chúc đứng trố mắt nhìn thò lõ.

Thím Chín và Nhu đứng trong nhà nhìn ra. Thím Chín xúc động đến nghẹn ngào. Cái đám cưới long trọng nầy là do công của thím. Dì Sáu, nhân vật chánh hôm nay, trẻ ra hơn chục tuổi, đẹp đến bất ngờ với áo quần và trang sức hực hở cũng nhờ công của thím.

Những lời trầm trồ, khen ngợi lao xao vang đến bên tai như để ca ngợi cho riêng thím, khiến thím sung sướng đến rưng rưng nước mắt.

Chiếc tàu nổ máy tành tạch rồi từ từ xa dần. Thím Chín lê tấm thân nặng nề bước ra bờ sông đứng nhìn theo mãi miết. Bên cạnh thím, cái đám con nít cũng chưa chịu giải tán. Chúng lao xao phê bình, so sánh coi ai đẹp nhứt trong cái đám rước dâu.

Rồi tụi nhỏ cũng bỏ đi từ từ, chỉ còn lại trên bến sông, một mình thím Chín cứ đứng chôn chưn một chỗ, mắt đăm đăm ngó về một phía.

Khoảng ba tiếng đồng hồ sau tiếng máy tàu "tành tạch" nghe ngày một rõ dần. Đám con nít trong xóm, những đứa ban nãy, lại gọi nhau ríu rít:

-Tàu rước dâu về rồi tụi bây ơi!

Chúng lại chen nhau bu kín bến sông, đông còn hơn lần trước.

Đoàn người khi về dài gấp đôi lúc đi. Họ cũng được chào mừng rôm rả hơn gấp mấy lần.

Nhân vật quan trọng nhứt, cô dâu, tạo ra một điều bất ngờ hết sức thú vị: Cô không mặc chiếc áo dài bình thường mà mặc cái áo đầm bằng sa ten trắng muốt.

Hai chiếc bàn lớn giữa nhà, nơi trang trọng nhứt, được dành cho họ hàng hai bên. Cô dâu chú rể không được ngồi vào đó, mà phải đứng sau lưng cậu Hai Thọ, trên chiếc chiếu bông trải trước bàn thờ chờ lạy.

Công việc đầu tiên và thiêng liêng nhứt là đốt hai cây đèn cầy cắm lên bàn thờ.

Trước đó vì không định mời gia đình cậu Hai Thọ nên chú Chín được giao nhiệm vụ nầy. Chú Chín nhường việc lên đôi đèn lại cho cậu Hai, người có đông hào con, nhiều hào của nhứt trong xóm.

Cậu Hai Thọ ít chịu lên đèn cho ai, kể cả chòm xóm láng giềng hoặc họ hàng ruột thịt. Chắc nể nang chú thím Chín dữ lắm nên ổng mới nhận lời.

Công việc nầy tuy tăng thêm uy tín cho người đảm nhiệm, bởi bà con thường chọn những người hội đủ ba tiêu chuẩn: Phước, lộc, thọ. Thế nhưng ít người đàn ông nào (việc nầy hoàn toàn giao phó cho nam giới, phần lớn là các cụ ông) dám nhận vì họ sợ bị đổ thừa, bởi việc lên đôi đèn được tâm linh hóa nhiều lắm. Bà con thường căn cứ vào độ cháy lu hay tỏ, lâu hay mau, đều hoặc không...đó để đoán xem cô dâu và chú rể ai sống lâu hơn ai. Hể ngọn đèn bên tay trái tắt trước bên tay phải thì người ta đinh ninh là cô dâu về lâu, về dài phải chịu cảnh góa chồng.

Thời chinh chiến có nhiều cuộc hôn nhân gãy đổ vì thời cuộc. Người thấu hiểu thì không nói gì, kẻ mê tín thì hay cho rằng tại người lên đèn nặng bóng vía hoặc làm không đúng phép tắc nên bị thánh thần trừng phạt.

Cậu Hai chập hai cây đèn cầy lại để đốt một lượt, sao cho chúng cháy đều như nhau. Cậu đưa cặp đèn lên trán khấn khứa một hồi rồi mới cặm vào hai chưn đèn của cái bộ lư bằng đồng. Cậu đốt ba cây nhang xá ba cái cắm vào lư hương, xong xuôi đốt thêm hai cây nữa để đưa cho chú rể một, cô dâu một.

Cậu nói:

-Tụi con lạy cữu huyền đi.

Cái màn lạy nầy chú rể chiếm vai trò quan trọng nhứt. Các bậc trưởng bối bên đàng gái chăm chú nhìn từng động tác đứng lên, vòng tay, quỳ xuống ấy để đánh giá dân tình trong xóm biết lể nghi, phép tắc...nhiều hay ít. Cho nên các chú rể phải tập lạy trước ngày cưới có khi đến cả tháng.

Ở phía nhà gái thì cái màn hái cau, lấy trầu mới được nhiều người chú ý. Cái mâm trầu phủ tấm vải đỏ mà đàng trai bưng qua được để ngay chính giữa, trước mặt bàn thờ. Cô dâu và chú rể phải tranh nhau thò tay vào hái cau, lấy trầu. Số trầu cau nầy được để vào dĩa rồi đặt lên bàn thờ.

Bà con cho rằng ai ra tay nhanh nhất sẽ nắm quyền người kia, cho nên cả hai cùng hấp tấp, sao cho nhanh hơn, nhiều hơn đối phương. Có đôi tin thiệt, có đôi chỉ cốt ghẹo nhau. Họ luýnh qua, luýnh quýnh trông rất mắc cười.

Xong việc lể bái, mấy cái quả được đem vô nhà sau, lễ vật trong đó được chia ra bốn phần, đàng gái giữ ba, lại quả cho đàng trai một. Riêng cái mâm trầu là không ai được động vào. Tấm vải đỏ phủ lên nó phải được giữ y cho đến ba ngày sau, khi chú rể đưa cô dâu về "phản bái", cả hai phải làm lễ trước bàn thờ cữu huyền một lần nữa rồi mới cùng giở ra. Vì vậy ngày nầy còn được gọi là ngày lễ "giở mâm trầu".

Sau màn lạy bàn thờ và ra mắt họ hàng của cô dâu chú rể, giây phút mong đợi của bà con rồi cũng đến. Chú Chín cầm một cái bao thơ dày cui đưa cho Phục và nói:

-Đây là số tiền chợ mà thầy Bảy nộp cho đàng gái để xin rước má con là chị Sáu đây về làm vợ của thầy. Số nữ trang gồm có một sợi dây chuyền hai chỉ có gắn cái mặt cẩm thạch hình trái bí. Hai tấm lắc, một trơn hai chỉ, một nhận hột hai chỉ rưởi. Hai chiếc cà rá mỗi cái một chỉ. Tất cả đều được giao trước và chị Sáu đang đeo.

Rồi chú kéo thầy Bảy, đang đứng sau lưng mình từ lúc bắt đầu làm lễ, ra trước mặt. Chú cầm tay của dì Sáu đặt vào tay thẩy rồi đẩy ổng xáp lại sát bên dì Sáu.

Chú nói, giọng rất trịnh trọng:

-Bắt đầu từ lúc nầy, hai anh chị là vợ chồng rồi đó!

Bà con ồ lên trầm trồ, rất ít người tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ mình ên dì Sáu là chới với như bị trời trồng. Cái vẻ mặt sững sờ ấy, được bà con cho rằng, đó chính là biểu hiện của niềm vui tột bực và nỗi e thẹn chín mùi của một cô dâu tuy đã qua cái tuổi cập kê quá sức lâu!

Cả chục năm sau và cho đến bây giờ... Cái xóm cầu Ván vẫn còn nhắc nhau và kể cho người khác về cái đám cưới kép nổi đình, nổi đám đó.

Họ kể với một niềm tự hào bởi chắc chắn rằng trước đây chưa có và sau nầy cũng không. Mãi mãi chẳng nơi nào có được một sự kiện đặc biệt như cái xóm của họ!

Nó quá sức đặc biệt bởi nhiều thứ xuất hiện lần đầu: Lần đầu tiên trong một gia đình có đến hai đám cưới cử hành một lượt. Lần đầu tiên mẹ đi lấy chồng và con trai lấy vợ cùng một lúc. Lần đầu tiên cô dâu không mặc áo dài mà mặc cái "xoa rê" to đùng với cái thân trên bó rọ lòi cả hai cánh tay, còn thân dưới thì rộng rinh và dài mút mắt cá.

Người ta dồn hết sự chú ý vào nhân vật và sự kiện cho đến nỗi bỏ qua lời khen ngợi về những món chay có cái tên rất gợi cảm như thịt heo quay kho chao đỏ, vịt tiềm bát bửu, nem chay, gỏi gà xé phai...do thím Chín thực hiện hết sức công phu, có mùi vị y như món mặn.

Thím Chín chẳng lấy thế làm buồn, bởi thím vô cùng mãn nguyện khi sau bữa tiệc, dì Sáu đã chịu riu ríu theo thầy Bảy về lạy bàn thờ nhà ổng và để cho Nguyên gọi dì là má.

Ngay khi nhiệm vụ hoàn thành, tối hôm ấy thím Chín liền trở dạ. Dì Sáu tạm gác chuyện động phòng, suốt đêm đó dì kè kè bên cạnh thím Chín để lo cho thím như lời đã hứa.

Thầy Bảy đưa dì đến rồi cũng ở lại để tiếp một tay.

Cô dâu, chú rể trẻ, mới tinh, cũng tạm hoãn binh để túc trực bên nhà chú Chín.

Ai cũng lăng xăng lo lắng, nhứt là chú Chín, chỉ mỗi mình thím Chín là tỉnh rụi, không biết để trấn an mọi người hay do thím quá tự tin vào nội lực của mình.

Cũng như hầu hết bà con nông thôn, thím Chín rất sợ đến nhà thương. Một phần do đa số nhân viên ở đó đều mang gương mặt bình tĩnh đến độ vô cảm, phần khác những người chơn chất ấy rất ngại tiếp xúc với những tầng lớp được họ xem là thượng lưu, trí thức. Thím Chín, vốn có lòng tự trọng hơn người, không thích bị ai la rầy nên đòi sanh tại nhà.

Ngày trước khi sanh Nhu thím được bà mụ Thậm đỡ đẻ trót lọt, nên dù cả gia đình và thầy Bảy thuyết phục, thím vẫn cuơng quyết không chịu đi nhà thuơng.

Thầy Bảy lấy chiếc xe hon đa đi rước bà mụ ở tận Chợ Vàm. Bà mụ Thậm đã già lắm rồi! Mắt mờ tay run nên dắt theo cô con gái, trợ thủ đắc lực của mình.

Chiếc xe tống ba, chạy vù vù nên cả hai người ngồi phía sau đều vòng tay ôm cái eo của ông thầy Bảy chặt cứng. Đến trước cửa ổng thắng lại một cái ét cho họ bước xuống rồi thở gấp mấy hơi.

Thím Chín không đau bụng nhiều lắm, chỉ nghe nhức nhức cái lưng, nên rất an tâm. Các thai phụ thường cho rằng đau lưng là dấu hiệu nhau đang tróc, sanh rất lẹ.

Bà mụ Thậm lấy hai bàn tay sờ soạn, mân mê cái bụng của thím xem thai nhi đã trở đầu chưa.

Bà căn dặn:

-Khoan có rặn à nghe! Chừng nào tui biểu hãy làm.

Thím Chín không trả lời chỉ gật đầu ra vẻ đã hiểu.

Ở nhà ngoài chú Chín đi tới đi lui một cách bức rức, bồn chồn. Nghệ, thầy Bảy và Phục thì ngồi im ru trước mấy tách trà nguội ngắt, còn đầy tới miệng.

Trong bếp Nhạn, Nhu, Tím cũng ngồi cạnh nhau bên cái bếp lò đỏ rực với nồi nước đang sôi sùng sục bên trên. Họ chẳng có hứng thú trò chuyện, lắng tai nghe tiếng thở nặng nhọc của thím Chín từ trong buồng đưa ra bằng nét mặt lo âu.

Bỗng họ nghe tiếng bà mụ Thậm thúc:

-Rặn đi!

Thím Chín mím cả mũi lẫn miệng, ém hết hơi lại rồi dùng hết sức bình sanh để dồn nó xuống dưới, hầu trục xuất cái đứa cứng đầu đang nằm ì trong đó.

Lần đầu thất bại, thím dừng lại và thở dốc.

Bà mụ Thậm an ủi:

-Ráng một chút xíu nữa thôi, nó sắp ra rồi. Tui sờ trúng cái đầu đây nè!

Thím Chín rướn người, hít một hơi thật sâu rồi lập lại động tác cũ. Lần nầy cũng không thành công.

Bà mụ Thậm lại lấy tay xoa bụng thím.

Bà kêu con gái:

-Út! Con gãi nhè nhẹ lên chỗ nầy để cái dạ con nó nhột mà gò cho dữ.

Thím Chín đã thấm mệt, trán thím lấm tấm mồ hôi. Dì Sáu lấy cái khăn mặt mới tinh còn trắng bóc lau cho thím. Đôi mắt dì nhìn thím một cách xót xa, bàn tay dì bóp chặt tay thím như cố truyền hết sức lực của mình qua đó!

Bà mụ Thậm vẫn tỏ vẻ bình tĩnh.

Bà nói, giọng dỗ dành:

-Lần nầy chắc chắn là được, ráng lên đi em!

Một cơn đau ập đến, thím Chín bất giác kêu thất thanh:

-Má ơi!

Cái tiếng gọi thiêng liêng đầy tha thiết từ một người đã làm bà ấy, đã mang đến một niềm tin và sức mạnh kỳ diệu! Lần nầy cả đứa bé lẫn lá nhau cùng xổ ra một lượt.

Có tiếng khóc oe oe và giọng dì Sáu kêu to đầy phấn khởi:

-Con trai.

Gương mặt chú Chín giản ra, một nụ cười gắn liền trên đó.

Bà mụ Thậm bỗng kêu thất thanh:

-Băng huyết rồi, ông thầy Bảy ơi!

Thầy Bảy đã dự trù trước trường hợp nầy. Ổng vớ cái ống thuốc đã luộc trong nước sôi, lập tức gắn vào nó một cây kim được sát trùng cẩn thận. Ổng bẻ ống thuốc cái rốp, cho liền mũi kim vào rút một cái ót, đưa lên ngang mặt, nhấn cái bít tông cho mấy giọt nước rơi ra để loại bỏ không khí rồi lụi vô đùi thím Chín liền.

Ổng vừa bước ra là chú Chín hỏi liền:

-Có sao hông thầy? Có cần chở đi nhà thương liền hông?

Thầy Bảy lắc đầu:

-Máu ra cũng không nhiều lắm! Cái thuốc nầy cầm máu rất hay, để coi có bớt hông cái đã.

Ngay lúc đó bà mụ Thậm cũng móc trong túi ra gói cỏ mực đưa cho con gái. Cô ta không hỏi han gì hết, có lẽ họ đã xử lý tình huống băng huyết nầy rất nhiều lần.

Cô Út bước vô nhà bếp, vừa đưa cho Nhạn, vừa ra lịnh:

-Đâm cái nầy cho nát, rồi vắt nước vô chén, làm rút rút lên!

Nhạn chụp lấy rồi hỏi:

-Có rửa trước hông?

Cổ lắc đầu:

-Rửa sẵn rồi!

Quay sang Tím cô hối:

-Đốt liền cái vỏ dừa khô, đem than hòa vô nước, gạn lấy nước trong non nửa chén, trộn chung với nước cỏ mực rồi đem vô buồng đưa cho tui!

Bắt đầu từ lúc đó không khí trong nhà bỗng trở nên hết sức khẩn trương.

Dì Sáu lật đật rút cái mớ giấy súc thấm máu ướt nhẹp dưới người của thím Chín ra, bỏ vào cái xô đựng rác rồi thay vào đó một xấp giấy mới.

Bà mụ Thậm lấy cây kéo đang ngâm trong nước sôi ra, lau khô. Bà cắt sợi dây nối liền rún đứa nhỏ với bánh nhau một đoạn dài dài rồi cột gút lại.

Cái thau chứa bánh nhau được đưa ra ngoài. Chú Chín cầm lấy rồi đem chôn dưới gốc bui tầm vông.

Khi trở vô chú sai Phục:

-Con đập cửa cô Năm mua một chai la de cho chú:

Phục ngớ người kinh ngạc, lầm bầm trong bụng:

-Cha nội nầy bộ mừng quá đâm khùng hay sao, nhè lúc nầy mà...

Chú Chín liền giải thích:

-Tắm cho thằng nhỏ.

Không hiểu ai phát minh cái trò tắm bia mà nhà nào có thai phụ sắp sanh cũng mua bia trữ sẵn. Mấy đứa nhỏ vừa mới chào đời là đã tắm trong bia. Cho nên cái thế hệ sau nầy uống bia cao hơn lớp trước nhiều lắm!

Chú nói tiếp:

-Thím Chín bây sanh hơi đột ngột nên chú chưa kịp chuẩn bị.

Phục nghe vậy liền an tâm, ba chưn bốn cẳng chạy ra nhà cô Năm, xòe bàn tay vỗ bành bạch vô cánh cửa lá sách, miệng réo liên hồi:

-Cô Năm ơi! Cô Năm!

Cô Năm đang ngủ, nằm trong mùng hỏi vọng ra, giọng nhừa nhựa:

-Ai đó?

Phục hấp tấp đáp:

-Con là thằng Phục nè!

Cô hỏi, giọng xẳng lè:

-Mua món gì?

Phục van nài:

-Cô bán cho con một chai la de con cọp.

Cô Năm tràn trề bất mãn, từ chối phắt:

-Nhậu cái giống gì mà lựa cái giờ bất nhơn dữ vậy bây...

Phục ngắt ngang:

-Hổng phải đâu cô Năm ơi! Thím Chín đẻ rồi, mua bia về để tắm cho thằng nhỏ.

Cô Năm luýnh quýnh:

-Mèn đéc ơi! Vậy mà tao tưởng... Chờ chút xíu nhe!

Cô không kịp xỏ chưn vô dép, chạy bay ra kệ, không cần đốt đèn mà vẫn lấy trúng phóc. Cô mở cửa đưa chai bia cho Phục.

Phục hỏi:

-Bao nhiêu...

Cô Năm xua tay:

-Đem về liền đi, mai mốt tính!

Phục vừa đi vừa chạy, về tới nhà là đưa liền cho chú Chín.

Chú Chín cầm lấy rồi chưng hửng:

-Sao không nhờ cổ khui luôn?

Phục không nói không rằng, giựt chai bia lại rồi kê vô miệng. Y dùng hai hàm răng cắn chặt cái nắp bia rồi kéo nó bật lên cái một!

Chú Chín không bước vô buồng, chỉ lòn tay đưa vô mà nói:

-Lấy cái nầy mà tắm cho thằng con tui nè!

Dì Sáu lật đật chụp lấy rồi đưa cho bà mụ Thậm. Bà dốc chai rót hết vào thau nước rồi nhúng đứa nhỏ vô.

Tím bưng chén thuốc bước vào buồng đưa cho bà mụ. Bà không cho thím Chín ngồi dậy uống, bắt nằm bất động, không được nhúng nhích, cục cựa gì hết! Đích thân bà múc từng muỗng nước đổ vào miệng thím Chín. Để thím không sặc -điều nầy vô cùng nguy hiểm- bà múc mỗi lần chưa tới nửa muỗng, vừa đút, vừa nói:

-Nuốt từ từ thôi, không nổi thì lè ra, đừng có ráng.

Những tia máu phún ra từ từ chậm lại rồi ngưng bặt. Bà mụ thở ra một cách nhẹ nhỏm.

Bà nói một cách tự hào:

-Cái thứ cỏ mực với tro vỏ dừa nầy coi vậy mà cầm máu hay số một!

Dì Sáu lật đật chạy ra báo với thầy Bảy:

-Hết ra máu rồi!

Ổng đáp bằng cái giọng tuy cố làm ra vẻ thản nhiên, nhưng vẫn mang nặng mùi tự đắc:

-Chớ sao! Cái ống thuốc của tui là loại cầm máu hiệu nghiệm nhứt đó!

Đúng chín ngày sau Nhu cũng bắt kịp thím Chín. Lần nầy Nghệ nhứt quyết không để vợ sanh tại nhà mà đưa thẳng lên nhà thương Tân Châu.

Mấy mẹ con dì Sáu tạm thời phân chia công tác: Nhạn được "biệt phái" theo Nhu vào bệnh viện; Dì Sáu vẫn túc trực bên thím Chín; Tím lo đi chợ nấu cơm cho Phục mang vào cho Nhu và Nhạn.

Mỗi ngày phải mang cơm hai buổi, gộp lại gần tám mươi cây số, nên thầy Bảy cho Phục mượn chiếc xe hon đa để đi cho lẹ, ít tốn thời giờ.

Bà con trong xóm đến thăm thím Chín đều đặn. Riêng mợ hai Thọ mỗi ngày đều có mặt. Mợ mang đến khi thì hộp phấn có cái tên dài thòn bằng tiếng Mỹ, khi thì chai dầu xanh (lần nầy thím Chín chẳng những không từ chối mà còn cám ơn rối rít), khi thì mấy thanh sô cô la mà mợ luôn miệng quảng cáo là ngon và bổ thượng hạng. Món nầy mới biết lần đầu mà thím Chín đã dành cho nó một mối cảm tình thắm thiết.

Còn có một loại kẹo dẹp lép có mùi bạc hà, dai nhách mà mợ dặn đi, dặn lại là nhai hết thơm, hết ngọt thì nhả bỏ, đừng có nuốt mà nghẹt ruột. Ban đầu thím Chín không dám ăn, cho tới một lần lấy ra nhai thử thấy sạch, thơm miệng đễ chịu quá thì đâm ghiền.

Chỉ duy nhứt cái món đựng trong hộp giấy tròn tròn, dẹp dẹp có hình con bò đeo bông là thím hổng ưa. Thím còn không ngửi được mùi của nó chớ nói gì bỏ vô miệng. Thím đưa hết cho dì Sáu, biểu dỉ mang về cho thầy Bảy.

Ông thầy Bảy mừng như bắt được vàng! Ổng nhét cái miếng hình tam giác trắng như bánh đúc đó vô ổ bánh mì rồi năn nỉ dì Sáu ăn thử.

Dì Sáu nể bụng chồng nên cũng ngoạm một miếng. Dì muốn nhả ra liền mà không dám, tại nghe ổng nói là thứ nầy quý lắm nên ráng trợn trắng, trợn dọc mà đẩy nó vô bao tử.

Thầy Bảy thấy nét mặt đau khổ của dì thì thở dài, chép miệng:

-Cái món ngon như vậy mà ăn sao coi bộ khổ sở quá! Nó đâu phải đồ thường, xứ mình ít ai được nếm? Món nầy là đồ tây, mắc lắm đó!

Dì Bảy lắc đầu:

-Đồ Tây, đồ U gì cũng hổng ham. Đồ ăn của họ làm sao bằng được đồ ăn của xứ mình. Thấy nó thua xa mấy thứ đường tán, đường thẻ.

Rồi dì lim dim con mắt mà nói:

-Chẳng thể nào ngon bằng nhai hai cái cùi chỏ của cái ổ bánh mì lò đầu còn nóng hổi, giòn khấu, với một cục đường móng trâu cắn nghe cóc cóc.

Thầy Bảy cười ghẹo:

-Cám ơn nghe! Vậy là hai cha con nhà nầy hưởng trọn.

Dì Sáu dặn dò:

-Ăn hết nhớ đưa lại cái hộp!

Thầy Bảy hỏi:

-Chi vậy?

Dì cười:

-Thấy nó đẹp thì cất để dành, đựng cái gì được thì đựng.

Thầy Bảy nhủ thầm trong bụng:

-"Sao mà mấy người phụ nữ họ giống nhau quá xá cỡ. Má thằng Nguyên ngày xưa cũng rửa lại từng cái bịch ni lông rồi đem phơi cho khô, xếp lại để dành".

Thầy hỏi tiếp:

-Nó nhỏ xíu, dẹp lép, đựng được cái giống gì?

Dì Sáu nói:

-Coi vậy chớ cũng đầy nhóc thứ bỏ vô lọt.

Dì xòe hết bàn tay, vừa liệt kê từng thứ vừa gập từng ngón một:

-Kim, chỉ nè! Bạc cắc nè! Mấy cái núc áo, kim tây nè...

Dì nói thêm:

-Hổng cần để đựng. Lâu lâu ngó cái hình con bò quá ngộ cũng thấy vui.

Thầy Bảy lại hỏi:

-Ở đâu mà có mấy thứ nầy vậy?

Dì đáp:

-Của chị Hai Thọ cho chị Chín. Chỉ hổng ăn nên cho lại.

Trong thời gian nầy, mấy câu đối đáp của dì Sáu và thầy Bảy thiếu hẳn các đại từ nhân xưng. Họ chưa biết thay cách gọi cũ bằng gì cho phải. Gọi "anh, em" giống tụi trẻ thì kỳ. Gọi "ông, bà" như những cặp vợ chồng lớn tuổi nghe lại có phần lạt lẽo.

Họ cứ phân vân, chưa lựa được tiếng thích hợp nên tạm thời cứ nói trống huơ, trống hoác. Cách nầy coi vậy mà hay đáo để. Cái chỗ bỏ trống đó luôn kích thích trí tưởng tượng của cả hai. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, khi thì họ bổ xung ngầm bằng những từ vô cùng âu yếm, khi thì ngược lại.

Từ ngày ưng thầy Bảy, ngoài nhận được sự chăm sóc, thương yêu của chồng, dì Sáu còn được bà con lối xóm trọng vọng hơn một chút. Điều nầy khiến dì càng mang ơn chú, thím Chín nên dốc hết sức ra săn sóc hai mẹ con thím.

Thím Chín chỉ cần nhìn mâm cơm hàng ngày, với những món mà dì Sáu luôn thay đổi để tạo cho thím cảm giác lạ và ngon miệng, là biết ngay là dì Sáu đã tận tụy với thím tới cỡ nào. Dì Sáu chịu khó ra vườn lựa rau, lựa trái cho đúng ý mình. Dì chọn trái đu đủ mỏ vịt, có cái vỏ hơi hườm hườm mà hái đặng đem hầm với giò heo (cái giò sau được dì cạo trắng bóc không còn một sợi lông), để thím ăn cho lợi sữa.

Ơ cá kho tiêu được dì để tâm nhiều nhất! Dì mua tiêu sọ, mỗi lần dùng đều chịu khó đem rửa sạch, rang lên cho thơm rồi mới đâm rắc vô. Mấy món rau lang, rau dền, rau rệu, rau chay, hành lá (mấy sản phụ được khuyến khích ăn hành luộc cho nhiều, ngược lại món hẹ chẳng bao giờ được góp mặt)... luộc, luôn xanh mướt, nóng hổi. Những miếng sườn cốt lết được dì nướng trên lửa than đỏ rực, quạt đến không còn chút khói, luôn tay trở đều nên vàng rượm, bóng lưỡng. Chúng thơm phức chẳng hề bị cháy đen hay bụi tro bám mặt nên vô cùng hấp dẩn.

Ngay cả gạo cũng được dì lựa ra từ hột cỏ, hột thóc... Dì dùng nồi đất để nấu, nhờ vậy mà thím Chín ăn đến cuối buổi, cái lớp cơm hông, cơm cháy vẫn giòn và cơm nạt vẫn nóng.

Chú Chín mang ơn dì Sáu nhứt ở việc dì chẳng cho chú đụng tay vào thứ gì kể cả phơi đồ. Vào thời buổi mà xà bông vừa cứng vừa sần sùi vì có cả cát lẫn sạn dính vào, vò không ra bọt... Chẳng biết dì giặt bằng cách nào mà mấy cái tả của thằng bé vẫn trắng tinh như mới, còn quần áo của thím Chín chẳng hề nghe những mùi đặc trưng của sản phụ như sữa, máu, dầu khuynh diệp... chút vào.

Dì bắt Phục mỗi ngày phải gánh nước đổ đầy mấy cái lu rồi lóng phèn cho thật trong để dùng vào việc giặt giũ. Dì đem cả thau đồ ra phơi ở chỗ nắng nhứt, kể cả đồ lót. Điều nầy bị bà con ngứa con mắt dữ lắm, bởi xưa nay mấy món "tế nhị" nầy đều bị nhét vào trong mấy cái góc tối hù. Theo lời thầy Bảy việc đó giúp những loại mốc sinh sôi nẩy nở, chúng là nguyên nhân tạo ra những căn bệnh hiểm nghèo của phụ nữ. Thế nên dì mặc kệ những lời dè biểu, cứ đem hết ra phơi ngoài nắng.

Những cái tả, cái khăn, áo quần... lấy từ dây phơi vào đều được dì giũ thật mạnh cho mấy con kiến hoặc bồ hung bám vào phải sút tay văng xa. Khi xếp lại dì còn kiểm tra rất kỹ bằng mắt, giũ thêm một lần nữa rồi vuốt thẳng và xếp thật ngay ngắn, trông chẳng khác như được ủi.

Dù không nói ra nhưng lòng biết ơn của thím Chín luôn được bộc lộ qua ánh mắt. Tình bạn của họ qua những giai đoạn như thế nầy càng được thắt chặt hơn.

Điều ấy đã khiến bà con lối xóm xúc động lây. Họ nhìn vào rồi dần cải thiện quan hệ với nhau, khiến không khí của xóm Cầu Ván thêm trong lành, ấm áp!

Nhu cầu nhận và cho của những người phụ nữ về lãnh vực tình cảm hầu như không có giới hạn.

Khi ở cái tuổi còn nhảy cò cò và bún dây thun, những cô bé gái và cơm còn rơi ra khỏi miệng ấy, trong những lúc chuyền tay từng khúc mía, củ khoai, hoặc khoác vai nhau vừa đi trên con đường cộ mát rượi vừa đọc: "Cập kè ăn muối mè ngồi xuống, ăn rau muống đứng lên"... Mặc dù vẫn giãy nãy khi bị ghẹo về chuyện chồng con, lại thường ngoéo tay, cam kết rằng sau nầy nhứt định phải làm sui với nhau cho bằng được.

Ở thím Chín điều nầy lại càng bức thiết!

Thím Chín "mê" dì Sáu đến độ muốn cả hai vượt qua cái tình bạn bình thường mà tiến xa hơn nữa, trở thành người một nhà mới ưng cái bụng.

Không biết thím cầu xin tha thiết tới cỡ nào mà các vị Phật và Quan thế âm Bồ tát cảm động, phù phép cho cái bụng của dì Sáu ngày một to dần.

Người mừng nhất lại không phải là thím và dì Sáu mà chính là thầy Bảy.

Khi chú Chín vỗ vai ổng bồm bộp mà nói:

-Máy móc ông coi bộ còn ngon lành dữ hén!

Ổng ngạc nhiên trố mắt nhìn chú, rồi hỏi:

-Ủa! Làm sao mà ông biết?

Bây giờ lại đến lượt chú Chín ngạc nhiên, chú hỏi lại:

-Bộ ông chưa hay sắp có thêm một đứa kêu mình bằng cha sao?

Thầy Bảy lắp bắp:

-Thiệt...hả?

Chú Chín lại hỏi tiếp:

-Bộ chị Sáu chưa...

Thầy Bảy lắc đầu:

-Không nghe bả nói gì hết!

Thầy không nén được, buột miệng hỏi một câu hết sức cắc cớ:

-Làm sao mà ông lại biết trước tui?

Chú Chín cười ngượng, đưa tay gãi đầu:

-Tui nghe má con Nhu nói hôm qua.

Thầy Bảy chợt nhớ ra, hình như mấy tháng nay "cái chuyện đó" của vợ chồng họ không hề bị gián đoạn.

Cả ngày hôm ấy thầy giống như đứa trẻ lượm được cái trứng gà trong cây rơm, thủ tay vô túi áo giữ hoài sợ bể, ráng chờ cho tới lúc bà má nấu cơm để bỏ vô luộc ké.

Tối đó, thầy đặt tay lên bụng của dì Sáu và hỏi:

-Nó ở trỏng phải hông?

Dì Sáu gật đầu.

Thầy nói giọng hờn mát:

-Vợ mình có bầu mà được chồng người ta cho hay, ngộ ghê!

Dì Sáu giải thích:

-Ai mà biết chị Chín tỏ con mắt dữ vậy! Ban đầu nghe bả nói hổng tin, tới chừng để ý mới biết!

Thầy Bảy còn chưa hết dỗi:

-Vậy sao hổng cho biết liền?

Dì Sáu nhắm mắt:

-Kỳ thấy mồ!

Vẻ mặt sượng sùng của dì Sáu làm thầy Bảy bị kích thích, vòng tay đang lơi bỗng siết chặt thân hình nhỏ bé của dỉ thêm chút nữa.

Ổng rút cái gối dưới đầu của dì Sáu ra, lòn cánh tay vào để thế chỗ, vừa ngậm hờ mấy sợi tóc mai của dì trên môi, ổng vừa nói bằng giọng mơ màng:

-Có khi nào là một cặp con gái không ta?

Dì Sáu cười:

-Một đứa còn mệt cầm canh, hai đứa ai mà mang nổi?

Dì hỏi tiếp sau mấy phút im lặng:

-Mà sao thích con gái dữ vậy? Nếu là hai đứa thì một trai, một gái có phải tốt hơn hông?

Thầy Bảy lắc đầu:

-Có con trai mệt lắm! Y như trồng tre, càng lớn càng nhiều gai góc. Có con gái như trồng một chậu bông, đẹp nhà đẹp cửa mà có khi còn nên thuốc!

Dì Sáu cố làm nghiêm mà không được, bật cười trước cách so sánh của ổng.

Dỉ vốn chiều chồng nên mấy tháng sau cũng cho ra đời một cô công chúa nhỏ.

Thím Chín giành công:

-Bà chúa Xứ của mình linh thiêng hết sức, hôm trước tui qua xin xăm bà phán liền là chị sanh con gái.

Dì Sáu hỏi lại, giọng ngờ vực:

-Bộ trong lá xăm có nói rõ ràng là tui sanh con gái sao chị?

Thím Chín cắt nghĩa:

-Trong xăm không có nói như vậy. Tại tui vái cho chị sanh con gái để gả cho thằng Nhỏ (thằng con trai của thím ở nhà được gọi là "Nhỏ"). Cái lá xăm đó có ghi chữ "thượng thượng". Ông thầy bàn xăm nói là tốt hạng nhứt, ai mà xin được nó là cầu cái gì được cái đó! Bởi vậy bây giờ chị mới sanh con gái, trúng phóc!

Thím dừng lại một chút rồi nói tiếp:

-Chẳng giấu gì chị, làm chuyện gì tui cũng qua hỏi ý bà, hể bà nói được là tui mới dám làm.

Thím suy nghĩ hồi lâu rồi nói tiếp:

-Con nhỏ nầy coi như của bà ban cho mình, mai mốt chị cứng cáp rồi, tụi mình phải bồng nó qua trình cho bà thấy với tạ lễ mới được.

Dì Sáu làm theo răm rắp. Thầy Bảy tuy không tin lắm nhưng cũng chiều vợ. Ngày thôi nôi bé Xíu, (cái tên nầy do thím Chín đặt), ổng quay một con heo đúng tạ đem qua cúng bà rồi mang về đãi hết bà con lối xóm!

Bé Xíu, con gái của dì Sáu, được hai mươi bốn tháng rồi mà Tím cũng chưa cấn thai. Dì Sáu lo ghê lắm. Dì có cảm giác như mình giành cái phần có con với cô con dâu vậy.

Dì cứ rủ thím Chín đi Châu đốc thăm bà hoài. Mấy món đem cúng thường được dì xin lại một ít mang về cho con dâu ăn lấy lộc, vậy mà Tím vẫn trơ trơ.

Khỏi phải nói là Tím buồn đến mức nào. Cô lén chồng đi hết thầy nầy đến thầy khác, uống đủ loại từ thuốc nam, thuốc bắc kể cả mấy lá bùa đốt thành tro đem hòa tan trong nước.

Cuối cùng Phục phải đưa vợ xuống Sài Gòn, tìm đến bệnh viện Từ Dũ, nơi nổi tiếng có bác sĩ trị cái bịnh chậm con giỏi nhứt, để khám.

Cái câu mà người phụ nữ lớn tuổi, đeo cặp kín trắng dày cui thông báo: " Vòi trứng bị nghẹt, không thể có con được" đã khiến Tím té xỉu liền tại chỗ!

Từ một phụ nữ tháo vát, vui tươi... căng tràn sức sống. Tím bỗng trở nên bạc nhược, mặt mũi chao vao. Phục nghe thương vợ quá đỗi. Chàng biết Tím lo mình không có con rồi bị chồng chê, chồng bỏ, nên cam đoan:

-Hổng có con để thương thì tụi mình càng rảnh rỗi để săn sóc và thương nhau bù lại. Anh không phải như người ta, lấy vợ chỉ vì muốn có con. Hể không được thì hất hủi, rẻ rúng.

Chàng cố tìm mọi cách nói cho Tím vui:

-Không con coi vậy mà sướng! Khỏi cần làm tới trầy da tróc vảy để nuôi tụi nó. Khỏi cần cắc củm từng đồng, thích gì làm nấy...Hổng chừng nhờ vậy mà sống lâu trăm tuổi.

Dì Sáu không dám để lộ vẻ thất vọng, dì khuyên:

-Tại cái số của con hổng phải cực với con nít. Không có con để thương thì nương vô cháu. Tụi con còn chị em, họ hàng đầy đàn, đầy đống... Mai mốt xin của mỗi người một đứa. Tới chừng đó không cần mang nặng đẻ đau cũng có một bầy loi choi, mặc sức mà nựng.

Bà con trong xóm cầu Ván, ai cũng tìm cách gặp Tím để an ủi. Thế nhưng chẳng thể nào xóa sạch nét ủ ê, chán nản trên gương mặt của cô.

Tím càng ngày càng gầy hẳn đi. Phục cũng vậy, chàng còn đau xót hơn vợ vì cho rằng mình bị trừng phạt vì đã phạm cái tội tày trời.

Nhạn dù tâm tâm, niệm niệm rằng suốt đời không thèm lấy chồng cũng cố an ủi chị dâu.

Cô hứa:

-Em mà có con thì nhứt định cho chị liền cái đứa đầu lòng của mình.

Tím nghe cô nói chắc lọi thì phì cười hỏi:

-Rủi chồng cô hổng chịu thì làm sao?

Nhạn nghênh mặt:

-Hổng chịu sao được? Con là do em đẻ ra chớ bộ!

Tím lắc đầu đáp:

-Để mai mốt rồi coi!

Ai cũng cho rằng cái câu "không lấy chồng" của Nhạn là nói cho vui thôi, đâu ngờ nó là ý định hết sức nghiêm túc của cô.

Xuất phát từ một nỗi ám ảnh mà cái chết của người chị thứ hai của mình đưa đến. Nhạn cho rằng chuyện vợ chồng là điều thô bỉ và vô cùng nguy hiểm. Cho nên mặc dù ngày càng xinh đẹp (gần như là ngộ nhứt xóm) Nhạn vẫn không thèm đáp lại vô số những tia mắt mà các chàng trai phóng, chiếu vào cô.

Đúng như lời nói giỡn ngày nào của thím Chín. Một hôm khi thím đang lui cui gom lá trong vườn lại để đốt, mợ Hai Thọ bỗng từ sau lưng đi tới, vỗ vai rồi hù thím một cái.

Thím Chín vốn có máu liệu nên phát ra một tràng:

-Ba mầy chết, má mầy chết, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại mầy chết...

Mợ Hai Thọ, bây giờ đã vượt qua mức xã giao, trở thành bạn của thím và dì Sáu, hầu như mỗi lần có dịp đi ngang nhà thím đều ghé vào nói ba điều, bốn chuyện... Cười sằng sặc rồi trách đùa:

-Đụng có chút xíu mà lôi hết cha mẹ, ông bà của tui ra rủa vậy đó hả?

Thím Chín ghét nhứt là ai đem cái tật nầy của mình ra ghẹo, chù ụ cái mặt ra mà hỏi:

-Sao bữa nay chị hưỡn quá vậy, chịu khó đi qua đây mà ghẹo tui?

Mợ Hai cười ra vẻ biết lỗi, rồi giải thích liền lý do:

-Má thằng Công nó nhờ tui hỏi ý chị Sáu cho nó qua bỏ trầu cau con Nhạn.

Công, cháu ngoại lớn nhứt của mợ Hai, bằng hoặc lớn hơn Nhạn chừng một hai tuổi, đang làm việc trong một cơ sở sản xuất ở Sài Gòn.

Thím Chín nhìn mợ Hai chằm chặp để xem mở nói chơi hay thiệt. Vốn còn tức cái chuyện bị hù nên thím hỏi bằng giọng mĩa mai:

-Trong xóm thiếu gì con gái mà chị lựa cái đứa trôi sông, lạc chợ như nó?

Mợ Hai xua tay lia lịa:

-Chị đừng nói như vậy mà tội nghiệp nó. Vợ chồng chị Sáu bộ hổng phải coi nó như con ruột hay sao? Nó cũng có cha mẹ, anh em như ai chớ bộ!

Thím Chín hối hận tràn trề, thím nói:

-Coi bộ chị cũng tỏ con mắt đó! Khắp xóm nầy hổng có đứa nào coi ngộ mà còn hiền siêng, giỏi, có hiếu như nó đâu! Lại còn có tánh liệu cơm gắp mắm nữa.

Mợ Hai Thọ gật đầu, xác nhận:

-Bởi vậy má thằng Công nó mới để ý, mới chọn. Nói thiệt với chị cũng có mấy người thấy nó hiền nên đòi làm sui mà nó đâu chịu tới.

Thím Chín gặng:

-Cái vụ nầy là do chị, cô Hai hay là thằng Công nó đòi?

Mợ Hai đáp:

-Ai cũng có trong đó.

Thím Chín hỏi tiếp:

-Sao chị hổng hỏi tận mặt chị Sáu cho chắc ăn?

Mợ Hai lắc đầu:

-Tánh chị Sáu e dè, khó nói chuyện lắm. Tui thấy chỉ nể nang chị dữ lắm! Chị mà nói vô một tiếng là xuôi rót liền. Cái chuyện chỉ đi thêm bước nữa đó, hổng có chị xúi thì dễ dầu gì chỉ dám rồi được sung sướng như bây giờ. Chỉ chịu ơn gia đình chị nhiều thứ lắm, chị mà nói vô là kể như ăn chắc!

Câu tâng bốc ấy gột sạch nỗi bực bội trong lòng thím Chín. Thím ậm ừ:

-Tui hổng dám hứa à nghen! Để coi coi...

Mợ Hai hối:

-Chị mở lời liền giùm tui đi. Con Hai nó có đi coi thầy năm Cơ. Ổng nói cái tuổi của thằng Công năm nay cưới vợ là tốt nhứt!

Thím Chín gật đầu:

-Vậy để một lát tui tới nhà chỉ, rồi hỏi ý hai mẹ con họ coi sao!

Ngay khi mợ Hai ra về, thím Chín tức tốc đến nhà dì Sáu, thím báo tin vui đó bằng giọng mừng khấp khởi:

-Chị coi! Hồi đó tui chỉ nói chơi nào dè trúng phóc! Chị Hai nhờ tui nói với chị, để con gái cổ là cô Hai Phước, qua nhà coi mắt con Nhạn cho thằng Công, con trai thứ hai của cổ.

Dì Sáu trợn thiếu điều lòi hai con mắt. Dì hỏi lại:

-Thiệt hả?

Thím Chín gật đầu thật mạnh để khẳng định, thím khen:

-Cô Hai Phước hiền khô hà! Còn thằng Công đó coi phải thế đàn ông lắm nghe! Lại được cho ăn học tới nơi tới chốn nữa.

Dì Sáu hỏi nhỏ:

-Sao nghe nói "quậy" lắm mà!

Thím Chín khoát tay:

-Đó là hồi xưa chớ bây giờ nó được lắm! Khắp vùng nầy không có cái đám nào tốt bằng đâu. Đừng có chần chờ gì hết, ưng đi chị, để vuột là uổng ghê lắm!

Dì Sáu nói:

-Để tui hỏi ý con Nhạn, coi nó có chịu lấy chồng hay không đã chớ! Trước giờ nó ghét cái chuyện nầy dữ lắm! Bộ chị không thấy hay sao?

Dì chắt lưỡi, nói thêm:

-Tui thấy nó hai mươi mấy tuổi rồi mà không thèm để ý tới con trai, cũng hổng biết làm điệu như con gái người ta nên trong bụng rầu hết biết! Cứ biểu nó chưng dọn, đánh mặt, đánh mày lên rồi đi phụ mấy cái đám cưới, đặng gặp người nầy người kia mà nó đâu có chịu làm theo.

Dì thở một hơi dài thậm thượt. Thím Chín an ủi:

-Sanh con ai nỡ sanh lòng? Huống hồ chi mình lại còn không sanh. Mưa giầm thấm lâu. Chị mà nói hoài thì có ngày cũng lọt vô lỗ tai của nó.

Dì Sáu lắc đầu:

-Tui thấy coi bộ nó hổng muốn lấy chồng, chắc hổng chịu nghe đâu chị Chín ơi!

Thím Chín trề cái môi dưới ra dài cả tấc mà nói:

-Chị thấy đàn bà con gái của mình, từ trước tới giờ có ai nói ra miệng là muốn có chồng hay không? Vậy mà chị đếm thử giùm tui coi, giáp vòng trong xóm có được mấy người tự ý ở giá.

Thím hạ giọng:

-Chẳng giấu gì chị, hồi đó tui cũng "mết" ba con Nho dữ lắm đó chớ! Vậy mà khi ổng đi cưới, dù mừng gần chết cũng làm bộ từ chối ba lần, bốn lượt. Cái đêm lạy xuất giá cũng khóc thôi là khóc. Nếu lúc đó má tui cũng tin thiệt, không chịu gã, chắc tui tức tới ói máu quá!

Dì Sáu cười thôi là cười. Thím Chín cũng cười theo.

Ngay chiều hôm đó thím Chín kho mắm rồi rủ Nhạn qua nhà ăn. Đây là món ruột của Nhạn nên cô lập tức nhận lời chớ không từ chối như mọi lần.

Để tiện việc dò ý, thím dọn cho Nhạn ăn riêng trong bếp với mình.

Nhìn cái cách Nhạn lùa chén rau ghém chan ngập mắm vào miệng rồi nhai rau ráu một cách hết sức ngon lành mà thím Chín nghe mát ruột quá cỡ.

Thím hỏi:

-Nghe nói mắm bò hóc của người Miên khó ăn lắm hả con?

Nhạn lắc đầu:

-Ai nấu sao con hổng biết chớ má con làm thì ngon dữ lắm!

Thím hỏi tiếp:

-Ngon hơn mắm của người Việt mình hông?

Nhạn suy nghĩ một lát rồi nói:

-Cũng hổng hơn, hai thứ mắm nầy xêm xêm, một chín, một mười với nhau.

Thím Chín gặng:

-Thím với má con kho mắm có giống nhau hông?

Nhạn lắc đầu:

-Không giống lắm!

Thím Chín hỏi:

-Con thích của ai hơn?

Nhạn cười:

-Bây giờ thì con thích bằng chớ hồi trước chắc con thích của má ruột hơn.

Thím Chín lại hỏi:

-Con có thường nằm chiêm bao thấy ba má với anh chị em của mình hông?

Nhạn bỗng rơm rớm nước mắt:

-Lúc trước con thấy hoài, nhứt là chị Hai của con, bây giờ thì ít lắm.

Thím Chín hỏi tiếp:

-Bộ con thương chị Hai của mình dữ lắm hả? Mà tại sao chị con chết vậy?

Nhạn để chén cơm trên tay xuống, móc túi lấy cái khăn mùi xoa ra chùi nước mắt. Cô vừa gật đầu vừa nói, giọng nghẹn ngào:

-Chị con bị mấy người lính Pôn Pốt hãm cho tới chết!

Thím hỏi:

-Làm sao con biết?

Nhạn nức nở:

-Con núp trong cái đống rơm dưới giường. Con nghe tiếng chị con la khóc lồng lộng. Mới đầu chị con giãy giụa dữ lắm! Họ xúm nhau kềm tay, kềm chưn. Chừng họ bỏ đi, con chui ra thì thấy chị con nằm im ru, hai con mắt trợn ngược. Con còn chưa biết chỉ chết, cứ nắm chưn mà giựt hoài...

Hai gò má của thím Chín cũng ràn rụa nước mắt. Thím ôm Nhạn, siết chặt vào lòng mình mà nói:

-Mèn đéc ơi! Tội nghiệp cháu tui quá!

Thím chợt hiểu ra lý do khiến Nhạn "kỵ" đàn ông.

Thế nhưng thím Chín không nản chí, ngược lại còn cố thuyết phục Nhạn cho bằng được.

Thím cho rằng việc Nhạn chứng kiến cái chết của chị mình, bị ám ảnh đến độ từ bỏ niềm hạnh phúc thiêng liêng nhất đối với người phụ nữ: Làm mẹ, làm vợ... Là một điều hết sức dại dột.

Thím hỏi Nhạn:

-Vậy là con nhứt quyết ở giá cho tới chết hả?

Nhạn gật đầu một cách quả quyết.

Thím thở dài rồi nói:

-Con thấy chị mình bị như vậy rồi đâm ra thù ghét hết nìn ông là hổng có đúng. Đâu có phải cứ một lần đạp cức là một lần chặt chưn. Như vậy là ngu đại hạng đó!

Thím hỏi tiếp:

-Con có biết má Sáu con thích thứ gì nhứt hông?

Nhạn lắc đầu, nhìn thím như dò hỏi. Thím Chín nói:

-Má con thích nhứt là mấy đứa con của mình đều có vợ có chồng hẳn hoi, rồi sanh con đẻ cái để chỉ được bồng cháu đi khoe y như mấy người khác.

Thím dừng lại một lát rồi chép miệng nói tiếp:

-Tội nghiệp cho chị Sáu! Đã hổng có cháu nội mà rồi cũng không được bồng cháu ngoại.

Rồi thím đặt điều để nói thêm cho Nhạn xiêu lòng:

-Hôm bữa má con nói với thím, nguyên xi như vầy, thím không thêm, không bớt một chữ:"Nói thiệt với chị, nghe con Nhạn nó hứa cho vợ chồng thằng Phục đứa con đầu lòng của mình tui mừng hết sức. Cho dù ông trời bắt tụi nó không có con nhưng mà nhờ vậy con Nhạn chịu lấy chồng nên tui hổng hề oán trách ổng chút xíu nào".

Thím Chín khiến Nhạn cứng họng không nói được một tiếng. Ngồi cúi mặt vò vạt áo một hồi, Nhạn mới ngẩng đầu lên hỏi, giọng nao núng:

-Má con nói với thím như vậy thiệt sao?

Thím Chín làm bộ giận dỗi:

-Bộ bây tưởng tao dựng chuyện hả?

Thấy thím giận, Nhạn hoảng hồn.

Cô cố chống chế:

-Đâu có, đâu có! Tại con quen cái tật hỏi đi hỏi lại nên...

Nhận ra tấm vách tường đã lung lay rồi, thím Chín xô thêm một cái thiệt mạnh:

-Ông trời đặt để cho con người ta hết rồi con ơi! Từ con vật tới con người, cái gì cũng phải có trống có mái hết. Con nói thử coi, tại làm sao mà nìn ông, nìn bà cho dù mặt mũi, tánh tình khác nhau xa lắc, có khi còn chỏi kịch liệt, nhưng bắt buột phải dựa vô nhau mà sống, chịu đựng nhau cho tới già tới chết?

Nhạn không trả lời nên thím giải thích:

-Tại vì nếu hổng có như vậy thì ổng phải tự mình lo nặn ra con nít hoài hoài. Làm hổng hở tay, còn thì giờ đâu mà dòm ngó tới hằm bà lằng việc khác. Cho nên ổng ghét mấy người ở vậy lắm! Hành hạ họ đủ kiểu. Ai mà ráng chống lại tới cùng, thì ổng khiến cho đến lúc già khú đế cái bỗng dưng riu ríu nghe theo. Còn hông thôi thì cũng ức cho đến nổi chết không nhắm mắt!

Thím đưa ra bằng chứng:

-Con thấy hông? Má con cho dù đã gần năm mươi, có con trai, con gái đầy đủ rồi vẫn còn phải bước thêm bước nữa với thầy Bảy đó!

Nhạn phản đối:

-Má con đâu có muốn, tại...

Thím Chín cười:

-Con tính đổ thừa là tại chú thím lập thế để má con phải lấy ông thầy Bảy hả? Tại con hổng biết đó thôi! Má con coi hiền rụi như vậy chớ tánh tình cứng cỏi hơn ai hết! Bả mà hổng chịu thì ông trời có xuống đây ép cũng không được chớ đừng nói gì là chú với thím.

Vận hết nội công, thím "đã" thêm một đòn chí mạng:

-Tội nghiệp chị Sáu! Bỏ công, bỏ của mà thương, mà nuôi, mà lo cho con hổng thiếu thứ gì... Mai kia, mốt nọ có người độc mồm, độc miệng...Họ ghét rồi đặt điều là chỉ không muốn gả con, tại vì thấy con Tím không chửa đẻ được, nên giữ lại để dành sẵn đó cho...

Nhạn tái mặt hét to:

-Hổng có chuyện đó đâu! Ai mà ghét má con tới nổi nói ác như vậy được?

Thím Chín lắc đầu:

-"Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người ". Cho dù má con không động chạm tới ai, nhưng cái vụ thầy Bảy cưới chỉ bộ ai cũng vui sao? Trong xóm nầy có bao nhiêu cô gái lỡ thời, bao nhiêu đàn bà giá còn ít tuổi hơn chị Sáu nữa, con biết hông?

Thấy Nhạn trợn mắt ngó mình, thím nói thêm:

-Hôm bữa nghe thím kể lại cái vụ cô Hai Phước, con gái mợ Hai Thọ đánh tiếng, xin cưới con cho thằng Công, má con mừng dữ lắm! Chỉ muốn cho con vô nơi danh giá đặng mình nở mặt nở mày với bà con lối xóm, còn con thì sung sướng như chuột sa hủ nếp.

Nhạn hỏi lại:

-Sao con nghe thím nói là làm dâu nhà giàu khổ lắm?

Thím Chín hơi mắc cỡ, chợt nhớ ra không biết bao nhiêu lần mình đã dùng câu đó để "chửi" bên chồng. Đúng là gậy ông đập lưng ông!

Thím cười giả lả, nói to để lấp liếm:

-Thì phải nói như vậy để mợ Ba Sáng không chê thằng Phục nghèo rồi hổng chịu làm mai con Tím cho nó! Con mà về nhà đó thì có ổ lót sẵn, có gạo trắng, nước trong để ngay trước mặt, khỏi lo đi bươi, đi quào, cực khổ như cả đống đứa khác, còn đòi cái giống gì nữa?

Rồi xuống giọng, năn nỉ:

-Nghe lời thím mà ưng đi! Để trả hiếu cho má con, cho bả vui mà sống cho lâu. Con cũng giữ được lời hứa với hai vợ chồng thằng Phục, mà rồi cũng khỏe cái thân!

Tất cả các lý lẽ trên được thím Chín đưa ra mỗi ngày. Thím tấn công liên tục khiến Nhạn bị áp đảo tơi bời, chỉ việc nghe thôi cũng đủ mệt chết giấc.

Ý định "không lấy chồng" của Nhạn, trước đây như bức tường được xây hết sức kiên cố, dần dà bị đánh bay mất tiêu cái chữ "không". Cô đành phải bó tay chịu trận.

Đàn bà dễ có mấy người được như thím Chín? Ham làm điều tốt cho người khác đến độ không từ một thủ đoạn nào hết. Đấy cũng bắt nguồn từ cái tình cảm sâu đậm mà thím dành cho dì Sáu.

Ông trời chắc quá cảm động trước tấm lòng chân thành đó nên chỉ tháng sau, một cái đám nói rình rang được tổ chức liền trong xóm Cầu Ván.

Khi cô Hai Phước, trong lúc giáp lời hỏi phía đàng gái là: "Có yêu cầu gì hông?". Ai cũng tưởng là dì Sáu sẽ nói thách tới nóc nhà, nào ngờ hoàn toàn trái ngược.

Dì Sáu chỉ đáp:

-Cô thích sao thì làm vậy đi. Tui hổng đòi hỏi thứ gì hết! Miễn sau nầy cô đem nó về rồi thương, coi như con gái ruột của mình là được.

Cô Hai Phước gật đầu lia lịa. Cổ vốn hiền và ít nói nên chỉ biểu dì Sáu là "đừng có lo!" mà thôi.

Hôm đám nói Nhạn mặc một bộ áo dài bằng "xoa nhung", màu hồng nhẹ như phấn thoa mặt, do chính cô tự may cho mình. Vải từ bên Mỹ, của Thụ gửi về, đàng trai đưa cho cùng lúc với một cây kiềng, hai chiếc xuyến cộng thêm năm trăm đồng tiền chợ.

Bộ áo dài vừa khít, chứng tỏ tay nghề của cô cũng không kém bà thầy Tím, đã khiến Nhạn đẹp như tiên, làm cho các chàng trai trong xóm tiếc hùi hụi.

Bà con lối xóm, họ hàng đàng trai ai cũng trầm trồ. Dì Sáu nghe mà nở từng khúc ruột, còn thím Chín thì nhìn Nhạn một cách hết sức hãnh diện.

Người mừng nhứt, khỏi nói chắc ai cũng đoán ra chính là thím Chín. Lại một lần nữa, thím cảm động đến rưng rưng nước mắt trước cái thành quả của mình.