BÁC JULES CỦA TÔI (1883)
Một ông già nghèo khó, râu bạc trắng, đứng bên lề đường ngửa tay xin tiền chúng tôi. Bạn tôi, Joseph Davranche, cho ông một trăm xu. Thấy tôi ngạc nhiên, bạn tôi mới nói:
- Ông già khốn khổ này làm tôi nhớ tới một câu chuyện mà tôi xin kể ra đây cho anh nghe. Nó cứ ám ảnh tôi mãi. Câu chuyện như sau:
Gia quyến tôi gốc ở Le Havre, không thuộc hạng giàu có, nhưng biết xoay xở. Ba tôi là một tiểu công chức, đi sớm về muộn, lương không bao nhiêu. Tôi có hai người chị.
Má tôi rất khổ tâm về cảnh túng thiếu trong nhà, và bà thường có những lời lẽ chua cay, nặng nhẹ đối với ông chồng, khiến cho người có một cử chỉ làm tôi phải đau lòng: là ba tôi đặt bàn tay lên trán, mấy ngón tay xòe ra, như để lau một giọt mồ hôi, mà thật sự không có mồ hôi, và người im lặng, không đáp một lời. Tôi thông cảm nỗi đau khổ bất lực của ba tôi. Chúng tôi tiện tặn mọi bề: không bao giờ nhận lời mời ăn cơm với ai cả, để khỏi mời lại; chúng tôi mua những đồ cần dùng khi người ta đem ra bán hạ giá, hay mua những hàng hóa cũ, để lâu trong xó góc. Mấy chị tôi tự may lấy váy áo; khi cần mua một khúc viền ren, họ mặc cả hàng giờ, mà giá một thước chỉ có mười lăm xu. Thức ăn thông thường của chúng tôi gồm có xúp béo và thịt bò, ăn với nhiều thứ nước xốt. Ai nấy đều bảo là ăn như thế thì nhẹ dạ và bổ; tôi thì thích thứ gì khác hơn.
Mỗi khi áo quần tôi mất cúc hay bị rách, tôi bị mọi người rầy la thậm tệ.
Nhưng, cứ mỗi ngày Chúa nhật, chúng tôi ăn mặc chỉnh tề, đi một vòng xuống bến tàu. Ba tôi mặc áo rơ đanh gốt, đội một cái nón to, mang găng tay, choàng tay má tôi, trang sức như một chiếc xe hoa ngày hội. Mấy chị tôi, xong trước hơn ai hết, đợi lệnh khởi hành; nhưng tới phút chót, ai nấy mới nhận thấy một cái đốm còn sót trên chiếc áo rơ đanh gốt của ba tôi; thế là phải mau mau lấy giẻ thấm benzine tẩy cho sạch cái vết đó. Ba tôi để nguyên cái nón to trên đầu, chỉ còn mặc sơ mi tay măng sét, đợi cho má tôi làm xong, còn má tôi thì làm vội vàng, sau khi đã đeo kiếng cận thị lên và tháo găng tay ra, để cho găng không bị dơ.
Chúng tôi đi một cách nghiêm trang. Mấy chị tôi khoác tay nhau đi trước. Cả hai đều đến tuổi lấy chồng và cần ra ngoài cho thiên hạ trông thấy. Tôi đi bên trái má tôi, còn bên phải má tôi là ba tôi. Tôi còn nhớ dáng điệu làm cao đáng thương hại của ba má tôi trong những buổi đi dạo ngày Chúa nhật ấy, nét mặt nghiêm nghị, bước đi khoan thai của hai ông bà. Cả hai cùng bước chậm rãi, thân mình ưỡn thẳng, chân duỗi ra, như là có một việc gì hết sức quan trọng, khiến họ phải ăn mặc, đi đứng như thế.
Và cứ mỗi ngày Chúa nhật, khi nhìn những chiếc tàu lớn trở về, sau khi qua những xứ xa lạ, ba tôi thốt ra một câu không bao giờ thay đổi:
- Ồ! Nếu có anh Jules trên đó, thì hay biết mấy!
Jules là bác ruột của tôi, tức là anh của ba tôi. Bác là nguồn hy vọng duy nhất của gia đình tôi, mà trước kia bác đã làm cho khổ sở, điêu đứng. Tôi nghe nói đến bác từ khi tôi còn nhỏ, và tôi tin sẽ nhận ra bác ngay, vì hình ảnh của bác ăn sâu vào tâm trí tôi. Tôi biết tất cả những chi tiết về cuộc đời của bác, cho tới ngày bác sang Hoa Kỳ, mặc dù những người trong gia đình, chỉ thì thầm về khoảng đời lúc bấy giờ của bác.
Thuở ấy, hình như bác là một người ngỗ nghịch, phá gần hết tài sản của cha mẹ; đó là một tội rất nặng đối với gia đình nghèo. Trong những gia đình giàu có, kẻ ăn xài hoang phí chỉ làm những trò cười, và người ta sẽ mỉm cười bảo đó là một tay ăn chơi, một công tử bột mà thôi. Còn ở những gia đình túng thiếu, một đứa con đục khoét tiền bạc của cha mẹ thì đứa con ấy là tên bất lương, một tên ăn mày, một tên gàn dở.
Sự phân biệt này rõ rệt, mặc dù trong hai trường hợp hành động giống nhau, chỉ có hậu quả mới định được tầm quan trọng của hành động.
Tóm lại, bác đã xén một mảnh lớn phần gia tài chia cho ba tôi, sau khi đã bán sạch phần của bác.
Thế rồi, bác theo một chiếc tàu buôn chạy đường Le Havre - Nữu Ước, sang Hoa Kỳ.
Khi qua bên ấy rồi, bác Jules làm nghề buôn, mà tôi không biết buôn gì. Bác viết thư về nhà, cho biết có kiếm được ít tiền, và hy vọng sẽ bồi thường ba tôi về những thiệt hại bác đã gây ra. Bức thư ấy làm gia đình tôi vô cùng cảm xúc. Jules, mà trước kia người ta bảo không ra gì, giờ đây bỗng nhiên trở thành một người tốt, lương thiện, biết phải quấy, một người Davranche chính tông, liêm sỉ như tất cả những người có mang dòng máu Davranche. Ngoài ra, một viên thuyền trưởng có cho chúng tôi biết là bác có thuê một cửa hàng đồ sộ và buôn bán lớn.
Trong một bức thư thứ nhì, cách hai năm sau, bác viết: “Chú Philippe thân mến, tôi viết thư cho chú để chú đừng lo ngại về sức khỏe của tôi. Tôi vẫn mạnh khỏe như thường. Công việc làm ăn cũng vẫn tiến đều đều. Ngày mai tôi sẽ đi một chuyến viễn du đến Nam Mỹ. Có lẽ tôi sẽ mất liên lạc với chú trong nhiều năm tới. Dù sao, chú cũng đừng e ngại. Tôi sẽ trở về Le Havre sau khi lập nên sự nghiệp. Tôi hy vọng ngày ấy không còn xa, và anh em ta sẽ sống sum họp trong hạnh phúc…”
Bức thư này trở thành một trang Thánh kinh trong gia đình tôi. Gặp chuyện gì chúng tôi cũng lấy ra đọc, gặp bất cứ ai cũng lấy ra khoe.
Thật vậy, suốt mười năm, bác Jules bặt tin; nhưng năm tháng càng qua, hy vọng của ba tôi càng lớn; má tôi cũng thường bảo:
- Nếu có anh Jules về đây, hoàn cảnh của chúng ta sẽ thay đổi hẳn. Thật là một người biết xoay xở.
Và cứ mỗi ngày Chúa nhật, khi nhìn những chiếc tàu lớn màu đen nhô lên ở chân trời, nhả từng cụm khói uốn khúc, ba tôi lặp lại câu nói bất hủ:
- Ồ! Nếu có anh Jules trên đó, thì hay biết mấy!
Và ai nấy tưởng chừng như bác đứng trên boong tàu, vẫy chiếc khăn tay, kêu to:
- Ê! Chú Philippe.
Ai nấy thảo ra nhiều kế hoạch sẽ thực hiện sau cuộc hồi hương chắc chắn này; với số tiền của bác tôi, thể nào chúng tôi cũng sẽ mua một cái nhà nho nhỏ ở đồng quê, và tôi tin rằng ba tôi đã dò dẫm giá cả về vụ này rồi.
Chị cả tôi được hai mươi tám tuổi, chị kế, hai mươi sáu. Cả hai vẫn phòng không gối chiếc, điều này làm cho gia đình tôi buồn tủi.
Sau cùng, có một người đến coi mắt chị kế. Anh ấy là một tiểu công chức, không giàu, nhưng con nhà nề nếp.
Tôi vẫn đinh ninh rằng anh chàng, sau khi xem bức thư của bác Jules một buổi chiều, đã hết do dự và quyết định tiến tới.
Ba má tôi nhận lời gả con ngay, và tất cả gia đình sẽ tổ chức, sau ngày cưới, một chuyến đi du lịch đơn giản ở Jersey.
Jersey là nơi du ngoạn lý tưởng đối với người nghèo. Nó ở không xa: chỉ cần vượt một eo biển trên một chiếc tàu là tới hòn đảo này, thuộc quyền người Anh. Như vậy thì, một người Pháp, sau hai tiếng đi trên mặt biển có thể đặt chân lên địa phận của một dân tộc láng giềng, và biết được những phong tục, ngôn ngữ giản dị của dân chúng sống trên đảo, một hòn đảo được che chở bởi lá cờ Anh Quốc, theo như lời họ bảo.
Cuộc du lịch này là mối quan tâm của chúng tôi. Ai nấy đều trông đợi, mơ ước.
Thế rồi, chúng tôi khởi hành. Tôi nhớ rõ chuyện ấy như thể nó mới xảy ra hôm qua: chiếc tàu tỏa ra hơi nóng khắp cả bến tàu, ba tôi rối rít trông coi phu cất ba kiện hành lý của chúng tôi lên tàu; má tôi, gương mặt lo âu, cầm tay chị cả chưa chồng của tôi; chị ấy trông như mất hồn, từ ngày cô em đi lấy chồng, giống như một con gà con còn lại một mình trong bầy gà; và phía sau chúng tôi là cặp vợ chồng mới cưới; luôn luôn ở trễ lại đằng sau, khiến tôi cứ thỉnh thoảng quay đầu lại.
Tàu hụ còi. Ai nấy bước lên tàu, rồi tàu tách bến ra khơi, lướt trên mặt nước phẳng lặng, trong xanh. Chúng tôi nhìn lên bờ, càng lúc càng bé dần, trong lòng sung sướng, kiêu hãnh, đúng với tâm trạng của những kẻ ít đi du lịch.
Ba tôi quay lại, mình mặc chiếc áo rơ đanh gốt, mà ngay hồi sáng, ai nấy lo tẩy sạch những đốm lấm chấm, thành ra chung quanh ba tôi phảng phất mùi benzine, làm tôi nhớ đến những buổi đi dạo ngày Chúa nhật.
Bỗng ba tôi để ý đến hai bà ăn mặc sang trọng, được hai người đàn ông mời ăn sò. Một người thủy thủ già, áo quần rách rưới, cầm dao cạy sò: cạy xong con nào, là lão đưa cho mấy người đàn ông để trao lại cho mấy bà. Mấy bà này ăn với vẻ đài các, cầm vỏ sò trên chiếc khăn tay mịn, đưa mồm ra để không làm bẩn áo đầm, rồi họ hút nhanh nhẹn nước sò và vứt vỏ xuống biển.
Ba tôi có lẽ bị hấp dẫn bởi lối ăn sò đặc biệt này trên một chiếc tàu đang lênh đênh trên mặt biển. Người cho đó là một cử chỉ cao sang, quý phái. Người mới bước lại gần má và mấy chị tôi rồi hỏi:
- Có ai thích ăn sò không?
Má tôi do dự vì sợ tốn tiền; mấy chị tôi thì nhận lời ngay. Má tôi buộc lòng nói:
- Tôi sợ ăn vào hại dạ dày. Ông hãy cho mấy đứa nhỏ ăn mà thôi, nhưng đừng cho ăn nhiều quá, rồi chúng lại kêu đau.
Quay sang tôi, má tôi nói tiếp:
- Còn thằng Joseph thì khỏi; không nên nuông chiều con trai.
Thế là tôi ngồi lại với má, và cho rằng sự phân biệt kia là bất công. Tôi nhìn theo ba tôi ung dung dắt hai cô con gái và cậu con rể lại chỗ lão thủy thủ già rách rưới.
Hai bà khi nãy vừa mới đi. Ba tôi chỉ cho mấy chị tôi cách thức ăn sò mà không để cho nước chảy ra ngoài. Để biểu diễn cho họ xem, người cầm ngay một con sò, làm y như mấy bà vừa rồi, nhưng vô phúc, người hất cả nước sò lên áo. Tôi nghe má tôi nói khẽ:
- Ba mầy nên đứng yên là hơn.
Nhưng thình lình tôi thấy ba tôi mất vẻ tự nhiên; người lùi lại mấy bước, nhìn chăm chú mấy người con đang bao quanh lão bán sò, rồi vội vàng trở lại chỗ chúng tôi ngồi. Mặt ông tái mét, cặp mắt láo liên. Ông nói khẽ với má tôi:
- Lạ nhỉ! Người bán sò kia sao trông giống Jules quá!
Má tôi sửng sốt hỏi:
- Jules nào?
- Anh tôi đó… Nếu không được biết anh đang có sự nghiệp bên Hoa Kỳ, thì tôi tin chính là anh ấy.
- Ông thật lẩn thẩn! Ông đã biết không phải là anh ấy, thế ông nói để làm gì?
Nhưng ba tôi vẫn nài nỉ:
- Hay là bà thử đi xem; tôi muốn bà thấy tận mắt cho chắc chắn.
Má tôi đứng dậy, đi lại chỗ mấy chị tôi. Tôi ngồi yên nhìn lão bán sò. Lão đã già, bẩn thỉu, da nhăn nheo, không rời cặp mắt khỏi công việc của mình.
Má tôi trở lại. Tôi thấy người bà run lên. Bà nói nhanh:
- Tôi cho đó là anh ấy. Ông đến hỏi viên thuyền trưởng xem sao. Nhớ cẩn thận, đừng để tên vô lại ấy biết được mình lúc này.
Ba tôi đi trước, tôi theo sau; tôi cũng thấy cảm động lạ thường.
Viên thuyền trưởng đã đứng tuổi, người gầy, để râu mép, đang đi dạo trên boong tàu với vẻ oai nghiêm, như là đang chỉ huy một chiếc tàu xuyên đại dương.
Ba tôi lễ phép chào ông, hỏi thăm về nghề nghiệp của ông, thỉnh thoảng chêm vô những câu tâng bốc:
Sự quan trọng của đảo Jersey? Nơi đây sản xuất những gì? Dân chúng ra sao? Phong tục, tập quán thế nào? Địa chất, v.v và v.v.
Người ta có cảm tưởng là câu chuyện liên quan đến nước Hoa Kỳ.
Rồi hai người nói sang chiếc tàu đang chở chúng tôi, chiếc “Tốc hành”, kế nói tới thủy thủ đoàn. Sau cùng, ba tôi hỏi giọng run run:
- Trên tàu này có một ông già bán sò trông khá hay. Ông thuyền trưởng có biết gì về lão ta không?
Viên thuyền trưởng thấy câu chuyện không ra đâu vào đâu, nên phát cáu, trả lời gọn lỏn:
- Đó là một lão già lang thang vô gia cư, người Pháp, mà tôi đã gặp bên Hoa Kỳ năm rồi, và tôi đã cho hồi hương. Hình như lão ta có bà con ở Le Havre, nhưng lão không muốn về đó, vì thiếu nợ họ. Lão tên Jules… Jules Darmanche, hay Darvanche, gì đó. Hình như có lúc ở bên ấy lão có tiền, nhưng bây giờ ông thấy lão ở trong tình trạng như thế nào rồi.
Ba tôi mặt tái nhợt, cặp mắt bơ phờ, nói ấp úng:
- À! à! Tốt lắm… Hay lắm… Tôi không lấy làm lạ… Cám ơn ông thuyền trưởng nhiều lắm.
Rồi ba tôi vội quay đi, trong khi viên thuyền trưởng trố mắt nhìn theo.
Ông lại gần má tôi, bước đi không vững đến nỗi má tôi phải thốt:
- Thì ông ngồi xuống đã; chắc có chuyện gì đây rồi.
Ba tôi ngồi phịch xuống ghế băng, nói như hụt hơi:
- Chính là anh ấy, đúng là anh ấy.
Rồi người hỏi má tôi:
- Bây giờ phải làm sao?
- Phải đưa mấy đứa nhỏ đi cho xa. Thằng Joseph đã nghe hết, vậy bảo nó lại kiếm mấy chị nó. Nhớ là phải cẩn thận, đừng để đứa con rể mình nghi ngờ gì cả.
- Trời ơi! Sao mà khổ thế này!
Má tôi bỗng trở nên giận dữ:
- Tôi đã biết mà! Tên cướp ấy không làm gì nên thân, và nó còn báo hại mình nữa. Trông cậy ở dòng họ Davranche nhà ông thì có ngày tôi chết mất.
Ba tôi đưa tay lên trán, như người vẫn thường làm mỗi khi má tôi cằn nhằn trách móc.
Má tôi nói tiếp:
- Ông đưa tiền cho thằng Joseph để nó đi trả tiền sò. Không khéo cả nhà sẽ bị tên ăn mày ấy nhận ra. Chừng đó mới thật là một cảnh “vui quá vui” ở trên tàu. Chúng ta hãy đi lại đầu đằng kia, và ông cố làm sao đừng để tên khốn ấy lại gần mình.
Nói xong, má tôi đứng dậy. Bà trao cho tôi một đồng tiền một trăm xu, rồi hai ông bà cùng đi nơi khác.
Mấy chị tôi sốt ruột chờ ba tôi. Tôi nói với họ là vì má tôi say sóng, nên ba tôi cần ở gần bà, rồi tôi hỏi người bán sò:
- Tất cả bao nhiêu hả ông?
Trong lòng tôi muốn nói: hả bác.
- Hai quan rưỡi.
Tôi đưa đồng tiền một trăm xu và ông thối tiền lẻ lại tôi.
Tôi nhìn bàn tay ông, một bàn tay chai cứng của một thủy thủ khổ sở, rồi tôi nhìn gương mặt ông, một gương mặt già nua, buồn bã, nhuộm đầy nét phong sương. Tôi tự nhủ: “Đây là bác của mình, anh của ba.”
Tôi biếu ông mười xu. Ông cám ơn tôi:
- Lạy Chúa, hãy phò hộ cho cậu!
Với giọng nói của một người nghèo nhận của bố thí. Tôi đoán bên ấy thể nào ông cũng làm nghề ăn xin.
Mấy chị tôi sửng sốt về sự rộng lượng của tôi. Khi tôi đưa số tiền còn lại cho ba tôi, má tôi ngạc nhiên hỏi:
- Tới ba quan à? Thế thì vô lý quá.
Tôi đáp một cách mạnh bạo:
- Con biếu ông ta mười xu.
Má tôi giật nẩy người lên, trố mắt nhìn tôi:
- Mày điên à? Đi biếu mười xu cho thằng ấy, thằng ăn xin ấy!…
Nhưng má tôi ngưng ngay, vì bà vừa trông thấy ba tôi liếc nhìn bà, nhắc khéo sự hiện diện của cậu con rể.
Thế là ai nấy hết to tiếng.
Trước mặt chúng tôi, nơi chân trời, đảo Jersey lù lù hiện ra trong một màu tím thẫm.
Khi tàu cập bến, lòng tôi rạo rực, trông gặp bác tôi một lần nữa để nói với bác những lời an ủi dịu dàng.
Nhưng vì không ai ăn sò nữa, nên ông đã dẹp hàng, không còn ở đó, có lẽ đã xuống dưới hầm tàu dơ bẩn, là nơi ông chui rúc.
Bận về, chúng tôi đáp tàu đi Saint-Malo để tránh gặp ông. Má tôi cứ phập phồng lo sợ suốt cuộc hành trình.
Kể từ ngày ấy, tôi không còn gặp lại bác tôi.
Cho nên bây giờ, anh thấy tại sao đôi khi tôi cho những kẻ lang thang một trăm xu.