← Quay lại trang sách

NHỮNG ĐỒ NỮ TRANG (1883)

Lantin, sau khi gặp người thiếu nữ ấy trong một buổi tối tại nhà ông phụ tá chủ sự, liền đem lòng yêu nàng tha thiết.

Nàng là con gái của một thâu thuế viên ở tỉnh, qua đời cách nay nhiều năm. Sau đó, nàng theo mẹ đến Ba Lê. Mẹ nàng tới lui vài gia đình khá giả trong khu phố, với hy vọng tìm nơi để gả cô con gái. Hai mẹ con đều nghèo, nhưng được kính nể, sống cuộc đời bình thản và hiền lành. Người thiếu nữ có dáng một mẫu người tuyệt đối về người đàn bà đức hạnh, mà bất cứ người con trai khôn ngoan nào cũng mong được làm bạn trăm năm. Sắc đẹp khiêm tốn của nàng có một vẻ duyên dáng bẽn lẽn của các tiên nữ, và cái mỉm cười nhè nhẹ, lúc nào cũng hé nở trên môi, trông như phản ánh của lòng nàng.

Ai nấy đều tán dương nàng; tất, những ai đã quen biết nàng đều lặp đi lặp lại: “Người nào cưới nàng, sau này sẽ có hạnh phúc. Không thể tìm được người hơn nàng.”

Lantin, lúc bấy giờ làm thơ lại thượng hạng ở bộ Nội vụ, với tiền lương hằng năm là ba ngàn năm trăm quan, liền xin cầu hôn và cưới nàng.

Chàng hưởng hạnh phúc quá sức tưởng tượng bên cạnh nàng. Nàng điều khiển gia đình với một sự tính toán, cần kiệm khéo léo, khiến họ có vẻ như sống trong cảnh xa hoa. Không một sự săn sóc, một cử chỉ lễ độ, một lời nói dịu ngọt nào mà nàng không dùng đến để chiều chồng; và sự quyến rũ của nhan sắc nàng rất mãnh liệt, đến nỗi sau sáu năm ăn ở với nhau, chàng yêu nàng hơn cả buổi ban đầu.

Chàng chỉ trách ở nàng hai sở thích, là thích xem hát và thích đồ nữ trang giả.

Các bạn gái của nàng (nàng có quen vài người vợ công chức hạng thường) cung cấp cho nàng, bất cứ lúc nào, những vé ghế thượng hạng để xem các vở kịch đang được hoan nghinh, ngay cả trong những buổi trình diễn đầu tiên; nàng lôi chồng đi dự các buổi giải trí ấy, dù chàng có bằng lòng hay không; mà những sự giải trí này làm chàng mệt mỏi kinh khủng, sau một ngày làm việc ở sở. Thế là, chàng khẩn khoản để nàng bằng lòng đi xem hát với một vài bà quen biết và họ sẽ đưa nàng về. Phải mất một thời gian lâu để thuyết phục nàng, vì nàng cho rằng làm như vậy không tiện. Sau cùng, nàng ưng thuận để vừa lòng chàng, và chàng cảm ơn nàng không xiết kể.

Mà sở thích xem hát này làm nảy sinh ở nàng sự cần thiết phải trang điểm. Áo quần và đồ nữ trang của nàng rất đơn giản, thật ra, lúc nào cũng đẹp, hợp thời trang nhưng khiêm tốn, không quý giá; và nét duyên dáng êm dịu, nét duyên dáng quyến rũ, nhún nhường và tươi cười của nàng hình như mang một vẻ mặn mà mới lạ do những chiếc áo xốp đơn giản, nhưng nàng bắt đầu quen tính đeo hai bên tai hột đá mài to tướng, giống như hai hột xoàn, và nàng mang ở cổ những xâu chuỗi bằng ngọc trai giả, ở cườm tay những chiếc vòng mạ vàng, mắc trên tóc những cái lược nạm những viên thủy tinh vụn vặt, giống như những hột kim cương.

Những đồ hào nhoáng này làm cho chồng nàng hơi khó chịu; chàng thường bảo với nàng:

- Em ạ, khi ta không thể sắm lấy những đồ nữ trang thiệt, thì ta trang điểm bằng sắc đẹp và nét duyên dáng kiều diễm của ta: đó cũng là những đồ nữ trang rất hiếm có.

Nhưng nàng mỉm cười dịu dàng và đáp:

- Biết sao bây giờ? Em thích thế. Đó là tật xấu của em. Em biết anh có lý, nhưng người ta không thể cải tạo. Em, em thích đồ nữ trang!

Nàng lấy các ngón tay xoay những hột ngọc trai, và làm lóng lánh những mặt đá mài, rồi nói:

- Mà anh hãy nhìn xem, làm rất khéo, có thể bảo là đồ thiệt.

Chàng mỉm cười đáp:

- Em có những sở thích của một du tử.

Đôi khi, buổi tối, lúc họ đối diện với nhau bên góc lò sưởi, nàng mang cái hộp bao da để lên bàn, nơi họ đang uống trà; cái hộp đựng những “hàng rẻ tiền”, theo lời của Lantin. Và nàng bắt đầu xem xét các đồ nữ trang bắt chước theo đồ thiệt này; nàng xem xét một cách cẩn thận, say mê, như đang thưởng thức một lạc thú thầm kín và sâu đậm và nàng nhất quyết tròng một xâu chuỗi vào cổ chàng, để rồi cười hả hê:

- Trông anh làm sao ấy!

Rồi nàng ngả mình vào tay chàng và hôn chàng mê mệt.

Một đêm vào mùa đông, nàng xem hát ở hí viện Opéra, khi về tới nhà, người lạnh run. Sáng lại, nàng ho. Tám hôm sau, nàng chết vì sưng phổi.

Lantin suýt theo nàng xuống huyệt. Chàng tuyệt vọng một cách kinh khủng, đến nỗi tóc chàng bạc trắng trong một tháng. Chàng khóc từ sáng tới chiều, tâm hồn rã rời vì một sự đau đớn không chịu nổi, và chàng bị ám ảnh bởi kỷ niệm, bởi nụ cười, bởi tiếng nói, bởi tất cả duyên dáng của người đàn bà quá cố.

Thời gian không làm dịu vợi nỗi đau khổ của chàng. Nhiều lần, trong giờ làm việc ở sở, khi các đồng nghiệp của chàng họp lại tán gẫu, người ta thấy thình lình hai má chàng phồng lên, mũi phĩnh ra, hai mắt ngấn lệ; chàng mếu máo dễ sợ và bắt đầu khóc nức nở.

Chàng giữ nguyên vẹn căn phòng của vợ chàng; ngày nào chàng cũng tự giam mình vào đó để nghĩ đến nàng; và tất cả bàn ghế, những quần áo của nàng vẫn để nguyên chỗ cũ, y như ngày chót.

Nhưng cuộc sống trở nên khó khăn với chàng. Tiền lương của chàng, trong tay người vợ, đã đầy đủ để đối phó với tất cả nhu cầu trong gia đình, giờ đây trở nên thiếu hụt với một mình chàng. Và chàng kinh ngạc tự hỏi nàng đã xoay trở như thế nào để cho chàng uống những rượu hảo hạng và ăn những thức ăn ngon, mà chàng không thể tạo cho mình với số huê lợi thấp kém của chàng.

Chàng thiếu nợ vài ba nơi và chạy theo đồng tiền, theo lối những người bị đẩy vào bước đường cùng. Rồi một buổi sáng, còn trọn một tuần mới hết tháng mà chàng không có một xu trong mình, chàng mới nghĩ đến việc bán đồ đạc; tức thì một ý kiến nảy ra trong óc chàng là bán những “hàng rẻ tiền” của vợ chàng, vì chàng vẫn giữ trong thâm tâm một thứ ác cảm đối với những đồ bịp này của vợ chàng, mà trước kia đã làm chàng bực mình. Ngay đến việc nhìn thấy chúng mỗi ngày cũng làm sứt mẻ phần nào kỷ niệm của chàng đối với người yêu.

Chàng tìm rất lâu trong đống đồ hào nhoáng của nàng để lại, vì cho tới ngày cuối cùng của đời nàng, nàng vẫn ương ngạnh mua sắm, hầu như cứ mỗi buổi tối là nàng mang về một món đồ mới; và chàng nhất định chọn xâu chuỗi lớn mà nàng có vẻ ưa thích nhất; chàng nghĩ nó có thể bán được sáu hay tám quan, vì thật sự nó được làm rất công phu, tuy là đồ giả.

Chàng bỏ xâu chuỗi vào túi, và đi bộ đến sở theo những đại lộ, tìm một tiệm kim hoàn đáng tin cậy.

Sau cùng, chàng tới một tiệm và bước vào, trong lòng xấu hổ, vì phải phô bày sự nghèo túng của mình và tìm cách bán một vật không đáng giá là bao.

Chàng nói với người chủ tiệm:

- Thưa ông, xin ông vui lòng cho tôi biết coi ông đánh giá cái này bao nhiêu.

Người kia cầm lấy xâu chuỗi, xem xét, lật lại, xách lên coi nặng nhẹ, lấy một kính lúp, gọi người thơ ký làm công, nói nhỏ vào tai người này những sự nhận xét của hắn, để xâu chuỗi lên mặt quầy hàng, và lùi ra xa ngắm nhìn để xét đoán đúng mức hơn.

Lantin, chướng mắt vì những trò này, mở miệng định nói: “Ồ, tôi biết nó chả có giá trị gì” thì người chủ tiệm kim hoàn nói:

- Thưa ông, cái này đáng giá từ mười hai đến mười lăm ngàn quan; nhưng tôi chỉ có thể mua nếu ông cho tôi biết rõ xuất xứ của nó.

Người góa vợ mở to đôi mắt, miệng há hốc không hiểu gì cả. Sau đó, chàng ấp úng:

- Ông nói?… Ông có chắc không?

Người kia đâm ra ngờ vực vì sự ngạc nhiên của chàng, nên nói cộc lốc:

- Ông có thể tìm chỗ khác nếu người ta trả hơn. Đối với tôi, nó đáng giá cao lắm là mười lăm ngàn quan. Ông trở lại đây tìm tôi, nếu không tìm được giá cao hơn.

Lantin, hết sức khờ dại, lấy lại xâu chuỗi và bước ra ngoài, vì chàng cảm thấy một cách mù mờ cần tránh đối diện với những người kia và cần suy nghĩ một mình.

Nhưng vừa ra tới đường, chàng muốn bật cười và nói thầm: “Đồ ngu! Ô! Đồ ngu! Sao mình không chụp ngay lời nói của hắn? Đó là một người thợ kim hoàn không biết phân biệt đồ giả với đồ thiệt.”

Rồi chàng bước vào một tiệm kim hoàn khác ở đầu đường Hòa Bình. Vừa nhìn thấy món nữ trang, người chủ tiệm nói to:

- Ô, hay nhỉ! Tôi biết rõ xâu chuỗi này, nó do ở tiệm tôi bán ra.

Lantin, vô cùng bối rối, hỏi:

- Nó đáng giá bao nhiêu?

- Thưa ông, tôi đã bán hai mươi lăm ngàn. Tôi sẵn sàng mua lại với giá mười tám ngàn, khi ông cho tôi biết làm thế nào ông là chủ sở hữu, để tuân theo những điều luật pháp bắt buộc.

Lần này, Lantin ngồi xuống, vì cảm động đứng không nổi. Chàng nói tiếp:

- Nhưng… nhưng ông hãy xem xét lại cho kỹ, ông ạ; cho tới bây giờ, tôi vẫn tưởng nó là đồ… giả.

Người bán hột xoàn nói:

- Ông có thể cho tôi biết quý danh?

- Được ngay, tôi tên Lantin, làm ở bộ Nội vụ, cư ngụ tại số 16, đường Những Vị Tuẫn Tiết.

Người thương gia mở các cuốn sổ của hắn ra, tìm kiếm và đọc lên:

- Thật vậy, xâu chuỗi này đã được gửi đến địa chỉ của Bà Lantin, 16 đường Những Vị Tuẫn Tiết, ngày 20 tháng Bảy năm 1876.

Và hai người nhìn nhau, người thơ lại thì luống cuống vì ngạc nhiên, người bán hột xoàn thì nghi ngờ đang gặp một tên trộm.

Người này nói tiếp:

- Ông có thể nào để món đồ này ở đây, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ thôi, tôi làm giấy biên nhận cho ông ngay.

Lantin ấp úng:

- Vâng được, rất sẵn sàng.

Và chàng bước ra, tay xếp mảnh giấy bỏ vào túi.

Rồi chàng băng qua đường, đi một đỗi, nhận ra lộn đường, quay lại đi tới điện Tuileries, qua sông Seine, lại lộn đường nữa, trở lại công trường Champs-Élysée, trong đầu không có một ý định rõ rệt. Chàng cố gắng suy luận, tìm hiểu. Vợ chàng không thể mua nổi một món đồ với giá ấy: “Không, chắc chắn như vậy”. Thế thì, đó là một món quà biếu! Món quà biếu! Món quà của ai? Tại sao?

Chàng dừng lại và đứng ngay giữa đại lộ. Sự nghi ngờ ghê tởm phớt qua óc chàng. - Nàng? - Thế thì, tất cả những món nữ trang khác cũng đều là quà biếu! Chàng cảm tưởng như quả đất rung rinh, cảm tưởng như cây trước mặt trốc gốc ngã xuống; chàng dang hai tay ra, ngã quỵ, bất tỉnh.

Chàng tỉnh dậy trong một tiệm thuốc, mà những người đi đường đã khiêng chàng vào. Chàng nhờ người ta đưa về nhà, và vào phòng đóng kín cửa lại.

Chàng khóc vùi cho tới tối, miệng cắn chặt một chiếc khăn tay để không la lên. Đoạn, chàng lên giường nằm, người rã rời vì mệt mỏi và buồn rầu, và chàng ngủ một giấc ngủ nặng nề.

Một tia sáng mặt trời đánh thức chàng, chàng uể oải đứng dậy để đi làm. Thật là khổ tâm phải đi làm sau những cơn dông tố như thế này. Chàng suy nghĩ có thể cáo lỗi cùng ông chủ sự, và viết một bức thơ cho ông ta. Rồi chàng thấy cần phải đến nhà người bán hột xoàn, và một sự xấu hổ làm chàng đỏ mặt. Chàng suy nghĩ một lúc lâu. Song le, chàng không thể để xâu chuỗi nơi nhà người này; chàng liền mặc áo quần và ra đi.

Hôm ấy là một ngày đẹp, bầu trời trong xanh, cảnh vật có vẻ vui cười. Nhiều người đi dạo, tay đút vào túi.

Nhìn họ đi qua, Lantin nói thầm: “Thật là hạnh phúc khi có tiền! Với đồng tiền, ta có thể gạt bỏ những điều phiền muộn, ta có thể đi bất cứ nơi nào ta muốn, đi du lịch, giải trí! Ồ! Nếu mình được giàu có!”

Chàng thấy đói, vì không có ăn gì từ hôm qua. Nhưng túi chàng rỗng không, và chàng nhớ lại xâu chuỗi. Mười tám ngàn quan! Mười tám ngàn quan! Đó là một số tiền đáng kể!

Chàng tới đường Hòa Bình và bắt đầu đi tới đi lui trên lề đường, đối diện với tiệm kim hoàn. Mười tám ngàn quan! Hai mươi lần chàng định vào, nhưng sự xấu hổ ngăn chàng lại.

Mà chàng thấy đói, đói nhiều, và không có một xu. Thình lình, chàng lấy quyết định, chạy băng qua đường để không có thời giờ suy nghĩ, và nhảy xô vào nhà người bán hột xoàn.

Vừa nhìn thấy chàng, người chủ tiệm vội vã kéo ghế, lễ phép mời chàng ngồi, gương mặt tươi cười. Ngay đến những người thơ ký trong tiệm kim hoàn cũng bước ra, nhìn xiên Lantin, nỗi vui mừng hiện ra trên mắt và trên môi.

Người thợ kim hoàn nói:

- Thưa ông, tôi đã dọ hỏi rồi và nếu ông vẫn theo những điều khoản trước, tôi sẵn sàng trả cho ông số tiền mà tôi đã đề nghị.

Lantin ấp úng:

- Vâng, đồng ý.

Người thợ kim hoàn lấy ở ngăn kéo ra mười tám tờ giấy bạc lớn, đếm lại, rồi đưa cho Lantin; chàng ký tên trên một tờ biên nhận nhỏ và tay run run cầm tiền đút vào túi.

Lúc sắp sửa bước ra, chàng quay lại người thương gia mà gương mặt lúc nào cũng tươi cười; chàng cúi xuống nói khẽ:

- Tôi… tôi còn những món nữ trang khác… cùng chung sự thừa kế này. Ông có muốn mua những thứ ấy nữa không?

Người thương gia cúi đầu lễ phép:

- Thưa ông, tôi rất sẵn sàng.

Một người thư ký bước ra ngoài để cười thỏa thích, một thư ký khác lấy khăn che miệng để át tiếng cười to.

Lantin, coi thường, nói trịnh trọng:

- Tôi sẽ mang ngay mấy cái đó đến ông.

Và chàng gọi một xe ngựa đi lấy các đồ châu báu.

Khi trở lại tiệm kim hoàn, một giờ sau, chàng cũng chưa ăn cơm. Họ cùng nhau xem xét các nữ trang từng món một, đánh giá mỗi món. Gần hết số nữ trang đều do tiệm này bán ra.

Bây giờ, Lantin mặc cả về những sự ước tính giá tiền, tỏ ra không bằng lòng, đòi cho xem sổ bán hàng, và giọng nói của chàng mỗi lúc mỗi to lên khi số tiền lên cao.

Những hột xoàn đeo tai đáng giá hai chục ngàn quan, những chiếc vòng ba mươi lăm ngàn, những cây trâm cài, cà rá, mề đai mười sáu ngàn, một món nữ trang nạm nhiều hột sa phia mười bốn ngàn, một hột xoàn độc chiếc treo dưới một dây chuyền vàng để đeo vào cổ bốn chục ngàn; tất cả lên tới con số là một trăm chín mươi sáu ngàn quan.

Người thương gia nói với một giọng hóm hỉnh nhưng thành thật:

- Đây là do ở một người đã đặt tất cả tiền dành dụm vào nữ trang.

Lantin đáp một cách nghiêm nghị:

- Đó là một trong những cách để đầu tư vốn liếng của mình.

Rồi chàng bước ra, sau khi đã đồng ý với người mua rằng một cuộc tái giám định sẽ được tổ chức vào ngày hôm sau.

Khi ra đường, chàng nhìn cái trụ Vendôme với ý muốn leo lên đó, như thể đó là cây cột thoa mỡ trên có treo đồ mà người ta leo lên lấy, trong ngày lễ. Chàng thấy trong lòng nhẹ nhõm, muốn chơi trò nhảy ngựa đối với bức tượng của Hoàng Đế, xây trên chóp trụ, trên nền trời xanh.

Chàng đến ăn trưa ở tiệm Voisin và uống rượu loại hai chục quan một chai.

Đoạn chàng gọi xe ngựa và đi một vòng công viên. Chàng nhìn những đoàn người ở đó với vẻ khinh bỉ, trong lòng ấm ức muốn nói to với những người đi đường: “Tôi cũng có tiền vậy. Tôi có hai trăm ngàn quan!”

Chàng sực nhớ tới sở làm! Chàng bảo đánh xe đưa tới đó, quả quyết đi vào gặp ông chủ sự và nói:

- Thưa ông, tôi đến xin ông cho tôi từ chức. Tôi hưởng một gia tài ba trăm ngàn quan.

Chàng bắt tay các bạn đồng nghiệp cũ và cho biết những dự định về cuộc đời mới của chàng; đoạn chàng đến ăn tối tại nhà hàng Cà phê Ăng Lê.

Ngồi bên cạnh chàng là một ông có vẻ sang trọng, và chàng không đè nén được nên thổ lộ cùng người kia, với một ít hãnh diện, rằng chàng vừa hưởng một gia tài bốn trăm ngàn quan.

Lần đầu tiên trong đời, Lantin không thấy buồn chán khi xem hát, và đêm đó, chàng ngủ với gái.

Sáu tháng sau, chàng tục huyền. Người vợ sau của chàng rất đoan chính, nhưng khó tính. Nàng làm cho chàng đau khổ rất nhiều.