Chương 14 SỰ THẬT LỘ RA
“Vậy, cậu đã tìm thấy điều gì?”
“Anh ta là một người cực kỳ thú vị” Goodley trả lời “Anh ta đã từng lập được vài chiến công hầu như rất khó tin tại CIA”
“Tôi biết về vụ tàu ngầm và vụ đào thoát của người đứng đầu KGB. Còn gì nữa?” Liz Elliot hỏi
“Anh ta rất được ưa thích trong cộng đồng tính báo quốc tế, như Sir Basil Charleston tại Vương Quốc Anh rất thích anh ta – chà, cũng dễ hiểu vì sao họ thích anh ta như thế – nhưng các nước NATO cũng có thái độ tương tự, đặc biệt là tại Pháp. Ryan vô tình lấy được thứ gì đó giúp cho DGSE bắt được nhóm Action Directe” Goodley giải thích. Anh ta có phần không thoải mái trong vai trò là kẻ đi lấy thông tin
Viên cố vấn an ninh quốc gia cũng không thích phải chờ đợi nhưng thật vô lý khi gây sức ép với viên học giả trẻ tuổi này, phải không? Khuôn mặt cô ta vặn vèo một nụ cười “Tôi nghĩ cậu đang bắt đầu ngưỡng mộ hắn ta đấy à?”
“Anh ta đã làm được rất nhiều việc,nhưng cũng phạm sai lầm. Dự đoán của anh ta về sự sụp đổ của Đông Đức và quá trình tái thống nhất nước Đức không chính xác” Anh ta cố không nghĩ đến chuyện mọi người chẳng mấy ai dự đoán chính xác chuyện đó. Bản thân Goodley đã dự đoán gần như chính xác vấn đề này tại Trường Đai học Kennedy, và công trình anh ta công bố xuất bản đã khiến Nhà Trắng chú ý. Viên học giả của Nhà Trắng lại dừng lại không nói tiếp
“Và…..” Elliot thúc giục
“Và có vài vấn đề trong cuộc sống cá nhân”
Cuối cùng cũng tới phần này! “Là gì thế?”
“Ryan từng bị SEC điều tra về các cổ phiếu nội gián trước khi gia nhập CIA. Hình như đó là một công ty phần mềm nhận được hợp đồng của bên hải quân. Ryan có được thông tin này trước khi mọi người biết đến và kiếm được số tiền khổng lồ. SEC tìm ra chuyện này – nguyên nhân thực sự là do ban giám đốc công ty này bị điều tra – và họ đã kiểm tra hồ sơ của Ryan. Anh ta đã thoát được vụ đó, về mặt kỹ thuật”
“Giải thích xem” Liz ra lệnh”
“Ban giám đốc của công ty vì che đậy sân sau của mình đã tiết lộ vài điều cho báo chí nhằm bảo vệ các hợp đồng, chỉ là vài chi tiết nhỏ, thậm chí thông tin chưa dài tới hai cột báo, nhưng đủ để cho thấy thông tin giao dịch được tiết lộ và điều này giúp họ và Ryan về mặt kỹ thuật thì hoàn toàn hợp pháp. Điều thú vị hơn nữa là những gì Ryan đã làm với số tiền kiếm được nhờ đó. Anh ta rút tiền ra khỏi tài khoản chứng khoán – sắp xếp nó thành một quỹ ủy thác có 4 nhà quản lý đầu tư” Goodley dừng lại “cô biết tài sản của Ryan hiện giờ bao nhiêu không?”
“Không, bao nhiêu?”
“Trên 15 triệu usd. Anh ta là gã giàu nhất trong CIA. Quỹ đầu tư của anh ta vẫn còn bị đánh giá thấp hơn một chút. Tôi nghĩ tài sản của anh ta phải là gần 20 triệu usd, nhưng trước khi gia nhập CIA, anh ta cũng đã sử dụng phương pháp kế toán tương tự để che dấu tài sản thực của mình, nhưng cô không thể đổ lỗi gì cho anh ta về chuyện đó được cả. Đánh giá tài sản ròng của một người luôn là một bí ẩn, phải không? Các kế toán luôn có nhiều cách để xử lý chuyện này. Dù sao thì anh ta cũng đã làm chuyển đó: đổ tiền vào một tài khoản riêng. Rồi cách đây không lâu chuyển nó thành một quỹ ủy thác giáo dục”
“Để dành cho các con của anh ta?”
“Không” Goodley trả lời “Những người thụ hưởng- không, để tôi nghĩ lại chút đã. Anh ta sử dụng một phần tiền đó để mua một cửa hàng tiện lợi – cửa hàng 7/11 – cho một góa phụ và các con. Phần còn lại của số tiền để mua trái phiếu kho bạc và vài cổ phiếu blue-chip để dành cho quỹ giáo dục các con của cô ta”
“Cô ta là ai?”
“Tên cô ta là Carol Zimmer. Sinh ra tại Lào, là một giá phụ của một trung sỹ trong không quân, hy sinh trong một vụ tai nạn tại một cuộc tập trận. ryan đang chăm sóc gia đình đó. Anh ta thậm chí còn đứng ra đăng ký bệnh viện cho đứa trẻ mới được sinh ra – nhân thể, đó là 1 bé gái, Ryan thường xuyên đến thăm gia đình đó” Goodley kết luận
“Tôi hiểu” Cô ta thật ra chẳng hiểu gì, nhưng nói cho có lệ “Có mối quan hệ công việc nào không?”
“Không hẳn. Như tôi nói, Mrs Zimmer là người Lào. Cha cô ta là một thủ lĩnh bộ lạc từng được CIA hỗ trợ để chống lại Bắc Việt. Toàn bộ bộ lạc đã bị xóa sổ. Tôi không biết cô ta trốn thoát bằng cách nào. Cô ta đã cưới một trung sỹ trong lực lượng không quân và tới Mỹ. Anh ta đã chết, gần đây. Không có gì trong hồ sơ của Ryan chỉ ra có mối quan hệ công việc với gia đình này cả. Có lẽ là mối quan hệ với Lào – ý tôi là quan hệ của CIA với Lào- nhưng Ryan chưa phải nhân viên chính phủ vào thời điểm đó, khi đó anh ta vẫn còn đang học đại học. Không có bất kỳ điều gì trong hồ sơ tỏ ra là có mối quan hệ công việc. Anh ta đã lập quỹ giáo dục đó trong 1 ngày, vài tháng trước cuộc bầu cử tổng thống gần đây, và từ đó thường xuyên đến thăm họ, mỗi tuần một lần. Ồ, còn có thêm một điều khác nữa”
“Điều gì?”
“Tôi đã đối chiếu chéo thông tin với một hồ sơ khác. Có vài chuyện rắc rối xảy ra ở cửa hàng 7/11 đó, vài tên côn đồ địa phương làm phiền đến gia đình Zimmer đó, vệ sỹ của Ryan, đặc vụ CIA tên là Clark, từng là một đặc vụ hiện trường, hiện giờ đảm nhiệm chức vụ vệ sỹ, tôi không tìm thấy hồ sơ về anh ta” Goodley giải thích “dù sao thì cái gã Clark đó đã khiến cho mấy thằng nhóc gangster đó một trận, một đứa trong số đó phải nhập viện. Tôi đã tìm thấy một mẩu báo có đăng về chuyện này, trong mục tin tức địa phương, rất nhỏ – đề cập đến cuộc sống dân cư thường ngày, đại loại thế. Bài báo viết về chuyện Clark và một gã CIA khác- tờ báo đó xác nhận họ là nhân viên chính phủ, chứ không nói gì đến CIA- đã bị khiêu khích bởi 4 tên côn đồ đường phố. Cái gã Clark này chắc chắn là một gã tàn nhẫn, tên cầm đầu bị dập khớp và phải vào viện. Một tên khác bị đánh đến bất tỉnh và số còn lại chỉ biết đứng đó sợ ươt cả quần. Cảnh sát địa phương thì coi đây là vấn đề của băng đảng đường phố – chà, chỉ là vấn đề đánh nhau đường phố. Bài báo không đề cập gì đến hình phạt”
“Cậu còn biết gì nữa về gã Clark này?”
“Tôi đã trông thấy anh ta vài lần. Cao lớn; hơn 40 tuổi, yên lặng, thật sự có vẻ hơi nhút nhát. Nhưng cái cách anh ta chuyển động – cô biết kiểu chuyển động thế nào không? Toio đã từng tham dự khóa học Karate. Huấn luyện viên của tôi là cựu lính Mũ Nồi Xanh, cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, cũng có cách chuyển động như thế. Anh ta chuyển động như một vận động viên, động tác dứt khoát, rõ ràng, chưa kể ánh mắt của anh ta, luôn quan sát xung quanh, luôn đề phòng và kiểm tra xem cô có phải là mối đe dọa hay không…” Goodley dừng lại. Bất chợt anh ta chợt nhận ra Clark thực sự là người như thế nào. Bất kể thế nào, Ben Goodley không phải là một thằng ngu “Đó là một gã thực sự nguy hiểm”
“Cái gì?” Liz Elliot không thật sư hiểu anh ta nói gì
“À, xin lỗi. Tôi học được điều đó từ giáo viên karate tại trường Cambridge. Người thực sự nguy hiểm lại trông rất vô hại. Cô hầu như không nhận ra họ dù trong cùng 1 phòng. Giáo viên của tôi từng bị cướp tại ga tàu điện ngầm ngay cạnh Harvard. Ý tôi là bọn chúng nghĩ ông ấy chỉ là người gác cổng, cố gắng cướp đồ và 3 tên đó bị đánh đến chảy máu gục xuống đất – ông ấy là một người Mỹ gốc phi, tôi đoán là khoảng 50 tuổi. Theo cái cách ông ấy ăn mặc thì cũng là trông giống một người gác cổng thật, chẳng nguy hiểm chút nào. Cái gã Clark này cũng thế, khiến tôi nghĩ về người giáo viên đó…thú vị thật” Goodley nói “Chà, anh ta là một SPO/ sỹ quan lực lượng đặc biệt và được đánh giá rất giỏi trong công việc”
“Tôi đoán Ryan đã tìm ra vài tên côn đồ làm phiền đến Mrs. Zimmer và để vệ sỹ của mình giải quyết vụ việc. Cảnh sát quận Anne Arundel cho rằng chuyện đó hợp lý”
“Kết luận là gì?”
“Ryan đã hoàn thành vài nhiệm vụ rất xuất sắc nhưng cũng có vài vụ lớn thất bại. Về cơ bản,anh ta là một nhân vật lớn của thời xưa cũ. Anh ta chỉ là một gã vẫn còn vướng đâu đó trong thời Chiến Tranh Lạnh. Có vấn đề với Tổ Chức, giống như vài ngày trước, khi cô không muốn tham gia trò chơi CAMELOT, anh ta nghĩ cô không thực hiện nhiệm vụ của mình một cách nghiêm túc, cho rằng việc không tham gia mấy trò chơi chiến tranh đó là thiếu trách nhiệm”
“Anh ta nói thế à?”
“Gần như nói thẳng ra luôn. Anh ta vào phòng khi tôi đang nói chuyện với Cabot”
Elliot lắc đầu. Đó là Chiến Tranh Lạnh. Nếu Tổng Thống là đúng và mình làm đúng thì sẽ không xảy ra bất kỳ khủng hoảng nào kiểu đó sẽ xảy ra. Vấn đề là đó, phải không?
“Và cho đến nay, cái gã cô cần tìm hiểu đang làm mọi thứ ổn thỏa cả” Goodley nhận xét
Viên cố vấn an ninh quốc gia bỏ qua lời nhận xét đó, nhìn vào quyển sổ ghi chú
* * *
Các bức tường được xây dựng cẩn thận, các khoản trống được bịt kín bằng plastics, hệ thống điều hòa được hoạt động không ngừng nghỉ, đảm bảo loại bỏ hơi ẩm và bụi bẩn trong không khí. Fromm đang bận điều chỉnh các ‘bàn’ trên có khối máy công cụ. Bàn là môt thuật ngữ phổ biến, được thiết kế để tải hàng tấn hàng và có nhiều lỗ vít khoan trên mỗi chân bàn rất to. Kỹ thuật viên người Đức đang điều chỉnh góc các bàn theo các mức độ tích hợp gắn ở chân
“Hoàn hảo” anh ta phát biểu sau 3 giờ làm việc. Việc này phải hoàn hảo. Giờ thì đúng là hoàn hảo rồi. Dưới mỗi chiếc bàn là chân bê tông cốt thép dày cả mét. Sau khi góc ngang chịu tải của bàn được điều chỉnh, chân bàn được cố định bằng bu lông khiến nó dính chặt với mặt đất
“Mấy cái công cụ này có cần phải cứng đến thế không?” Ghosn hỏi. Fromm lắc đầu
“Không hẳn. Mấy cái công cụ này nổi trên đệm khí”
“Nhưng anh nói chúng nặng cả tấn cơ mà!” Qati phản đối
“Thả nổi chúng trên đệm khí là chuyện nhỏ- anh chả từng thấy các bức ảnh về thủy phi cơ nặng cả trăm tấn, cần phải thả nổi các công cụ máy máy trong không khí để giảm tác động của rung động trái đất lên chúng”
“Sai lệch cho phép là bao nhiêu?” Ghosn hỏi
“Bằng với độ sai lệch của kính viễn vọng” người Đức đáp lại
“Nhưng mấy quả bom ban đầu…”
Fromm ngắt lời Ghosn “Những của bom ban đầu của bọn Mỹ thả xuống Hiroshima và Nagasaki là loại kém chất lượng. Chúng lãng phí hầu hết các lực phản ứng, đặc biệt là quả thả xuống Hiroshima – cậu giờ sẽ không sản xuất một vũ khí thô sơ như thế nữa, hẳn cậu không định cho ra một quả bom chất lượng kém như thế với đống thuốc súng này đấy chứ, hả?
Tóm lại, cậu không thể thiết kế lãng phí vật liệu phản ứng như vậy” Fromm tiếp tục “Sau mấy quả bom đầu tiên, các nhà thiết kế Mỹ phải đối mặt với vấn đề khó khăn là họ có trong tay số lượng phân hạch hữu hạn. Vào thời điểm đó, vài kg chất plutonium là nguyên liệu quý và đắt nhất thế giới. Mỗi quả bom hạt nhân có giá hàng tỷ usd trong khi các nhà máy vẫn phải thực hiện các vụ nổ thử nghiệm, rồi chi phí bổ xung để phân tách, rồi một nhà máy khác, thêm hàng tỷ usd khác…Chỉ có người Mỹ là có tiền để làm dự án kiểu này. Mọi người trên thế giới đều biết về phân hạch- chuyện chẳng có gì bí mật, cái thực sự bí mật trong lĩnh vực vật lý chứ? – nhưng chỉ có người Mỹ có tài chính và vật chất để thực hiện các thử nghiệm kiểu này. Cả nhân sự nữa” Fromm thêm vào “Nhân sự họ có đúng là rất tuyệt! Vậy là, những quả bom đầu tiên – nhân thể, hồi đó họ chế tạo được 3 quả – đã sử dung toàn bộ mọi nguyên liệu phân hạch trong tay, và vì tiêu chí chính khi đó là độ tin cậy, nên mấy quả bom đó thô sơ nhưng rất hiệu quả. Và chỉ có máy bay lớn nhất thế giới hồi đó mới có thể mang bom này
Và…khi chiến tranh kết thúc thắng lời, thiết kế bom này trở thành ngành nghiên cứu chuyên ngành, không còn là một kế hoạch điên rồ nữa, đúng không? Lò phản ứng plutonium họ đã xây ở Hanford chỉ sản xuất vài chục kg plutonium mỗi năm và người Mỹ phải tìm cách sử dụng nguyên liệu này hiệu quả hơn. Quả bom Mark -12 này là một trong những thiết kế thực sự tiên tiến đầu tiên, và ngườ Israel cải tiến nó thêm. Quả bom này gấp 5 lần tác đông so với quả bom ở Hiroshima, trong khi sử dụng nguyên liệu chỉ bằng 1/5- thành ra hiệu quả sẽ gấp 25 lần, phải không? Và chúng ta sẽ tiến thêm một bước là tăng hiệu quả phản ứng của nó lên gấp 10 lần
“Giờ nếu có một đội ngũ thiết kế thực sự chuyên nghiệp, cùng với các trang thiết bị thích hợp thì hiệu quả vụ nổ có thể…có lẽ là gấp 4 lần tiếp. Các đầu đạn tên lửa hiện đại thực sự tuyệt nhất, quyết rũ nhất…”
“Có thể đạt đến 2 megaton không?” Ghosn hỏi. Liệu có thể không?
“Chúng ta không thể đạt được điều đó ở đây” Fromm trả lời, giọng rõ là đáng tiếc “Thông tin hiện có là không đủ. Các nguyên tắc vật lý rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng có nhiều khía cạnh kỹ thuật phải được xem xét và không có các tài liệu, bài báo chính thức nào được xuất bản để giúp chúng ta biết cách thiết kế bom hạt nhân. Hãy nhớ rằng việc thử nghiệm các đầu đạn ngày nay vẫn còn được tiến hành nhằm giúp các quả bom kiểu này ngày cảng nhỏ hơn và tác dụng tốt hơn. Trong lĩnh vực này luôn phải có các thử nghiệm để kiểm tra và chúng ta thì không thể làm điều đó. Chúng ta cũng chẳng có thời gian hay tiền bạc để đào tạo các kỹ thuật viên chế tạo theo thiết kế. Tôi có thể vẽ một bản thiết kế theo lý thuyết để đạt hiệu quả vụ nổ trên 1 megaton, nhưng thực sự nó chỉ có thể đạt hiệu quả khoảng 50%. Có lẽ là trên 50%, nhưng không có thực nghiệm thì cũng không thể chắc chắn được”
“Anh có thể làm đến mức nào?” Qati hỏi
“Tôi có thể chế tạo cái này thành một vũ khí có sức nổ từ 400 đến 500 kiloton. Thể tích khoảng một mét vuông và trọng lượng khoảng 500 kg” Froom tạm dừng lại để xem xét thái độ của mọi người “Quả bom này không thể coi là đỉnh cao, nó vụng vể và nặng nề nhưng sức nổ cũng rất mạnh” Fromm nghĩ, nó sẽ thông minh hơn rất nhiều mấy quả bom do đám kỹ thuật viên người Mỹ hay Nga thiết kế trong 15 năm đầu tiên, không tệ rồi
“Dùng thuốc nổ mà vỏ bọc?” Ghosn hỏi
“Phải” người thanh niên Ả Rập này rất thông minh, Fromm nghĩ “Mấy quả bom đời đầu sử dụng vỏ thép lớn. Quả bom của chúng ta sẽ sử dụng thuốc nổ- lớn nhưng tương đối nhẹ và sức nổ không thua kém. Chúng ta sẽ phun khí tritium vào lõi quả bom tại thời điểm đánh lửa. Thiết kế này giống như thiết kế ban đầu của người Israel, tạo ra một số lượng lớn neutron, kích thích phản ứng phân hạch, và phản ứng phân hạch lại bơm các neutron dư thừa vào một nguồn tritium khác, kích hoạt phản ứng nhiệt hạch hạt nhân. Quá trình phản ứng chính, phản ứng ban đầu sẽ tạo ra khoảng 50 kiloton năng lượng và bước phản ứng thứ hai sẽ tạo ra 400 kiloton năng lượng”
“Cần bao nhiêu tritium?” Không khó để tìm kiếm lượng nhỏ chất này – các nhà sản xuất đồng hồ và ông súng ngắm có sử dụng nó, nhưng lượng tính bằng kính hiển vi- Ghosn biết vài nhà cung cấp có thể bán chục miligram, hắn mới chỉ tự mình tìm kiếm gần đây. Tritium – xét trên quan điểm thương mại- mới là nguyên vật liệu đắt nhất thế giới, chứ không phải plutonium như Fromm nói. Nhưng bạn có thể mua nó, chứ không phải chất plutonium vốn không thể dùng tiền để mua
“Tôi cần 50 gram” Fromm tự mãn “Thực tế chúng ta có thể cần nhiều hơn”
“50gram!” Ghosn sốc óc “50?”
“Tổ hợp lò phản ứng của chúng tôi đang sản xuất nguyên liệu hạt nhân đặc biệt này cho chính dự án sản xuất bom nguyên tử của Đông Đức. Khi chính phủ XHCN sụp đổ, họ quyết định chuyển số plutonium này cho Liên Xô – để thể hiện lòng trung thành với hệ thống XHCN, như cậu thấy. Nhưng Liên Xô không nhìn nhận vấn đề theo cách đó. Phản ứng của bọn họ” – Fromm tạm từng lại – “bọn họ coi nó như…chà, tùy các anh nghĩ nó là gì. Phản ứng của bọn họ mạnh đến mức tôi quyết định dấu đi số lượng tritium chúng tôi đã sản xuất. Như các anh biết, nó rất có giá trị trên thị trường thương mại – các anh có thể coi đó là hợp đồng bảo hiểm của riêng tôi đi”
“Hiện ở đâu?”
“Dưới hầm nhà tôi, dấu trong vài cục bin nickel-hydrogen”
Qati không thích chuyện này chút nào, hoàn toàn không. Viên kỹ thuật người Đức có thể thấy vị chỉ huy người Ả Râp này hiện có sức khỏe kém và điều đó khiến cho hắn ta không thể che đấu nổi cảm xúc thật của bản thân
“Dù sao thì tôi cũng cần phải quay lại Đức để lấy một số máy công cụ” anh ta nói
“Anh cũng có chúng sao?”
“Cách nhà tôi 5km là Viện vật lý thiên văn Karl Marx. Đáng lẽ chúng tôi phải sản xuất kính viễn vọng thiên văn trong viện đó, cả kính quang học và tia X. Than ôi, nó sẽ không bao giờ được mở cửa. Lãng phí cả lớp vỏ ngụy trang, hả? Có một số thùng lớn trong cửa hàng máy móc, tất cả đều được đánh dấu ‘Dụng cụ vật lý thiên văn’, chứa sáu máy công cụ năm trục có độ chính xác cao – loại máy công cụ chính xác nhất đấy” Fromm cười ranh mãnh như sói rừng “Cincinnati Milacron sản xuất tại Hoa Kỳ, chính xác là những máy móc người Mỹ đang sử dụng tại cơ sở Oak Ridge, Rocky Flats, và Pantex của bọn họ”
“Thế còn các kỹ thuật viên vận hành nó thì sao?” Ghosn hỏi
“Chúng tôi đã đào tạo được 20 người, 16 đàn ông và 4 phụ nữ, đều có bằng đại học…Không, chuyện đó quá nguy hiểm. Không nhất thiết phải tuyển dụng họ để làm chuyện này. Mấy chiếc mày này đều ‘thân thiện với người dùng’ đúng như bọn họ quảng cáo. Tự chúng ta cũng có thể làm việc, chỉ là mất thời gian hơn nhiều. Thực tế thì bất kỳ thợ mài thấu kính lành nghề nào – thậm chí là công nhân sản xuất vũ khí giỏi cũng có thể sử dụng chúng. Chẳng phải công việc mà 50 năm trước cần đến một người đoạt giải Nobel mới có thể làm thì ngay nay chỉ cần một thợ máy giỏi giải quyết hay sao” Fromm nói “Đó chính là bản chất của sự tiến bộ, đúng không hả?”.
“Có thể được, hoặc cũng có thể không” Yevgeiy nói. Anh chàng đã làm nhiệm vụ liên tục trong 20 giờ, chỉ được ngủ tối đa 6 giờ rồi phải làm ca tiếp dài hơn
Nếu thực sự tìm được con tàu Mỹ đó thì chắc chắn điều họ làm tốt nhất là vận dụng được mọi kỹ năng ucar Dubinin. Ông đoán con tàu ngầm Mỹ đó đã hướng về phía nam, tốc độ khoảng 5 hải lý/giờ. Các yếu tố về môi trường thủy văn cũng cần được tính toán đến. Ông phải cho tàu tiến lại gần nó, trong khoảng cách cho phép của tiêu điểm âm thanh, nhưng không tiến vào đến khu vực họi tụ sóng âm phát hiện của sonar. Khu vực hội tụ sóng âm (CZ-Convergence zone) chính là khu vực hình tròn hội tụ xung quanh tàu ngầm giống như một chiếc donut (bánh rán kiểu Mỹ). Trong vùng hội tụ sóng âm, nếu một âm thanh từ bất kỳ nơi nào truyền xuống dưới sẽ bị khúc xạ trở lại do ảnh hưởng của nhiệt độ và áp suất nước, âm thanh khúc xạ sẽ theo một đường cong xoắn ốc, tuân theo định luật khoảng cách bán định kỳ (semi-regular intervals), dao động dẫn truyền qua lại và độ lớn của khoảng cách bán định kỳ này cũng phụ thuộc vào môi trường thủy văn cụ thể. Bằng cách tránh khu vực hội tụ của sóng âm thanh của mục tiêu giả định, ông mới có thể tránh được các phương tiện phát hiện của đối phương. Nhưng nếu muốn tránh vùng hội tụ sóng âm thì phải đi vào trong khoảng cách đường truyền trực tiếp theo lý thuyết (theoretical direct-path distance), trong vùng này hướng dẫn truyền âm là từ nguồn âm phát ra môi trường xung quanh mà không phản xạ lại. Để vào khu vực này một lần nữa mà không bị bên kia phát hiện, ông phải giữ con tàu ở đỉnh cao nhất tại lớp đường nhiệt / lớp thay đổi nhiệt độ nhanh nhất trong đại dương (thermocline layer )- ông cho rằng con tàu Mỹ đó đang chạy ở dưới lớp đường nhiệt này- đồng thời vẫn phải đặt dàn kéo sonar của tàu ở dưới lớp đường nhiệt. Theo cách này, tiếng ồn do động cơ chính của tàu ông có lẽ sẽ được phản xạ sang hướng khác, tránh bị con tàu ngầm Mỹ phát hiện (má ơi, mất cả tiếng để dịch mỗi đoạn này sao cho dễ hiểu )
Vấn đề chiến thuật của Dubinin chính ở tàu ngầm của ông không tốt bằng Mỹ. Con tàu ngầm Mỹ này chạy yên lặng hơn tàu của ông và chắc chắn sẽ được trang bị hệ thống sonar tốt hơn cũng kỹ thuật viên sonar giỏi hơn. Thượng úy Yevgeniy Nikolayevich Ryskov là một sỹ quan trẻ sáng dạ, nhưng cậu ta là sỹ quan chuyên ngành sonar duy nhất trên tàu này có thể sánh ngang với các đồng nghiệp Mỹ và cậu ta đã làm việc đến kiệt sức rồi. Lợi thế duy nhất của thuyền trưởng Dubinin là chính mình. Ông là nhà chiến thuật xuất sắc và ông biết rõ điều đó. Thuyền trưởng tàu Mỹ kia thì không, Dubinin nghĩ, và hắn ta thì không hề biết rõ điều này. Còn một bất lợi nữa, tàu ông đang ở trên cùng lớp đường nhiệt, do vậy máy bay tuần tra của Mỹ sẽ dễ dàng phát hiện ra, nhưng Dubinin sẵn sàng chấp nhận rủi ro này, vì trước đó chưa hề có chỉ huy tàu ngầm Nga nào dám lần theo dấu vết tàu ngầm Mỹ thế này
Cả thuyền trưởng và viên thượng úy đều chăm chăm nhìn vào màn hình ‘thác nước’, không phải tìm kiếm những ánh đèn nhấp nháy mà tìm kiếm một đường thẳng đứng rời rạc, gần như không phân biệt được vì độ sáng của nó rất mơ hồ. Âm thanh của con tàu ngầm lớp Ohio này yên lặng hơn cả tiếng ồn của đại dương và cả hai người đàn ông đều tư hỏi phải chăng một số điều kiện trong môi trường thủy văn đã khiến họ lầm tưởng rằng đó là tên lửa đạn đạo tối tân nhất. Cũng có thể, Dubinin nghĩ, có thể do tâm trí hai người bọn họ quá mệt mỏi nên đã xuất hiện ảo giác
“Chúng ta cần 1 âm thanh mồi” Ryskov nói, với lấy tách trà “Một công cụ nào đó rơi xuống, một cách cửa sập….. một sai lầm, một lỗi lầm….”
Mình có thể ping hắn ta…mình có thể lao xuống dưới tầng nhiệt này và ping hắn bằng thiết bị sonar và tìm kiếm….KHÔNG! Dubinin quay đầu lại và gần như tự thề. Hãy kiên nhẫn, Valetin. Đối phương đã kiên nhẫn thế, chúng ta cũng phải kiên nhẫn
“Yevgeniy Nikolay’ch, cậu trông thật mệt mỏi”
“Thuyền trưởng, tôi có thể nghỉ ngơi tại Petropavlovsk. Tôi sẽ ngủ liên tục suốt tuần và gặp vợ- chà, tôi sợ sẽ không ngủ được cả tuần đó mất” cậu ta nhếch mép cười. Khuôn mặt của viên thượng sỹ phản chiếu ánh đèn màn hình sáng rọi “Tôi không muốn bỏ lỡ một cơ hội thế này!”
“Có thể chỉ là môt tiếng động tình cờ”
“Tôi biết, thuyền trưởng. Đám thủy thủ Mỹ chết tiệt này….tôi biết chính là nó, tôi biết đó chính là một chiêc tàu ngầm Ohio. Còn có thể cái gì được nữa?”
“Ảo giác, Yevgeniy, trí tưởng tượng và mong muốn quá mạnh mẽ của chúng ta”
Thượng úy Ryskov quay lại “Tôi nghĩ thuyền trưởng hẳn biết rõ điều này có thật hay không hơn cả tôi!”
“Tôi nghĩ thượng sỹ của mình đã đúng” Đây đúng là kiểu trò chơ đó! Tàu đối tàu, trí đấu trí. Cuộc đấu cờ trong không gian 3 chiều, với môi trường thực tế thay đổi liên tục. và người Mỹ luôn là kẻ trên trong trò chơi này. Dubinin biết rõ điều đó. Trang thiết bị tốt hơn, thủy thủ tốt hơn, được huấn luyện có hệ thống hơn. Tất nhiên là người Mỹ cũng biết rõ điều đó, nhận thức rõ rằng nước Mỹ đã hai thế hệ giữ vững vị trí thống lĩnh, điều đó khiến bọn họ trở nên kiêu ngạo, mất dần tinh thần đổi mới….không phải tất cả ngươi Mỹ đều thế nhưng chắc chắn vài tên trong số đó đang trong tình trạng này. Một chỉ huy thông minh của con tàu ngầm tên lửa sẽ không bao giờ làm điều đó….nếu mình có một con tàu ngầm tốt như thế, chắc chắn không ai trên thế giới này tìm được mình!
“Thêm 12 giờ nữa, nếu không tìm được thì chúng ta phải dừng lại và quay về nhà”
“Tệ thật” Ryskov phát biểu, nhưng không có ý kháng lệnh. 6 tuần trên biển cũng là quá đủ với anh chàng rồi
* * *
“Lặn sâu cuống 60 feet” viên sỹ quan phụ trách sàn ra lệnh
“Lặn sâu xuống 60feet, rõ” viên sỹ quan lái tàu trả lời “10 độ lên”
Diễn tập phóng tên lửa vừa bắt đầu. Huấn luyện thường xuyên nhằm đảm bảo năng lực duy trì khả năng hoạt động thành thạo của phi hành đoàn đồng thời rèn luyện độ nhạy cảm với các nhiệm vụ chiến đấu cơ bản, bao gồm phóng 24 quả tên lửa UGM-93 Trident-II D-5, mỗi tên lửa có 10 quả Mark 5 với sức nổ trên lý thuyêt là 400 kiloton. Một con tàu ngầm mang tổng cộng 240 đầu đạn với tổng sức công phá lên tới 96 megaton. Nhưng sức mạnh của nó còn hơn thế, vì vũ khí hạt nhân còn phụ thuộc vào một số quy luật vật lý tương tác. Sức nổ của một vũ khí hạt nhân nhỏ hiệu quả hơn sức mạnh của một đầu đạn nguyên tử lớn. Quan trọng hơn cả, loại Mark 5 này có động cơ đẩy (CEP “Circular Error Probable”) độ chính xác đã đạt đến vòng tròn xác suất sai số chỉ cộng trừ 50m, có nghĩa là sau khi đầu đạn đi 4000 dặm, một nửa đầu đạn sẽ rơi chỉ trong vòng 164,041 feet, sai số cách mục tiêu không quá 300 feet. Khoảng cách ‘lỗi’ (từ miss trong missile/ tên lửa- cách chơi chữ của tác giả) nhỏ hơn rất nhiều so với hố nổ mà mỗi đầu đạn tạo ra, vì vậy tên lửa D-5 là tên lửa đạn đạo bắn trên biển (SLBM- sea-launched ballistic missile) đầu tiên có khả năng phản công. Nó được thiết kế để khiến cho đối phương mất khả năng chống trả dưới đòn phủ đầu của Hoa Kỳ. Nếu tính theo công thức Mỹ thường dùng 2 đầu đạn để đối phó với một mục tiêu thì riêng tàu ngầm Maine có thể tiêu diệt 120 tên lửa và/hoặc boong-ke chỉ huy tên lửa của Liên Xô, tương đương 10% lực lượng ICBN hiện tại của Xô Viết vốn cũng chịu trách nhiệm cho các nhiệm vụ phản công.
Tại trung tâm kiểm soát tên lửa – MCC (missile-control center) – đắng sau phòng phóng tên lửa hình ông, viên sỹ quan chỉ huy mở bảng điều khiển và màn hình sáng lên 24 ‘chú chim’ xếp thành hàng.. Thiết bị dẫn đường của tàu cung cấp thông tin cho hệ thống dẫn đường của mỗi tên lửa. Hệ thống định vị trên tàu ngầm mất vài phút để kết nối với các vệ tinh định vị trên quỹ đạo. Để bắn trúng mục tiêu, tên lửa không chỉ phải biết vị trí của mục tiêu mà còn phải biết vị trí xuất phát của chính nó. Hệ thống định vị toàn cầu NAVSTAR có thể cung cấp dữ liệu tương ứng cho tên lửa với sai số dưới 5m. Trong khi máy tính kiểm tra từng tên lửa và báo cáo trạng thái sẵn sàng, viên sỹ quan chỉ huy vẫn quan sát mỗi thay đổi trên bảng điều khiển.
Xung quanh tàu ngầm, áp suất nước giảm xuống còn 2.2 tấn/feet vuông cho mỗi 100 feet nổi lên. Khi áp suất giảm xuống, áp suất đối với thân tàu USS Maine cũng ngày càng ít đi, vì vậy thân tàu tất nhiên sẽ phồng lên một chút, khi thân tàu thép thoát khỏi môi trường ngột ngạt, khó tránh khỏi phát ra tiếng động rất nhỏ..
Nó gần như chỉ là một tiếng thở dài, hầu như không thể nghe được ngay cả với sự trợ giúp của hệ thống sonar, gần giống với tiếng cá voi kêu. Ryskov đã quá mệt mỏi đến mức phải mất đến vài phút mới hiểu ra mình vừa bỏ lỡ cái gì, nhưng dù buồn ngủ đến díp cả mắt thì tâm trí của anh vẫn luôn cảnh giác, luôn chú ý đến âm thanh đó
“Thuyền trưởng…có tiếng phồng của thân tàu…ngay đó!” Bàn tay anh chỉ trên màn hình, ngay lúc anh và Dubinin đang kiểm tra “Nó đang tiến đến vùng biển nông”
Dubinin chạy ngay vào phòng chỉ huy “Chuẩn bị thay đổi độ sâu” ông lập tức đeo tai nghe để kết nối trực tiếp với thượng sỹ Ryskov mọi lúc
“Yevgeniy Nikolay’ch, việc này phải làm việc thật tốt và thật nhanh. Tôi sẽ cho tàu lặn sâu xuống dưới lớp đường nhiệt ngay khi tàu Mỹ nổi lên trên lớp đó”
“Không, thuyền trưởng, ông cần phải đợi. Lưới sonar của nó vẫn còn treo ở phía dưới, giống hệ thống của chúng ta!”
“Mẹ kiếp!” Dubinin gần như cười phá lên “Tha lỗi cho tôi, thượng sỹ, tôi sẽ thưởng cho cậu 1 chai Starka vì ý kiến này” Đây loại vodka tốt nhất do Nga sản xuất
“Vợ tôi và tôi sẽ uống mừng sức khỏe của ông…giờ tôi đang đọc góc mục tiêu…ước tính mục tiêu đang ở 5 độ so với mảng sonar của chúng ta…thuyền trưởng, nếu tôi có thể theo dõi đúng thì chúng ta sẽ lỡ mất nó ngay khi nó nổi lên tầng đường nhiệt…”
“Phải, nhanh ước tính khoảng cách đi!” đây là lời ra lệnh thô lỗ, nhưng Dubinin không quan tâm đến thái độ lúc này khi ra lệnh cho sỹ quan dưới quyền
“2 độ…tiếng ồn thân tàu đã biến mất…rất khó nắm bắt vị trí đối phương, giờ nó ẩn mình trong tiếng ồn xung quanh, ẩn sâu hơn trước – ĐÃ MẤT! nó giờ đã qua đường nhiệt!”
“1,2,3…”Dubinin đếm. Tàu Mỹ chắc chắn giờ đang phóng tên lửa hoặc trôi đến vùng biển nông để nhận liên lạc, trong bất kỳ trường hợp nào thì nó cũng sẽ chỉ ở độ sau khoảng 20m và lưới sonar của nó..dài khoảng 500m…tốc độ 5 hải lý và….ĐÃ ĐẾN LÚC!
“Lái tàu, điều chỉnh mũi tàu xuống 5 độ, chúng ta sẽ xuống lớp đường nhiệt, Starpom/ thuyền phó, chú ý nhiệt độ nước bên ngoài.Chậm rãi, lái tàu, chậm rãi….”
Con tàu Admiral Lunin chúi mũi xuống và từ từ lặn xuống biển sâu, đi qua ranh giới thủy văn nhấp nhô của tầng nhiệt quyển, ranh giới giữa nước tương đối ấm ở đại dương nông và nước lạnh hơn ở đại dương sâu.
“Khoảng cách?” Dubinin hỏi viên sỹ quan phụ trách theo dõi
“Khoảng 5 đến 9.000m, thưa thuyền trưởng! Dựa theo dữ liệu thì đây là phán đoán tốt nhất của tôi”
“Làm tốt lắm, Kolya!”
“Giờ cũng ta đã xuống dưới đường nhiệt, nhiệt độ nước giảm 5 độ!” viên thuyền phó thông báo
“Điều chỉnh mũi tàu về 0 độ, cân bằng tàu”
“Mũi tàu về 0, thưa thuyền trưởng…góc thân tàu bằng 0”
Nếu trần cabin đủ cao thì Dubinin sẽ nhảy cẫng lên. Ông vừa làm được việc mà chưa có chỉ huy tàu ngầm Liên Xô nào làm được trước đó – và nếu thông tin tình báo của ông chính xác thì cũng số thuyền trưởng Mỹ là được điều này cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ông đã tìm thấy và định vị được một tàu tên lửa đạn đạo lớp Ohio của Mỹ. Nếu giờ có chiến tranh thì ông có thể phóng sonar chủ động và phóng ngư lôi tiêu diệt. Ông đã thắng một trong những trò chơi khó khăn nhất thế giới, và ở gần đủ để tung ra cú bắn trí mạng. Da ông ngứa ran trong khoảnh khắc phấn khích này. Không gì trên thế giới có thể so sánh với cảm giác hiện giờ của ông. Không gì cả
“Ryl nepravo” ông ra lệnh tiếp theo “bánh lái hướng phải, hướng mới 3-0-0. Chậm rãi tăng tốc lên 10 hải lý”
“Nhưng, thưa thuyền trưởng….” sỹ quan lái tàu phân vân
“Chúng ta cần rút lui. Hắn ta sẽ tiếp tục cuộc diễn tập trong 30 phút tới. Cho đến khi cuộc diễn tập kết thúc, rất khó thoát khỏi sự phát hiện của thiết bị chống ngầm. Tốt hơn là bây giờ rời đi. Đừng cho hắn biết chúng ta vừa làm gì. Dù sao thì nhiệm vụ đã hoàn thành, chúng ta sẽ gặp lại nó thôi. Chúng ta đã biết cách định vị nó và tiếp cận đủ gần để ra đòn tấn công. Mọi người, thuyền trưởng của các cậu sẽ mở tiệc uống mừng tại Petropavlovsk! Giờ thì chúng ta hãy yên lặng rời khỏi vùng biển này và đừng để bên kia biết chúng ta từng hiện diện ở đây”
* * *
Đại tá Robert Jefferson Jackson ước gì mình trẻ lại, được có mái tóc đen hoàn toàn và lại được coi là ‘tên ngốc’ trẻ tuổi từa kết thúc khóa học tại Pensacola, háo hức lần đầu tiên được lái một trong những chiếc máy bay chiến đấu đáng sợ thực hiện cuộc dạo chơi đầu tiên tại Trạm Không Quân Hải Quân Đại Dương (Oceana Naval Air Station). Việc trực tiếp chỉ huy 24 chiếc tomcat F-14D cũng không khiến anh hài lòng bằng việc ‘sở hữu’ một chiếc máy bay và nó chỉ thuộc mình anh. Thay vào đó, hiện với tư cách là Chỉ Huy Đội Bay (Commander Air Group), anh ‘sở hữu’ 2 phi đội máy bay tomcat, 2 phi đội F/A-18 Hornet, một trong những máy bay tấn công tầm trung xâm nhập A-6E Intruder, một phi đội máy bay săn ngầm S-3 và cuối cùng là vài máy bay tiếp nhiên liệu trên không, máy bay tác chiến điện tử Prowler và máy bay trực thăng cứu hộ chống ngầm. Tổng cộng 78 ‘con chim’ có giá trị tương đường…bao nhiêu nhỉ? Một tỷ usd? Nếu tính thêm chi phí thiết bị thay thế thì có khi còn nhiều hơn. Rồi còn chưa kể tới 3000 nhân sự bay và chịu trách nhiệm bảo trì, tất nhiên mỗi người bọn họ đều vô giá. Anh hiện đang chịu trách nhiệm về mọi thứ liên quan. Sẽ vui hơn nhiều nếu chỉ là một phi công chiến đấu mới vào nghề, tự lái chiếc máy bay của mình và để đội quản lý lo lắng về mọi vấn đề khác. Nhưng giờ Robby lại là quản lý, là cái gã mà các cậu nhóc bàn luận trong các cabin của con tàu này. Họ không muốn bị gọi trong phòng anh, vì điều đó giống như cậu học sinh phải lên văn phòng gặp hiệu trưởng. Họ cũng không thực sự thích bay cùng anh, vì (A) anh đã quá già để trở thành người bay giỏi (họ nghĩ thế) và (B) anh sẽ nói điều mình nghĩ khi thấy họ làm sai (các phi công chiến đấu thường không sẵn sàng thừa nhận với người khác lỗi sai, chỉ âm thầm công nhận với bản thân mình thôi)
Đây đúng là sự trớ trêu. Công việc trước của anh là ở Lầu Năm Góc, xử lý giấy tờ. Anh đã từng cầu nguyện và khao khát thoát được công việc đó, nơi niềm vui mỗi ngày chỉ là tìm được chỗ đậu xe tốt. Và rồi anh được trao quyền chỉ huy các đội không quân – và vướng vào công việc hành chính hàng ngày nặng nhọc hơn bất kỳ công việc nào anh từng làm trước đây. Ít nhất thì anh vẫn có thể bay 2 lần mỗi tuần….nếu may mắn. Hôm nay chính là ngày may mắn đó. Trung úy phụ trách chuyên môn, cấp dưới của anh, đã cười toe toét khi gặp anh trên đường ra cửa
“Hãy để ý nhà cửa nhé, trung úy”
“Rõ, thưa ngài. Tôi sẽ ở đây cho đến khi anh quay lại”
Jackson dừng lại giữa đường “Cậu có thể gọi thêm ai đó hỗ trợ tất cả công việc giấy tờ này”
“tôi sẽ thử xem sir”
Một chiếc ô tô nội bộ đưa anh đến sàn bay. Jackson đã mặc bộ đồ bay Nomex của mình, bộ đồ có mùi vị cũ, màu nâu olive của nó đã phai màu sau nhiều lần giặt, khủyu tay và mông sờn rõ cho thấy nó đươc sử dụng trong thời gian dài. Anh đáng nhẽ nên và có quyền lấy một bộ đồ mới, nhưng mọi phi công đều có chút mê tín và Robby đã đồng hành cùng bộ đồ may này nay trong rất nhiều chuyến bay
“Hey, Chỉ huy!” Một trong những sỹ quan chỉ huy trong phi đội của anh hét lên
Chỉ huy Bud Sanchez thấp hơn Jackson. Làn da olive và bộ râu kiểu Bismarck của anh chàng làm nổi bật đôi mắt sáng và nụ cười giống như trong các quảng cáo kem đánh răng. Sanchez, sỹ quan chỉ huy phi đội VF-1, hôm nay sẽ bay cùng với Jackson. Họ đã bay cùng nhau khi Jackson từng chỉ huy VF-41 trên tàu sân bay John F. Kennedy “Chim của anh tất cả đã sẵn sàng. Lần này anh định đâm vào mông ai chưa?”
“Hôm nay ai là đối thủ?”
“Vài jarhead (tiếng lóng chỉ lính hải quân) từ đơn vị 18-Delta, căn cứ Cherry Point. Chúng ta có một con Hummer đã cất cánh ở sẵn trên không cách đây khoảng 100 dặm và tiến hành diễn tập BARCAP chống lại mấy kẻ xâm nhập tầm thấp” BARCAP có nghĩa là Tuần Tra Chiến Đấu Trên Không tại Ranh Giới (Barrier Combat Air Patrol). Nhiệm vụ bao gồm chặn đứng mọi cuộc tấn công của máy bay địch tại ranh giới không cho phép địch thủ vượt qua “Có định làm vài cú ACM không? Mấy tay lính thủy đánh bộ nói qua điện thoại có vẻ kiêu ngạo lắm”
“Tên lính thủy đánh bộ mà tôi không thể đối phó vẫn chưa sinh ra” Robby nói khi lấy mũ bay của mình ở giá đặt. Mật danh qua radio của anh, Spade, vẽ trên đó.
“Hey, RIO của anh” Sanchez gọi “sắp đến giờ rồi, đi thôi!”
“Đang đến đây Bud” Michael ‘Lobo’ Alexander từ locker (khu vực tủ quần áo) bước ra, theo sau là sỹ quan phụ trách đánh chặn radar của Jackson, Henry ‘Shredder’ Walters. Cả hai đều dưới 30 tuổi, mang quân hàm trung úy. Trongp hòng thay đồ, họ thường gọi nhau bằng biệt danh chứ không theo cấp bậc. Robby yêu cách sống trong phi đội này ngang với tình yêu đất nước mình
Ở bên ngoài, sỹ quan phụ trách bảo dưỡng máy bay – các trung sỹ – dẫn đường cho các phi công tới các ‘con chim’ của mình và giúp họ lên máy bay (Đây là khu vực nguy hiểm trên sàn bay của tàu sân bay, các phi công về cơ bản phải được các binh sỹ chuyên môn phụ trách hộ tống, nếu không sẽ dễ bị lạc đường hoặc bị thương). Chú chim của Jackson có số ID là 2 số 0 ở mũi. Phía dưới thân được sơn chữ SPADE, biệt hiệu của cơ trưởng R.J.Jackson để đảm bảo mọi người đều biết đây là chú chim của CAG/ chỉ huy lực lượng hải quân của tàu sân bay. Dưới đó còn là một lá cờ của chiếc máy bay chiến đấu MiG-29 ám chỉ không lâu trước đây một phi công Iraq đã lái con bay này vô tình bay quá gần chiếc Tomcat của Jackson và bị anh bắn hạ. Không chẳng có gì để kể nhiều – viên phi công kia đã quên kiểm tra hướng ‘6 giờ’ của mình và phải trả giá – nhưng bắn giết là bắn giết, và bắn giết là điều mà các phi công chiến đấu phải làm trong suốt sự nghiệp
5 phút sau, cả 4 phi công chiến đấu đều đã yên vị, thắt dây an toàn và nổ máy
“Shredder, sáng nay thế nào?” Jackson hỏi qua bộ đàm liên lạc nội bộ
“Chỉ huy, sẵn sàng bắn hạ vài tên lính thủy đánh bộ. Phía sau bình thường. Hôm nay thứ này sẽ bay chứ?”
“Đến lúc biết rồi” Jackson bật công tắc liên lạc radio “Bud, đây là Spade, sẵn sàng”
“Rõ, Spader, anh dẫn đầu đi” Cả 2 phi công đều nhìn quanh, nhận được tín hiệu của các sỹ quan kỹ thuật cho thấy mọi thứ sẵn sàng, họ nhìn quanh kiểm tra xung quanh lần nữa
“Spade dẫn đầu’ Jackson nhả phanh “Khởi hành nào”.
“Chào em yêu” Manfred Fromm nói với vợ
Traudl chạy đến ôm chầm lấy hắn ta “Anh đã đi đâu thế?”
“Anh không thể nói rõ được” Fromm trả lời, kèm theo cái nháy mắt với vọ. Ông ta ngâm nga vài câu trong bài hát ‘Đừng khóc cho tôi Argentina’ của Lloyd Webber
“Em biết là anh sẽ hiểu mà” Traudl rạng rỡ cười với hắn
“Em đừng kể chuyện này với ai nhé” để trấn an vợ, hắn đưa 1 cuộn tiền gồm 5 bó 10.000 mark/bó, số tiền này sẽ khiến con quỷ cái này vui vẻ im mồm im miệng, Manfred Fromm tự nhủ “và anh chỉ ở nhà đêm nay thôi, Anh có vài việc cần làm và tất nhiên…”
“Tất nhiên rồi, Manfred” cô ta lại ôm hắn, tiền đã ở trong tay “Chỉ là nếu anh gọi điện trước thì tốt hơn”
Việc sắp xếp vận chuyển mấy công cụ dễ dàng đến mức ngạc nhiên. Có một con tàu chuẩn bị đến Latakia, Syria, khởi hành từ Rotterdam trong 70 giờ nữa. Hắn ta và Bock đã sắp xếp để một công ty vận tải thương mại chất đống máy móc vào một container nhỏ, đưa nó lên tàu và dự kiến dỡ hàng tại Syra trong 6 ngày tới. Vận chuyển bằng cách này chậm hơn bằng đường hàng không hay thập chí là đi tàu tới một cảng ở Hy Lạp hoặc Italy rồi từ đó vận chuyển bằng đường biển tiếp, nhưng Rotterdam là cảng biển lớn nhất thế giới với việc các nhân viên hải quan chủ yếu để ý đến việc phát hiện các chuyến hàng kèm ma túy, với các con chó nghiệp vụ lởn vởn thì cách này lại an toàn và khiến họ yên tâm hơn nhiều
Fromm bảo vợ vào bếp pha cà phê. Việc làm đó chỉ mất vài phút và hắn cũng chỉ cần từng đó thời gian. Hắn bước vào tầng hầm. Ở trong góc, cách xa nhất bình nước nóng, có một đống linh tinh đồ lặt vặt được xếp gọn gàng, trên đó là 4 hộp sắt đen. Mỗi hộp nặng 12kg, khoảng 25 pound. Fromm lôi từng hộp ra một – trong lần thứ hai sờ tới mấy thứ này, hắn lấy ra đôi găng tay từ ngăn bàn để bảo vệ tay – và đặt chúng lên phía sau chiếc xe BMW mà hắn đã thuê. Khi cà phê chín thì công việc đã xong
“Trông anh rám nắng quá” Traudl nhận xét khi bưng khay cà phê từ bếp ra, trong đầu đã nghĩ xong cách tiêu 1/4 số tiền hắn vừa đưa. Vậy là Manfred đã hiểu chuyện, cô ta biết mà, trước sau gì anh ta cũng hiểu ra thôi. Nhưng tất nhiên hiểu chuyện sớm luôn tốt hơn là muôn. Đêm nay cô ta sẽ ‘đặc biệt’ với hắn ta gấp đôi mọi khi
* * *
“Günther?”
Bock không muốn để Fromm một mình xử lý đống thiết bị, nhưng hắn cũng có một nhiệm vụ phải làm, nhiệm vụ này còn nguy hiểm hơn cả việc vận chuyển đống thiết bị đó. Hắn tự nhủ, độ rủi ro thực hiện nhiệm vụ này quá cao, dù thật sự thì so với các bước trong kế hoạch thì tại bước này vẫn còn chưa tính là nguy hiểm. Trong bước lập kế hoạch thì thật kỳ lạ và thoải mái khi nghĩ đến nguy hiểm sẽ gặp
Erwin Keitel sống nhờ lương hưu, không khá giả lắm, vì hai lý do. Thứ nhất, ông ta từng là Trung tá thuộc lực lượng Stasi của Đông Đức, sỹ quan gián điệp và phản gián thuộc Cộng Hòa Dân Chủ Đức hiện giờ không còn tồn tại. Thứ hai, ông ta yêu thích công việc đã làm trong 32 năm này. Trong khi hầu hết các đồng nghiệp cũ nhận thức được sự thay đổi của đất nước và chấp nhận đặt lý tưởng nước Đức trên hết mọi hệ tư tưởng từng tiếp thu- và báo cáo mọi điều họ biết với Cơ Quan Tình Báo Liên Bang Đức (the Bundesnachrichtendienst) – thì Keitel quyết định mình sẽ không phục vụ cho đám giai cấp tư sản đó và điều này khiến cho ông ta trở thành một trong những công dân ‘về mặt chính trị đã gây cản trở’ cho quá trình thống nhất nước Đức. Lương hưu trở thành khoản sống gần như duy nhất. Chính phủ Đức mới tôn trọng và trả hết các khoản nợ mà chính phủ trước đó để lại. Ít nhất thì điều này tạm thờii giải quyết những khó khăn chính trị và vấn đề mà nước Đưc hiện tại phải đối mặt bây giờ là đấu tranh hàng ngày với các sụ thật vốn không thể và sẽ không giải quyết được, cái đó không thể giải quyết bằng khoản lương hưu. Gửi cho Keitel một khoản lương hưu dễ hơn là đưa cho ông ta một khoản trợ cấp, vốn không được coi trọng bằng lương hưu. Về mặt chính phủ là nghĩ như thế. Nhưng Keitel không nhìn nhận vấn đề theo cách đó. Ông ta nghĩ, nếu thế giới này có công bằng thì ông ta đáng nhẽ phải bị xử tử hoặc trục xuất – Keitel không biết là chính xác ông nên bị trục xuất đi đâu. Lúc đầu, ông ta nghĩ đến việc bị trục xuất đến Nga – ông ta có nhiều mối quan hệ ở KGB – nhưng ý nghix này sớm tiêu tan. Liên Xô phủi sạch mọi thứ liên quan đến DDR, mong muốn cắt đứt mọi ràng buộc của những người làm trong chính phủ DDR với thế giới CNXH- hoặc bất cứ định chế nào mà Người Nga đang ủng hộ, Keitel không biết rõ đó là những ai- tách đất nước Đức mới cách rất ra bất kỳ định chế nào mà họ đứng sau. Keitel ngồi xuống chiếc ghế cạnh Bock tại một góc nhỏ nhà nghỉ Gasthaus yên tĩnh ở nơi từng là Đông Berlin
“Bạn của tôi, chỗ này giờ nguy hiểm lắm”
“Erwin, tôi biết rõ điều đó” Bock vẫy tay gọi 2 cốc bia tướng ứng 2 lít. Đồ uống ở đây phục vụ nhanh hơn so với cách đây vài năm, nhưng cả hai người đều không quan tâm đến chuyện đó
“Tôi không thể diễn tả cảm giác của mình về những điều họ đã làm với Petra” Keitel nói, sau khi cô phục vụ rời đi
“Anh có biết chính xác chuyện xảy ra thế nào không?” Bock hỏi, giọng không tỏ rõ cảm xúc gì
“Tên thám tử phụ trách vụ đó thăm cô ấy ở trong tù- hắn làm thế khá thường xuyên – không phải để thẩm vấn. Bọn họ cố gắng đẩy cô ấy đến bờ vực suy sụp tinh thần. Cậu phải hiểu, Günther, lòng dũng cảm của đàn ông hay phụ nữ đều có giới hạn. Đây không chỉ là điểm yếu của riêng cô ấy. Ai cũng có thể gục ngã, đơn giản chỉ là vấn đề thời gian. Bọn họ quan sát cô ấy chết” viên đại tá về hưu trả lời
“Ồ?” khuôn mặt Buck không hề thay đổi nhưng các ngón tay cầm cốc bia siết chặt
“Có một máy quay TV được dấu trong tường phòng giam. Bọn họ có băng ghi lại toàn bộ quá trình tự tử của cô ấy. Bọn họ quan sát cô ấy làm việc đó và không làm gì để ngăn cản cả”
Bock trầm mặc, ánh sáng trong căn phòng mờ ảo nên người ta không thể nhìn ra khuôn mặt hắn đang tái nhợt. Hắn cảm thấy như có một ngọn lửa đang quét qua cơ thể mình, rồi tiếp theo sau là cái lạnh như bắc cực tràn vào. Hắn nhắm đôi mắt lại trong vài gây để ổn định cảm xúc, chắc chắn Petra không muốn hắn bị cảm xúc chi phối trong khoảnh khắc thế này. Hắn mở mắt ra và nhìn người bạn của mình
“Chuyện đó có thật không?”
“Tôi biết tên tay thám đử đó. Tôi cũng biết địa chỉ của hắn nữa. Tôi vẫn còn có bạn trong lực lượng” Keitel bảo đảm với Bock
“Đúng vậy, Erwin. Tôi tin anh. Tôi cần anh giúp vài chuyện”
“Bất kể chuyện gì”
“Tất nhiên anh hẳn là biết rõ vì sao chúng ta phải đến mức này”
“Điều đó phụ thuộc vào ý nghĩa anh định đề cập đến” Keitel nói “Tôi thất vọng khi thấy mọi người rơi vào cạm bẫy kẻ thù quá nhanh, nhưng người thường luôn thiếu hiểu biết về những gì tốt cho mình mà. Nguyên nhân thực sự cho bất hạnh của đất nước chúng ta…”
“Chính xác – cả nước Mỹ và nước Nga”
“Günther thân mến, ngay cả một nước Đức thống nhất cũng không thể…”
“Có thể. Nếu chúng ta có thể theo đổi thế giới theo ý định của mình, Erwin, cả hai đất nước bạo chúa đó đều phải bị tiêu diệt”
“Nhưng bằng cách nào?”
“Có một cách nếu anh có thể tin tưởng tôi, được chứ?”
Keitel uống ly bia và ngả người sau ghế. Ông ta từng hỗ trợ đào tạo Bock. Giờ ở tuổi 56, đã quá muộn để ông the thay đổi suy nghĩ của mình về thế giới, nhưng ông ta vẫn có thể suy đoán chính xác tính cách con người. Bock chính là bản sao của ông ta. Günther là người thận trọng, tàn nhẫn nhưng rất hiệu quả
“Cậu định làm gì với tay thám tử bạn chúng ta?”
Bock lắc đầu “Với sự hài lòng mà vụ sắp tới sắp mang lại, tôi hiện không định làm gì hắn cả. Đây không phải lúc để trả mối thù cá nhân. Chúng ta đang có vụ lớn phải làm và một đất nước cần bảo vệ” Thực tế là có hơn 1 quốc gia cần cứu, Bock nghĩ, nhưng giờ không phải là lúc nói ra điều đó. Kế hoạch đang định hình trong đầu hắn ra quả là một kế hoạch thiên tài,kế hoạch lần này có thể định hình thế giới theo cách nhẹ nhàng hơn rất nhiều -hắn thậm chí phải tự công nhận với bản thân là mình quá lý trí. Ai có thể nói chính xác chuyện gì sẽ xảy ra sau khi chuyện đó xảy ra chứ? Nếu hắn và bạn bè mình không đi những bước đầu tiên thì có ích gì khi nói về tương lai?
“Chúng ta đã quen biết được bao lâu rồi nhỉ – 15 năm, hay 20 năm?” Keitel mỉm cười “Nhưng tất nhiên, tôi tin cậu”
“Chúng ta có bao nhiêu người có thể tin?”
“Cần bao nhiêu người?”
“Không quá 10 người,thêm anh và tôi thì tổng có thể đến 10”
Khuôn mật của Keitel nhợt nhạt. 8 người có thể hoàn toàn tin tưởng…?
“Quá nhiều người để có thể giữ bí mật an toàn, Günther. Cần người loại nào?”
Bock nói ra suy nghĩ của mình
“Tôi biết tìm ở đâu. Đại khái là…nhưng người trạc tuổi tôi…vài người trẻ hơn, trạc tuổi cậu. Các kỹ năng thể chất cậu yêu cầu không khó, nhưng cậu phải nhớ có nhiều yếu tố vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta”
“Giống như câu nói của vài bạn bè tôi, hành sự tại thiên” Günther tự mãn mỉm cười
“Mấy kẻ man rợ thiếu văn minh đó” Keitel khịt mũi “Tôi chưa bao giờ ưa bọn họ”
“Phải, đúng thế, bọn họ thậm chí còn không cho đàn ông uống bia” Bock mỉm cười “nhưng bọn họ mạnh mẽ, Erwin, quả quyết và trung thành với lý tưởng”
“Lý tưởng của ai?”
“Lý tưởng mà hiện tại cả hai chúng ta đang cùng chia sẻ. Ông cần bao nhiêu thời gian?”
“2 tuần, Tôi có thể liên lạc với cậu…”
“Không” Bock lắc đầu “Quá rủi ro. Ông có thể du lịch không, có đang bị giám sát không?”
“Giám sát tôi á? Tất cả cấp dưới của tôi đang chuyển sang làm việc cho chính phủ mới và BND biết rõ KGB chẳng có gì cần đến tôi cả. Bọn họ sẽ không tốn thời gian cử nhân viên đến giám sát tôi làm gì. Cậu thấy đấy, tôi chỉ là con ngựa gày yếu thôi, phải không?”
“Erwin, có chút gày yếu thật” Bock đưa qua số tiền mặt “Chúng ta sẽ gặp nhau ở Cyprus trong 2 tuần tới. Bảo đảm là không có cái đuôi nào bám theo ông nhé”
“Tôi sẽ…tôi bảo đảm. Tôi vẫn chưa quên cách nào cắt được đuôi đâu, anh bạn”
* * *
Fromm thức dậy ngay lúc bình minh. Hắn cố gắng mặc quần áo thật yên lặng để không đánh thức Traudl. Trong 12 giờ qua cô ta quả thực đã đóng tròn vai người vợ tốt, nhiều hơn cả số hành động đã làm trong suốt 12 tháng qua và lương tâm hắn mách bảo cuộc hôn nhân vô vọng này không hẳn hoàn toàn là do lỗi của vợ. Hắn ngạc nhiên khi thấy bữa sáng đã sẵn sàng trên bàn ăn
“Khi nào anh lại về nhà?”
“Anh không chắc. Có lẽ phải mất vài tháng”
“Lâu đến thế sao?”
“Em yêu, lý do anh ở đó là họ cần những kiến thức của anh và anh được trả lương cao” hắn thầm ghi nhớ chuyện phải yêu cầu Qati trả thêm tiền. Miễn là tiền được gửi về đều đặn, cô ta sẽ không thắc mắc
“Liệu em có thể đến đó cùng anh không?” Traudl hỏi, tỏ rõ nỗi nhớ chồng
“Nơi đó không hợp với phụ nữ đâu” đó là sự thật đủ trung thực khiến lương tâm hắn nhẹ nhõm hơn chút. Hắn uống hết cốc cà phê