Chương 38 LIÊN HỆ ĐẦU TIÊN
Các nhà khai thác vệ tinh truyền thông là những công ty độc lập và thường là những đối thủ cạnh tranh tàn nhẫn, nhưng không phải là kẻ thù. Có một số quy tắc đã được thống nhất giữa họ, được gọi là thỏa thuận của các quý ông. Luôn có khả năng một vệ tinh có thể bị hỏng, do hư hỏng bên trong hoặc do các mảnh vụn không gian đang ngày càng trở thành mối lo ngại. Vì vậy, có một thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau tương ứng, trong đó quy định rằng một khi “con chim” của một nhà điều hành nào đó bị hỏng, các đồng nghiệp trong ngành có trách nhiệm điều chỉnh hoạt động của mình để cứu vãn tình hình, giống như các tờ báo cùng thành phố thường gặp hỏa hoạn hoặc các thảm họa thiên nhiên. Để hỗ trợ cho thoả thuận thì có đường dây điện thoại mở giữa trụ sở các hãng khai thác vệ tinh. Intel-sat là ngừoi đầu tiên gọi tới Telstar
“Bert, chúng ta vừa mất 2 con chiim” viên kỹ sư phụ trách ca trực của Intelsat báo cáo với giọng hơi run “Chuyện gì xảy ra đấy?”
“Cứt thật, chúng tôi vừa mất 3 vệ tinh, cả Westar 4 và Teleglober cũng sập rồi. Chỗ này toàn hệ thống đang tê liệt. Giờ đang chạy kiểm tra- chỗ các anh thì sao?”
“cũng thế, Bert. Có biết lý do không?”
“Không. Chúng tôi đang có đến 9 vệ tinh bị hỏng. Khủng khiếp. Mẹ kiếp” người đó dừng lại “có ý tưởng gì không? Đợi một chút, có gì đó…được rồi, là phần mềm. Chúng tôi đang kiểm tra 301.. họ bắt được tín hiệu gì đó…Chúa ơi! 301 bị trúng xung với tần số hàng trăm! Ai đó đang cố gắng giết chúng ta”
“Bên này cũng thế đấy Nhưng ai?”
“Chắc cmn không phải hacker…phải cần đến rất nhiều megawatt mới làm được điều đó trong riêng 1 kênh”
“Bert, đó chính xác là những gì tôi đang có ở chỗ này. Tất cả bị tấn công cùng lúc, kể cả đường dây điện thoại. Anh có định khởi động lại hệ thống không?”
“Đùa đấy ạ? Phần cứng này trị giá cả tỷ usd. Trừ khi tôi biết chuyện quái gì đang diễn ra, nếu không thì cứ để thế đã. Phó chủ tịch (VP) đang trên đường tới đây. Chủ tịch thì vẫn đang ở Denver” Bert nói thêm
“Bên tôi cũng thế, nhưng kỹ sư trưởng đang bị tắc đường do tuyết. Mẹ kiếp, tôi không tự giải quyết được việc này. Bert, chúng ta phải hợp tác”
“Không vấn đề gì, Stace. Tôi sẽ gọi Fred Kent ở Hughes để xem anh ta nghĩ thế nào. Chúng ta sẽ phải dành chút thời gian để kiểm tra hệ thống và mọi thứ thật kỹ lưỡng. Tôi sẽ để thế này cho đến khi biết – ý tôi là biét rõ – chuyện gì đang xảy ra. Chúng ta phải bảo vệ cả một ngành công nghiệp đấy, người anh em”
“Đồng ý. Tôi sẽ không khởi động lại mà không báo cho bên anh”
“Hãy cập nhật cho tôi nếu anh có tin gì mới nhé”
“Đồng ý, Bert. Tôi sẽ gọi lại cho anh trong 1 giờ nữa, hoặc anh gọi lại”
* * * * * *
Liên Xô là một quốc gia rộng lớn, đứng đầu thế giới cả về diện tích và chiều dài biên giới. Vốn luôn cho rằng cả lãnh thổ hiện tại và lãnh thổ lịch sử đều hứng chịu nhiều cuộc xâm lược từ nước ngoài nên biên giới được giám sát rất chặt. Hệ thống phòng thủ biên giới bao gồm cơ sở hữu hình – doanh trại quân đội, sân bay, trạm radar- và vô hình như ăng ten radio, trong đó ăng ten radio dùng để nghe tín hiệu vô tuyến và các tín hiệu điện tử khác. Thông tin tình báo nhận được sẽ được truyền về trung tâm ở Moscow, trụ sở của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia – KGB ở Số 2 Quảng Trường Dzerzhinskiy, thông qua đường dây liên lạc mặt đất và đường dây liên lạc vi sóng. Phòng 8 của KGB sẽ phụ trách việc thu thật thông tin tình báo liên lạc và bảo đảm an ninh thông tin. Nó có một lịch sử lâu dài và độc đáo, nhờ vào một đặc điểm truyền thống khác của Nga, đó là nỗi ám ảnh về toán lý thuyết. Những người giỏi toán học bẩm sinh là những người thích hợp với việc giải quyết mật mã, và ở đây, họ giống như cá gặp nước. Mối quan hệ giữa mật mã và toán học là một mối quan hệ logic, và biểu hiện gần đây nhất của mối quan hệ này là công trình của một người đàn ông nhỏ bé ở độ tuổi ba mươi, râu ria xồm xàm, say mê với công trình của Benoit Mandelbrot tại Đại Học Harvard, người đã phát minh ra hình học fractal. Sau khi kết hợp kết quả nghiên cứu của Mandelbrot với lý thuyết hỗn loạn (Chaos Theory) của Đại học Cambridge của Anh, thiên tài trẻ người Nga này đã đưa ra một mô hình lý thuyết mới nhằm xem xét các công thức toán học. Chỉ có một số ít người có thể hiểu được lý thuyết này nhưng họ đều đồng ý rằng anh ta xứng dáng được trao giải Planck. Bởi một sự trùng hợp lịch sử, cha anh ta tình cờ lại là một vị tướng trong Cục Biên phòng KGB nên KGB ngay lập tức chú ý đến nghiên cứu này. Nhà toán học giờ đây đã có tất cả mọi thứ mà Đất Mẹ hào phóng cung cấp, và một ngày nào đó anh có thể thực sự giành được Giải thưởng Planck.
Mất thêm 2 năm nữa để áp dụng lý thuyết vào thực tế, nhưng 15 tháng trước anh ta đã bắt đầu thử “khôi phục” mật mã bí mật nhất của Bộ Ngoại Giao Mỹ gọi là STRIPE. 6 tháng sau anh ta đã chứng minh một cách thuyết phục rằng cấu trúc của nó cũng tương tự như mật mã bên quân đội Hoa Kỳ sử dụng. Kiểm tra chéo với các đội phân tích mật mã khác đã từng xâm nhập vào vòng tròn gián điệp Walker, và thậm chí dùng đến thông tin tình báo nghiêm trọng hơn do Pelton tiết lộ, cho thấy mới chỉ 6 tháng trước, người Nga đã bắt đầu xâm nhập có hệ thống vào hệ thống mã hoá Hoa Kỳ. Nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn thành công. Thói quen gõ phím hàng ngày thỉnh thoảng chứng minh rằng không thể bị phá khoá. Đôi khi họ không thể giải mã được một tin nhắn nào trong cả tuần, nhưng đôi họ có thể giải mã hơn một nửa số tin nhắn bị chặn trong ba ngày liên tiếp và hiệu suất tiếp tục được cải thiện qua từng tháng. Trên thực tế, vấn đề chính là họ không có phần cứng máy tính thực hiện các công việc phải làm, và Phòng Số 8 vẫn đang tăng cường đào tạo các chuyên gia ngôn ngữ để xử lý các tin nhắn chặn được
Sergey Nikolayevich Golovko bị đánh thức khi đang ngủ say và được đưa tới văn phòng bằng ô tô, ngay lập tức trở thành một trong số ít người vẫn còn giữ được đầu óc minh mẫn sau cú sốc. Cả cuộc đời sự nghiệp của ông luôn gắn với Phòng 1, công việc của ông là nghiên cứu suy nghĩ của các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ và tư vấn cho tổng thống về chuyện gì đang diễn ra. Những tin nhắn được giải mã bay trên bàn như những bông tuyết là công cụ quý giá nhất lúc này
Hiện trong tay ông có không dưới 30 bức điện truyền đạt nội dung chính. Tát cả các lực lượng chiến lược Hoa Kỳ đang được lệnh Phòng Thủ Cấp Độ 2, và tất cả các lực lượng thường xuyên sẽ được lệnh nang lên Phòng Thủ Cấp Độ 3. Tổng thống Hoa Kỳ đang hoảng loạn, Phó chủ tịch thứ nhất KGB nghĩ. Không còn lời giải thích nào khác. Liệu có thể ông ta đang nghĩ Liên Xô gây ra thảm kịch này không? Đó đúng là suy nghĩ đáng sợ nhất trong cuộc đời
“Có một bức điện khác, từ bên hải quân” người phụ trách đặt nó xuống bàn ông
Golovko chỉ liếc nhìn nó và hét lên “Chuyển ngay bức điện này cho bên hải quân” ông phải gọi cho Tổng thống để báo cáo. Golovko nhấc điện thoại
* * * * * *
Bộ máy quan liêu của Liên Xô một lần nữa lại hành động nhanh chóng. Vài phút sau, một tín hiệu tần số cực thấp được gửi đi, tàu ngầm Admiral Lunin nổi lên để nhận được toàn bộ tin nhắn. Ngay khi máy in vừa ra thì thuyền trưởng Dubinin đọc ngay
BÁO CÁO TỪ TÀU NGẦM MỸ 1 USS MAINE CÓ TOẠ ĐỘ 50°55’09” VĨ ĐỘ BẮC 153°01′23″ KINH ĐỘ TÂY. CÁNH QUẠT BỊ VÔ HIỆU HOÁ DO 1 VẬT THỂ LẠ TÁC ĐỘNG
Dubinin rời phòng liên lạc và đi đến bàn hải đồ
“Chúng ta đang ở đâu khi chặn được bức điện này?”
“Ở đây, thưa thuyền trưởng và đang hướng tới đây” sỹ quan phụ trách dẫn đường vẽ đường kẻ bằng bút chì
Dubinin chỉ lắc đầu. Ông đưa bức điện qua “Nhìn này”
“Ngài nghĩ giờ nó đang làm gì?”
“Nó sẽ phải ở gần mặt nước. Vậy…chúng ta sẽ nổi lên, chỉ gần dưới layer và chúng ta sẽ di chuyển nhanh. Tiếng ồn mặt biển sẽ khiến sonar của nó bị nhiễu. Chúng ta sẽ đi với vận tốc 15 hải lý”
“Ngài có nghĩ là nó đang theo dõi chúng ta không?”
“Phải mất nhiều thời gian thế cậu mới nhận ra à?” Dubinin đo khoảng cách đến mục tiêu “Tay này rất kiêu hãnh đấy. Chúng ta sẽ xem. Cậu biết chuyện mấy tay người Mỹ thường khoe ảnh chụp tàu của chúng ta phải không? Giờ thì, trung uý trẻ, đến lượt chúng ta rồi!”
* * * * * *
“Ý anh là sao?” Narmonov hỏi Phó Chủ Tịch Thứ Nhất của KGB
“Ngừoi Mỹ vừa bị tấn công bởi một lực lượng không xác định và cuộc tấn công này rất nghiêm trọng, gây thương vong rất lớn. Có thể dự đoán họ sẽ nâng cao mức độ cảnh báo chiến đấu. Một trong những mối quan tâm chính của họ bây giờ là duy trì trật tự công cộng” Golovko trả lời qua đường dây an ninh
“Và?”
“Và, thật không may, tất cả các vũ khí chiến lược của họ giờ đang nhằm vào Đất Mẹ (Rodina)chúng ta”
“Nhưng chúng ta có làm gì đâu!” Tổng thống Liên Xô phản đối
“Chính xác, ngài xem, phản ứng như vậy rất thường khi. Họ đã được lên kế hoạch từ trước và trở thành phản xạ có điều kiện. Một khi bị tấn công, ngài sẽ trở nên cảnh giác cao độ. Các hành động phản ứng đều được lên kế hoạch trước, vì vậy ngài mới có thể phản ứng nhanh chóng và tập trung vào phân tích vấn đề, tránh bị phân tâm bởi những chi tiết vụn vặt và không cần thiết”
Tổng Thống Liên xô quay sang Bộ Trưởng Quốc Phòng “Vậy, chúng ta nên làm gì?”
“Tôi đề nghị tăng mức độ cảnh báo của chúng ta. Tất nhiên chỉ mang tính phòng thủ. Suy cho cùng, kẻ nào phát động cuộc tấn công này cũng có thể tấn công chúng ta”
“Đồng ý” Narmonov cứng nhắn “Nâng mức độ cảnh báo phòng thủ lên mức cao nhất đi”
Golovlo nhíu mày nhìn ống nghe. Sự lựa chọn từ ngữ của ông trong trường hợp này rất chính xác: hành động theo phản xạ “Liệu tôi có thể đưa ra đề nghị không?”
“Được” Bộ trưởng quốc phòng nói
“Nếu có thể, có lẽ tốt hơn hết là nên cho quân đội của chúng ta biết lý do đưa ra cảnh báo. Sẽ khiến họ bớt sốc hơn khi nhận lệnh”
“Sẽ gây ra hỗn loạn không cần thiết” Bộ trưởng quốc phòng cho ý kiến
“Người Mỹ sẽ không tấn công chúng ta” Golovko gấp gáp “và đó chắc chắn là một sai lầm. Hãy xem xét tâm lý của những người đột ngột chuyển từ thói quen thời bình sang cảnh giác cao độ. Chỉ thêm vài từ thôi, nhưng những từ này có thể sẽ rất quan trọng”
“Ý kiến hay” Narmonov nghĩ “Hãy làm thế đi” ông ra lệnh cho Bộ Quốc Phòng
“Chúng ta sẽ sớm nhận được tin của người Mỹ qua Đường Dây Nóng” Narmonov nói “Họ sẽ nói gì?”
“Khó mà đoán định, nhưng bất kể thế nào thì chúng ta cần sẵn sàng trả lời, chỉ để ổn định tình hình, bảo đảm họ biết rõ rằng chúng ta không liên quan gì đến việc lần này”
Narmonov gật đầu. Hoàn toàn có lý “Hãy bắt đầu làm việc theo hướng đó đi”
Các sỹ quan phụ trách của Cơ quan Thông tin Quốc phòng Liên Xô phàn nàn về những tin nhắn mà họ được lệnh gửi đi. Ban đầu, để thuận tiện cho việc truyền tải, các thông báo lệnh nâng cao trạng thái cảnh báo đã được nén trong một nhóm mã gồm năm chữ cái, để lệnh có thể được gửi và giải mã nhanh chóng, và người nhận lệnh có thể hiểu ngay ý nghĩa của nó, nhưng bây giờ điều đó là không thể. Những câu bổ sung phải được chỉnh sửa để tin nhắn không quá dài. Một thiếu tá nhận được lệnh, từ cấp trên là một thiếu tướng, làm việc này và gửi thông tin qua không dưới 30 kênh liên lạc. Bức điện này được thay đổi thêm để áp dụng cho từng đơn vị quân đội cụ thể
Tàu Admiral Lunin vừa mới khởi hành theo lộ trình mới được 5 phút thì tín hiệu ELF thứ 2 đến. Viên sỹ quan liên lạc cầm tờ tin nhắn lao vào phòng điều khiển
CẢNH BÁO PHÒNG THỦ CẤP 2. MỘT VỤ NỔ HẠT NHÂN CHƯA RÕ NGUYÊN NHÂN ĐÃ XẢY RA Ở HOA KỲ. CÁC LỰC LƯỢNG CHIẾN LƯỢC VÀ THÔNG THƯỜNG CỦA HOA KỲ ĐÃ BƯỚC VÀO TRẠNG THÁI SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU. TẤT CẢ CÁC LỰC LƯỢNG HẢI QUÂN ĐỀU RỜI CẢNG NGAY LẬP TỨC THỰC HIỆN MỌI BIỆN PHÁP PHÒNG THỦ CẦN THIẾT
“Thế giới này phát điên rồi chắc?” thuyền trưởng đọc thông điệp rồi hỏi lại. Không có ai trả lời “Chỉ có tin này thôi hả?”
“Chỉ có thế, không cần phải dựng ăng ten lên”
“Đây hoàn toàn không phải là lệnh” Dubinin phản đối “Mọi biện pháp phòng thủ cần thiết? Ý họ là gì? Bảo vệ chính bản thân mình, bảo vệ Đất Mẹ – Ý họ là cmn nó gì thế?”
“Thuyền trưởng” viên thuyền phó nói “Trạng thái phòng thủ cấp 2 có nói rõ quy tắc hành động rồi”
“tôi biết” Dubinin nói “nhưng chúng có được áp dụng trong trường hợp này không?”
“Tại sao họ lại gửi tín hiệu này nhỉ?”
Tiến vào trạng thái phòng thủ cấp 2 chưa bao giờ xảy ra với quân đội Liên Xô. Nó có nghĩa là quy tắc hành động ở đây không hẳn áp dụng giống thời chiến nhưng cũng không giống thời bình. Dù Dubinin, giống như tất cả các thuyền trưởng tàu Liên xô khác, hoàn toàn hiểu rõ trách nhiệm của mình nhưng ẩn ý của mệnh lệnh này có vẻ quá đáng sợ….tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ thoáng qua. Ông là một sỹ quan hải quân. Ông đã nhận được lệnh. Bất kể ai là người đã ra lệnh này hẳn hiểu tình huống đang xảy ra rõ hơn ông. Viên sỹ quan chỉ huy tàu Admiral Lunin đứng thẳng lên, quay lại và ra lệnh cho cấp phó
“Tăng tốc lên 25 hải lý. Vào vị trí sẵn sàng chiến đấu”
* * * * * *
Mọi thứ diễn ra rất nhanh. Chi nhánh FBI tại New York nằm trong Toà nhà Liên Bang Jacob javits ở cuối phía nam Manhattan, ngay lập tức cử người đi về phía Bắc nơi giao thông thưa thớt vào chủ nhật giúp các hoạt động dễ dàng hơn. Những chiếc xe không nhãn hiệu nhưng mạnh mẽ gầm rú suốt chặng đường tiến tới toà nhà trụ sở thuộc các công ty khai thác truyền thông. Chuyên tương tự cũng xảy ra ở Atlanta, nơi các đặc vụ rời toà nhà Martin Luther King tiến tới trụ sở CNN. Tại mỗi đài truyền hình, không dưới ba đặc vụ bước vào phòng điều khiển trung tâm và ra lệnh: Không được phát tin tức nào về Denver. Không ai trong số các nhân viên ở đó hiểu lý do vì sao, họ còn đang cố bận rộn để khôi phục liên lạc. Điều tương tự cũng xảy ra tại Colorado, nơi, dưới sự dẫn dắt của Phó Giám Đốc phụ trách các Chiến dịch đặc biệt Walter Hoskins, các đặc vụ thuộc văn phòng FBI địa phương tràn vào các đài truyền hình trực thuộc của nhiều mạng truyền hình khác nhau, cũng như công ty điện thoại địa phương, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của các nhân viên thuộc Bell, họ cắt toàn bộ điện thoại đường dài. Nhưng Hoskins phạm 1 sai lầm. Lý do là ông ta không dành nhiều thời gian xem TV
KOLD là một đài truyền hình độc lập vốn đang có tham vọng trở thành đài lớn. Giống TBS, WOR và 1 số đài khác, nó có hệ thống vệ tinh riêng bao phủ vùng phát sóng rộng lớn. Đây là canh bạc tài chính đầy rủi ro đối với những nhà đầu tư đài truyền hình đang hoạt động với đòn bẩy tài trong một tòa nhà cũ gần như không có cửa sổ ở phía Tây Bắc thành phố, thậm chí còn chưa có tiền trả tiền thuê vệ tinh. Đài truyền hình này đang sử dụng 1 trong những vệ tinh Anik của Canada vốn bao phủ đến Alaska, Canada và vùng trung bắc nước Mỹ, chương trình của nó khá tốt, chú yếu trình chiếu các chương trình cũ
Toà nhà KOLD vốn từng là đài truyền hình mạng đầu tiên của Denver, được xây dựng theo mô hình mà Ủy ban Truyền thông Liên bang (Federal Communications Commission) yêu cầu vào những năm 1930: vật liệu xây dựng là một khối bê tông cốt thép duy nhất có thể chịu được các cuộc tấn công bằng pháo binh của kẻ thù – đây là điều bình thường trước khi bom nguyên tử ra đời. Mấy cửa sổ duy nhất nằm trong văn phòng quản lý ở phía nam của tòa nhà. Mười phút sau khi sự việc xảy ra, có người vội vã đi ngang qua cánh cửa văn phòng giám đốc chương trình đang mở. Anh đột nhiên dừng lại, quay người chạy về phía phòng tin tức. Một phút sau, một phóng viên quay phim chạy vào thang máy chở hàng và đi thẳng lên đỉnh tòa nhà. Đoạn phim anh ghi lại được gửi đến phòng điều khiển qua cáp, sau đó gửi đến vệ tinh Anik vốn không bị ảnh hưởng bởi vụ nổ thông qua máy phát Ku-Band, gián đoạn bộ phim The Adventures of Dobie Gillis đang phát lại tại Alaska, Montana, North Dakota, Idaho và 3 tỉnh Canada khác. Tại Calgary, Alberta, một phóng viên thuộc 1 tờ báo điạ phương vốn là fan cuồng của Dwayne Hickman chóng váng khi nhìn thấy những hình ảnh này và gọi ngay cho tờ báo đang làm. Ngay sau đó, hình ảnh đã được CBC gửi tới Châu Âu htoong qua một trong những vệ tinh Anik không bị ảnh hưởng bởi vụ nổ
Trong lúc đó, FBI Denver cử 2 đặc vụ tiến vào toà nhà KOLD. Họ công bố mệnh lệnh và các phóng viên từ bộ phận tin tức của đài phản đối theo Tu Chính Án Thứ Nhất của Hiến Pháp Hoa Kỳ, nhưng lập luận này ít sức nặng hơn mấy người cầm súng đã thẳng tay tắt nguồn phát. Các đặc vụ FBI ít nhất cũng đã xin lỗi khi phải làm việc này. Nhưng họ cũng không bận tâm. Những gì 1 tên ngốc vừa làm cũng đã khiến công sức của bọn họ đổ sông đổ biển cả
* * * * * *
“Vậy, chuyện quái gì đang diễn ra đấy?” Richards hỏi nhân viên
“Chúng tôi không rõ, sir. Không hề có lý do gì để đưa ra mức cảnh báo này” viên sỹ quan liên lạc lắp bắp
“Chà, đúng là khiến chúng ta lưỡng lự nhỉ?” Đây hoàn toàn là câu hỏi tu từ. Nhóm tàu chiến TR vừa đi qua quần đảo Malta và giờ đang trong tầm ngắm của Liên Xô. Theo lệnh, các máy bay ném bom A-6E của ‘The Stick’ phải cất cánh ngay, nhanh chóng đạt đến độ cao hành trình và tại đó sẽ nạp đầy nhiên liệu trên không, nhưng đến lúc đó họ sẽ có đủ gas để bay đến các mục tiêu quanh bán đảo Kerch Peninsula. Chỉ 1 năm trước, các tàu sân bay của Hải Quân Hoa Kỳ, mặc dù mang theo số lượng đáng kể vũ khí nhiệt hạch, nhưng lại không nằm trong một kế hoạch tác chiến tổng hợp duy nhất (Single Integrated Operations Plan – SIOP) thường được gọi là Sy-Op, vốn là kế hoạch hành động chính của Hoa Kỳ nhằm tiêu diệt Liên Xô. Việc cắt giảm tên lửa chiến lược—đối với Hoa Kỳ, chủ yếu là tên lửa phóng từ mặt đất—đã dẫn đến sự sụt giảm đáng kể về số lượng đầu đạn hiện có, và, giống như mọi nhà hoạch định kế hoạch trên thế giới, Cơ Quan Mục Tiêu Chiến Lược Chung (Joint Strategic Targeting Staff), có chung trụ sở với SAC (Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược), đã tìm mọi cách để bổ xung sự thiếu hụt này Kết quả, bất kỳ khi nào một tàu sân bay nằm trong tầm ngắm của Liên Xô thì SIOP được kích hoạt. Trong trường hợp hiện tại của USS Theodore Roosevelt, điều đó có nghĩa là trong suốt quá trình tàu đi qua phía đông Malta, nó không còn là lực lược chiến thuật thông thường mà sẽ trở thành lực lượng chiết thuật hạt nhân. Để thực hiện nhiệm vụ này, kho vũ khí của TR hiện đang có 50 quả bom từ trường hạt B-61-Mod-8 được canh gác nghiêm ngặt. Những quả bom B-61 – có “lựa chọn nổ hoàn toàn” thường được gọi là “quay số năng suất” – có thể chọn mức công phá từ 10 đến 500 kilo tấn, dài 12 feet, đường kính chưa tới 1 feet, nặng khoảng 700 pound và được thiết kế hợp lý để giảm sức cản của không khí. Mỗi máy bay A-6E mang theo 2 quả bom này, còn lại để các thùng nhiên liệu cho phép bán kính bay chiến đấu của nó lên đến hơn ngàn dặm. 10 máy bay chiến đấu như vậy sẽ mang theo sức nổ tương đương các tên lửa Minuteman. Các mục tiêu được ngắm đến là hải quân kẻ thù, theo quy tắc thà giết lầm còn hơn bỏ sót. Ví dụ, một trong những nhiệm vụ SIOP được chỉ định là phá huỷ nhà máy đóng tàu Nakokayev tại Sông Sniepr và biển nó thành một bãi phóng xạ. Nhân tiện, đó chính là nơi tàu sân bay Kuznetzov của Liên Xô đã được chế tạo ở đó
Vấn đề của thuyền trưởng lúc này là vị chỉ huy nhóm tàu tác chiến, một vị tướng, đã tận dụng cơ hội này để bay tới Naples nhằm hôị họp với chỉ huy của Hạm Đội 6 Hoa Kỳ. Richards phải tự mình đưa ra quyết định
“Bạn của chúng ta ở đâu?” CO tàu Roosevelt hỏi
“Phía sau khoảng 250 dặm” sỹ quan tác chiến nói “Gần”
“Vậy tăng tốc độ thêm 5 hải lý nữa đi, thuyền trưởng ” Jackson nói “tôi sẽ cử 2 máy bay lên ở đây để trông coi cửa hậu” anh chỉ vào hải đồ
“Cẩn thận đấy, Rob”
“Không vấn đề gì, Ernie” Jackson bước tới điện thoại “Ai đang trực đấy” anh gọi đến phòng sẵn sàng chiến đấu VF-1 “Tốt” Jackson bước ra khỏi phòng, đi mặc đồ bay và đội mũ bảo hiểm
“Mọi người” khi Jackson rời đi, Richards nói “hiện giờ chúng ta đang ở phía đông Malta, vì chúng ta là một phần của SIOP nên chúng ta sẽ là lực lượng chiến lược chứ không còn thông thường nữa, sẽ áp dụng CẢNH BÁO PHÒNG THỦ DEFCON-2. Nếu ai đó cần xem lại Quy tắc hành động của DEFCON-2 thì tốt hơn nên làm điều đó nhanh đi. Bất kỳ thứ gì bị coi là đe doạ sẽ bị tấn công và phá huỷ theo đúng trách nhiệm của tôi, chỉ huy nhóm tàu chiến đấu này. Còn câu hỏi gì không?”
“Sir, chúng tôi đang không biết chuyện gì xảy ra” viên sỹ quan chiến thuật chỉ
“Phải. Chúng ta sẽ cố gắng lên kế hoạch trước khi biết mọi chuyện, nhưng mọi người, hãy cùng nhau vào cuộc thôi. Có gì đó rất tệ đang xảy ra và chúng ta đang trong trạng thái DEFCON-2”
Nhìn từ sàn đáp, bầu trời đêm trong xanh. Jackson ra lệnh ngắn gọn cho Trung tá Sanchez và RIO (các sỹ quan đánh chặn radar), rồi tổ trưởng đội bay dẫn 2 con Tomcat đậu trên máy phóng ở giữa boong. Jackson và Walters cùng lên máy bay. Tổ trưởng đội bay giúp họ thắt dây an toàn, sau đó biến mất ở gầm máy bay và bỏ thang ra. Đại tá Jackson nhanh chóng bắt đầu quy trình khởi động, kiểm tra các thiết bị động cơ chạy trong trạng thái không tải. Chiếc F-14D hiện mang theo 4 tên lửa Phoenix có radar dẫn đường và 4 tên lửa Sidewinder dẫn đường bằng hồng ngoại
“Sẵn sàng quay trở lại ngoài kia chưa?” Jackson hỏi
“Làm thôi, Spade” Walter trả lời
Robby đẩy cần ga hết cỡ, rồi khởi động lại bộ đốt sau, đồng thời ra tín hiệu cho sỹ quan phóng dây đang nhìn sàn nhằm đảm bảo đường bay thông thoáng. Viên sỹ quan phóng chào chiếc máy bay theo tư thế chào quân sự
Jackson nháy đèn bay đáp lại, rồi đặt tay lên cột điều khiển và tựa đầu vào lưng ghế. Một giây sau, chiếc đèn flash trong tay nhân viên phóng hạ xuống sàn boong. Một sỹ quan cấp thấp nhấn vào nút phóng hơi nước phun vào máy phóng.
Trong suốt quá sự nghiệp của mình, dường như chưa bao giờ phản ứng của anh nhanh đến thế. Gia tốc của máy phóng gần như khiến nhãn cầu của anh quay tròn trong hốc. Ánh sáng mờ ảo trên boong tàu biến mất sau lưng. Đuôi máy bay thấp xuống và máy bay trèo lên.Sau khi xác nhận máy bay đang bay, Jackson tắt bộ phận đốt sau, thu bộ phận hạ cánh và cánh tà rồi bắt đầu từ từ leo lên trung. Bay được hơn 1000 feet thì “Bud” Sanchez và “Lobo” Alexander tiến đến gần
“Tắt radar” Shredder nói, nhìn vào các thiết bị. Toàn bộ nhóm tàu chiến đấu TR tắt tất cả bức xạ điện tử trong vài giây. Giờ, không ai có thể lần ra họ nếu chỉ dựa vào âm thanh điện tử
Jackson bình tĩnh lại. Anh tự nhủ, bất kể chuyện gì xảy ra thì cũng không thể tệ quá, phải không? Đêm nay thật trong xanh và đẹp đẽ và anh đang bay.Do tầm nhìn không bị cản trở từ buồng lái máy bay chiến đấu, bầu trời ngày càng trong xanh hơn khi anh bay lên cao hơn. Những ngôi sao lấp đầy bầu trời đêm tỏa sáng rực rỡ, khi họ bay trên ba ngàn feet, những ngôi sao ngừng lấp lánh. Anh có thể nhìn thấy ánh đèn đêm nhấp nháy của máy bay thương mại ở phía xa, cũng như đường bờ biển của nửa tá quốc gia trên mặt đất. Jackson nghĩ, 1 đêm như thế này có thể biến một người nông dân thành nhà thơ. Vì chính những khoảnh khắc thế này mà anh trở thành phi công. Anh rẽ về phía tây, Sanchez theo sát phía sau. Jackson ngay sau đó nhận ra những đám mây xuất hiện tại hướng này. Anh không thể nhìn thấy nhiều ngôi sao trên bầu trời nữa
“Okay” Jackson ra lệnh “Nhanh chóng chụp ảnh nào”
Sỹ quan đánh chặn Radar (Radar Intercept Officer – RIO) kích hoạt hệ thống. Chiếc F-14D vừa được trang bị hệ thống radar mới Hughes được gọi là LPI (low probability of intercept – xác xuất đánh chặn thấp). Dù nó kém mạnh hơn hệ thống AWG-9 cũ, nhưng nhạy hơn và ít có khả năng bị máy bay đánh chặn của địch phát hiện hơn. Hệ thống quan sát tư trên xuống đã được cải thiện nhiều
“Bọn họ đây rồi” Walters báo cáo “Đội hình vòng tròn đẹp đấy”
“Có truyền gì không?”
“Mọi thứ tôi thấy đều có máy phát cả”
“Okay, chúng ta sẽ tuần tra thêm vài phút nữa”
Phía sau họ 50 dặm, một chiếc máy bay cảnh báo sớm trên không E-2C cũng vừa bay lên. Phía sau nó là 2 chiếc máy bay tiếp dầu KA-6 cùng nhiều máy bay chiến đấu khác cũng lên. Những chiếc máy bay tiếp dầu này sẽ nhanh chóng bay đến vị trí của Jackson để tiếp dầu cho máy bay của anh, để đảm bảo vị CAG ở trên không thêm 4 tiếng hơn nữa. Chiếc E-2C là quan trọng nhất. Nó bay hết tốc lực rồi, quay vòng về phía nam tới vị trí cách tàu sân bay 50 dặm. Khi đạt tới độ cáo 25.000 feet, radar tuần tra bật lên và 3 sỹ quan tác chiến trong phi hành đoàn bắt đầu phân loại các mục tiêu được quan sát. Dữ liệu này sẽ được gửi về tàu sân bay thông qua đường dây liên lạc kỹ thuật số và cả sĩ quan điều hành không quân của không đoàn thuộc tàu tuần dương lớp Aegis, USS Thomas Gates, thường đươc gọi là “Stetson”/ Mũ Cao Bồi
“Không có gì nhiều, thưa đội trưởng”
“Okay, chúng tôi đang tuần tra. Hãy bay thêm vài vòng và dùng đèn tìm kiếm” Jackson quay máy bay hơi chếch sang bên phải. Sanchez giữ vững đội hình
Chiếc Hawkaye phát hiện ra mục tiêu đầu tiên. Chúng bay gần như ngay phía dưới Jackson và 2 chiếc Tomcat, do đó nằm ngoài tầm radar
“Stetson, đây là Falson-2, chúng tôi phát hiện ra 4 máy bay không xác định, hướng 2-8-1, cách 100 dặm” khoảng cách được tính từ vị trí của TR
“IFF?”
“Không có gì. Tốc độ của họ là 400 độ cao 700, hướng 1-3-5”
“Thêm chi tiết” vị AWO nói
“Họ theo đội hình 4 ngón tay, Stetson” trinh sát trên máy bay Hawkaye nói “Dự báo chúng ta đang có 4 máy bay chiến đấu chiến thuật ở đây”
“Tôi đang có gì đó” Shredder báo cáo cho Jackson ngay lập tức “Phía dưới máy bay, trông có vẻ như 2 – không 4 máy bay, hướng phía đông nam”
“Của ai?”
“Không phải máy bay của chúng ta”
Tại trung tâm chiến đấu tàu TR, vẫn chưa ai hiểu chuyện gì đang diễn ra nhưng nhân viên tình báo của nhóm tàu đang làm tất cả để tìm hiểu. Những gì họ nhận được cho tới thời điểm này là hầu hết các kênh tin tức truyền hình vệ tinh đều sập, dù tất cả các kênh vệ tinh quân sự vẫn đang hoạt động bình thường. Một lần quét quang phổ điện tử khác cho thấy hầu hết các mạch tín hiệu video và đường dây điện thoại vệ tinh cũng bị tê liệt một cách khó hiểu. Những sỹ quan liên lạc thường quan tâm đến các kênh công nghệ cao, vì vậy họ đã yêu cầu một nhân viên điều hành đài hạng ba gợi ý những băng tần sóng ngắn. Cơ quan đầu tiên họ tìm thấy là BBC. Tin khẩn được ghi lại và gửi đến CIC. Giọng phát thanh viên BBC bình tĩnh khẳng định
“Theo Reuter, một vụ nổ hạt nhân đã diễn ra ở Miền trung nước Mỹ, Denver, Coloraydo” – người Anh luôn gặp khó khi phát âm tên các bang của Mỹ – “ đài truyền hình đã phát sóng cảnh đám mây hình nấm trên Denver qua truyền hình vệ tinh, kèm theo bản ghi âm cho biết một vụ nổ lớn đã xảy ra. Tín hiệu của đài truyền hình KOLD hiện đã bị gián đoạn và nỗ lực liên lạc với thành phố Denver qua điện thoại đã bị chặn. Cho đến nay, vẫn chưa có bình luận chính thức nào về vụ việc”
“Chúa ơi” ai đó thốt lên. Thuyền trưởng Richard nhìn nhân viên quanh phòng
“Chà, giờ thì chúng ta biết tại sao đang ở mức DEFCON-2. Cử thêm máy bay chiến đấu bay lên đi. F-18 bay phía trước, F-14 phía đuôi. Tôi muốn 4 A-6 chở B-61 và báo cáo ngắn gọn các mục tiêu SIOP. 1 phi đội F-18 trang bị tên lửa chống hạm và bắt đầu soạn thảo kế hoach Alpha Strike (Phản công Alpha) vào nhóm tàu chiến đấu Kuznetzov”
“Thuyền trưởng” loa tàu vang lên “Falcon báo cáo có 4 máy bay chiến thuật đang hướng về phía chúng ta”
Richards chỉ cần quay lại là nhìn thấy ngay tình hình trên màn hình chiến thuật cách đó 3 feet. 4 mục tiêu mới đang tiến đến theo đội hình chiến thuật chữ V ngược. Chiếc gần nhất đang cách chưa đến 20 dặm, dễ dàng trong tầm ngắm tên lửa không đối đất
“Chỉ thị Spade ngay lập tức xác định ID của máy bay đang đến”
* * * * * *
“…tiến gần và xác định danh tính” Lệnh đưa ra từ máy bay kiểm soát Hawkeye
“Rõ” Jackson xác nhận “Bud, tản ra”
“Rõ” Trung tá Sanchez nhẹ nhàng di chuyển cần điều khiển sang trái và kéo, tạo khoảng cách đội hình gọi là “Loose Deuce/ Sơ Tán”. Điều này cho phép hai máy bay chiến đấu hỗ trợ lẫn nhau mà không bị tấn công cùng một lúc. Sau khi anh tách ra, cả hai máy bay chúc xuống và lao hết tốc lực. Chỉ trong vài giây, chúng đã đạt đến tốc độ Mach-1
“Máy ảnh” Shredder hét lên “Tôi đang khởi động hệ thống TV”
Chiếc Tomcat này vừa được trang bị 1 hệ thống nhận diện đơn giản, gồm 1 chiếc máy quay TV với ống kính tele gấp 10 lần, hiệu ứng tốt cả ngày lẫn đêm. Trung uý Walters nối TV với hệ thống radar và vài giây sau anh nhìn thấy bốn chấm đang mở rộng nhanh chóng khi Tomcat đến gần. “Cấu hình Twin rudder”
“Falcon, đây là Spade. Thông báo cho Stick rằng chúng tôi có hình ảnh nhưng không có ID. Chúng tôi đang tiếp cận”.
Thiếu tá Pyotr Arabov không có cảm xúc gì hơn thường khi. Là một phi công huấn luyện, anh ta đang dạy 3 phi công Lybia thực hành điều hướng trên mặt nước vào ban đêm. Họ mới từ đảo Pantelleria của Ý 30 phút trước, và đang quay về Tripoli. Bay theo đội hình vào bên đêm là một bài học khó đối với những Lybia này, dù mỗi người họ đã có hơn 300 giờ bay và bay trên mặt nước là nguy hiểm nhất. May mà đêm nay trời trong xanh. Bầu trời đầy sao giúp họ có được vật thể tham khảo tốt theo chiều ngang. Arabov nghĩ, tốt hơn nên học phần dễ trước và học ở độ cao này. Vào một đêm nhiều mây, việc bay với tốc độ cao hơn ở độ cao thấp 100 mét trong đội hình chiến đấu thực sự sẽ vô cùng nguy hiểm. Ấn tượng của anh ta về kỹ năng bay của người Lybia cũng không tốt hơn ấn tượng về Hải quân Mỹ trong vài trường hợp, nhưng họ muốn học. Ngoài ra, là một quốc gia giàu có nhờ giàu mỏ, sau khi học được bài học từ người Iraq, đã quyết định rằng nếu họ cần một lực lượng không quân thì tốt nhất là họ phải được huấn luyện bài bản. Điều đó có nghĩa là Liên Xô sẽ bán được nhiều máy bay MiG-29 hơn, dù doanh số bán sang khu vực Israel đang suy giamr. Điều đó cũng có nghĩa là thiếu tá Arabov được trả công cao, một phần bằng ngay tiền mặt
Viên phi công hướng dẫn nhìn trái, nhìn phải để đảm bảo sao đội hình – chà, không thực sự chặt chẽ, nhưng cũng đủ gần. Vì có hai thùng nhiên liệu treo dưới mỗi cánh của máy bay nên việc di chuyển có vẻ hơi vụng về. Hơn nữa, mỗi bình xăng đều được trang bị các cánh tản nhiệt trông giống một quả bom hơn.
* * * * * *
“Họ đang mang theo thứ gì đó, thuyền trưởng. Chắc chắn là MiG-29”
“Được rồi” Jackson kiểm tra màn hình, rồi nói vào radio “Stick, Spade đây, over”
“Làm đi” đường dây radio kỹ thuật số cho phép Jackson nhận ra giọng của thuyền trưởng Richard
“Stick, chúng ta có ID của những máy bay này. 4 chiếc MiG-29. Có vẻ như đang mang hàng dưới cánh. Hướng, tốc độ và độ cao không đổi” 1 chút khoảng lặng
“Tiêu diệt địch”
Jackson ngẩng phắt đầu lên” Nói lại lần nữa, Stick”
“Spade, Stick đây: Tiêu diệt địch. Xác nhận đi”
Ông ấy gọi họ là “địch” Jackson nghĩ. Và ông ấy biết nhiều điều hơn mình
“Rõ. Chuẩn bị chiến đấu. Out” Jackson lại bấm vào radio “Bud, theo tôi”
“Cứt thật!” Shredder nhận xét “Đề nghị chúng ta phóng 2 Phoenix, 2 bên trái và 2 bên phải”
“Làm đi” Jackson trả lời, bật nút điều khiển vũ khí nằm ở đỉnh cần gas để chuyển thành chế độ AIM-54. Trung uý Walters lập trình tên lửa để radar giữ yên lặng cho cho đến khi họ cách tầm 1 dặm”
“Sẵn sàng. Tầm bắn feet 16.000. Tên lửa vào vị trí”
Màn hình phía trên đầu Jackson hiển thị biểu tượng chính xác. Một tiếng bíp trong tai nghe cho anh biết tên lửa đầu tiên đã sẵn sàng khai hỏa. Anh từ từ nhấn nút rồi dừng lại, chờ thêm 1 giây, rồi lại bấm
“Cứt thật!” Michael “Lobo” Alexander bay cách đó nửa dặm, chửi
“Anh đáng nhẽ phải rõ hơn chứ!” Sanchez vặc lại
“Bầu trời trong xanh quá. Tôi không còn thấy gì khác quanh chúng ta”
Jackson nhằm mắt lại, cố gắng hết sức để tránh luồng khí màu trắng vàng phóng ra từ đuôi tên lửa. Tên lửa nhanh chóng bay ra xa với vận tốc hơn 3000 dặm/giờ, gần 1 dặm/giây. Trong khi quan sát chúng bay về phía mục tiêu, Jackson đã điều chỉnh vị trí của máy bay để chuẩn bị cho lần phóng thứ hai nếu Phoenix thất bại.
* * * * * *
Arabov kiểm tra lại các thiết bị. Không có gì bất thường. Máy thu sóng những mối đe doạ cho thấy chỉ có radar phòng không, mặc dù một số dữ liệu đã biến mất vài phút trước đó. Ngoài ra, đây là một cuộc huấn luyện bay thông thường cực kỳ, bay theo chiều ngang đến một điểm cố định trên một đường thẳng. Máy thu mối đe doạ không xác định có bất kỳ radar LPI nào đang theo dõi anh ta và các phi công bay theo trong 5 phút vừa qua. Tuy nhiên, có thể phát hiện ra radar dẫn đường mạnh mẽ của tên lửa Phoenix.
Một ngọn đèn cảnh báo màu đỏ tươi chợt lóe lên, kéo theo đó là một tiếng động chói tai ù tai. Arabov nhìn xuống kiểm tra thiết bị. Chúng có vẻ bình thường, nhưng không phải- động tác tiếp theo của anh ta là quay đầu về phía sau. Kết quả là, vừa kịp nhìn thấy ánh sáng vàng từ vầng trăng khuyết và vệt khói phản chiếu ánh sao ma quái thì có một tia sáng lóe lên mạnh mẽ.
Tên lửa Phoenix nhằm thẳng vào máy bay bên phải phát nổ chỉ cách đó vài feet. Đầu đạn nặng 135 pound chứa đầy bầu không khí với những mảnh vụn vận tốc cao. Điều tương tự cũng xảy ra với chiếc bên trái. Không tràn ngập những đám mây trắng bốc lửa của nhiên liệu và các bộ phận của máy bay. 3 phi công thiệt mạng ngay lập tức trong vụ nổ. Arabov kịp phóng ghế, đẩy ra khỏi chiếc máy bay chiến đấu đang tan rã và chiếc dù của anh ta bung ra cách mặt biển chưa đầy 200 feet. Viên thiếu tá người Nga bất tỉnh trước cú sốc bất ngờ khi phóng ra, chỉ được cứu nhờ hệ thống dự đoán thương tật. Chiếc vòng cổ phồng lên giữ đầu anh ta trên mặt nước, một máy phát vô tuyến tần số siêu cao bắt đầu kêu cứu từ trực thăng cứu hộ gần nhất, và một ánh sáng nhấp nháy màu trắng xanh chói lóa bắt đầu lóe lên trong bóng tối.Xung quanh anh ta giờ chỉ còn có vùng xăng cháy và chả còn gì hơn
* * * * * *
Jackson chứng kiến toàn bộ quá trình này. Anh có lẽ đã thiết lập 1 kỷ lục bách phát bách trúng mọi thời đại. 4 máy bay bị hạ chỉ trong 1 loạt tên lửa. Nhưng lần này chẳng đòi hỏi kỹ năng nào hết. Giống như những nạn nhân Iraq, bọn họ còn không biết anh có mặt ở đó – cuộc chiến nào vây? Anh hỏi, có một cuộc chiến sao? – và anh thậm chí còn không biết tại sao
“Đã tiêu diệt 4 chiếc MiG” anh nói qua radio “Stick, Spade đây, đã diệt 4. Đang quay trở lại tuần tra trên không (CAP). Chúng tôi cần thêm nhiên liệu”
“Đã rõ, Spade. Các máy bay tiếp dầu đã ở trên không. Chúng tôi ghi nhận anh đã diệt 4 máy bay”
“Ừ, Spade, chuyện mịa gì đang diễn ra thế?” trung uý Walters hỏi
“Ước gì tôi cũng biết, Shredder” Mình chính là người bắn cú đầu tiên trong 1 cuộc chiến rồi! Mà cuộc chiến nào thế?
* * * * * *
Bất chấp lời gào thét, thực ra trung đoàn xe tăng cận vệ đã hoạt động xuất sắc hơn bất kỳ trung đoàn nào mà Keitel từng chứng kiến. Những chiếc xe tăng chiến đấu chủ lực T-80 trông hơi giống đồ chơi tháp pháo và thân được bọc thép và sơn phản chiếu, nhưng thực sự chúng là những chiếc xe tăng khung thấp trông rất ấn tượng, có nòng dài bắn cỡ đạn 125mm, không nghi ngờ gì về danh tiếng và hiệu suất. Một đội ba người đóng vai một đội kiểm tra đã hành động. Keitel chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm nhất khi đi cùng với trung đoàn trưởng. Keitel – giả danh “Đại tá Ivanenko”- nhìn đồng hồ khi đi bộ phía sau viên đại tá thật
Cách đó chỉ 200m, Günther Bock và 2 cựu sỹ quan Stasi (cảnh sát mật Đông Đức cũ) tiếp cận 1 đội tăng. Cả đội đang chuẩn bị lên xe tăng thì bọn họ tiến tới
“Dừng lại!” 1 người ra lệnh
“Vâng, đại tá” viên trung sỹ trẻ chỉ huy đội tăng trả lời
“Xuống đi. Chúng tôi sẽ kiểm tra phương tiện của các anh”
Viên chỉ huy, xạ thủ và lái xe tăng xếp hàng đứng trước phương tiện trong khi các đội khác đã lên xe. Bock đợi cho những chiếc xe tăng bên cạnh di chuyển, dùng ngay khẩu súng giảm thanh tự động giết chết 3 người Nga. 3 thi thể bị kéo lê xuống gầm chiếc xe tăng. Book ngồi vào ghế xạ thủ, và nhìn xung quanh các nút điều khiển mà hắn đã từng xem qua trước. Cách đó chưa tới 1200m, ngay bên góc phải chiếc xe tăng là hơn 50 chiếc xe tăng M1A1 của Mỹ cũng đang có chiến sỹ bước lên xe
“Khởi động” viên tài xế báo cáo qua hệ thống liên lạc nội bộ. Động cơ di gầm lên, cùng với các bộ phận khác trong xe
Bock nhẹ nhàng xoay công tắc tải sang chế độ đạn xuyên giáp thoát vỏ ổn định bằng cánh đuôi (Armor-Piercing Fin-Stabilized Discarding-Sabot – APFSDS – là một loại đạn xuyên động năng sử dụng để chống các loại xe tăng – xe thiết giáp hiện đại. Loại đạn này được trang bị trên các loại xe tăng chủ lực) rồi nhấn nút tải lên. Khóa nòng pháo chính của xe tăng tự động hạ xuống và mở ra, đầu tiên là đạn pháo, sau đó là nhiên liệu đẩy mạnh mẽ đẩy vào, khóa nòng lại tự động đóng lại. Bock nghĩ, chuyện thật dễ. Tiếp theo, hắn hạ ống ngắm xuống và chọn một chiếc xe tăng Mỹ, việc ngắm bắn không khó. Bãi xe tăng của Quân đội Hoa Kỳ, giống như tất cả các bãi đậu xe, đều có đèn sáng, giúp người ngoài dễ nhận diện. Máy đo khoảng cách bằng laser giúp xác định khoảng cách, và Bock đã nâng họng súng lên đúng tỷ lệ mà máy đo khoảng cách hiển thị. Tốc độ gió ước tính bằng 0, đêm nay thật yên ả. Bock nhìn đồng hồ, chờ đến khi kim giờ chỉ đúng số 12, rồi hắn bóp cò. Chiếc T-80 của Bock và ba chiếc xe tăng bên cạnh rùng mình lùi lại. Hai phần ba giây sau, quả đạn xuyên thủng tháp pháo của xe tăng Mỹ. Kết quả thật ấn tượng. Hắn đánh trúng khoang chứa bom ở phía sau tháp pháo. Bốn mươi viên thuốc súng được phát nổ đồng thời trong giây lát. Các mảnh thép nổ tung cùng với thuốc nổ, cửa chống cháy bảo vệ trong xe bị đạn pháo bắn tới làm nổ tung, và các đội lái xe tăng bên trong bị thiêu trụi ngay trên ghế cùng với chiếc xe trị giá hơn 2tr, cùng với hai chiếc xe tăng khác bên cạnh biến thành một ngọn núi lửa màu nâu và xanh lục.
Cách đó 100m về phía bắc, viên chỉ huy trung đoàn sửng sốt chết đứng, quay đầu nhìn tiếng pháo phát ra
“Chuyện gì đang xảy ra thế này?” ông ta cố gắng gào to lên, trước khi Keitel bắn thẳng phía sau
Lúc này Bock đã bắn quả đạn thứ hai vào hộp động cơ của một chiếc xe tăng khác và đang nạp quả đạn thứ ba, 7 chiếc xe tăng M1A1 đã bốc cháy trước khi pháo thủ Mỹ đầu tiên kịp nạp đạn. Theo lệnh, tháp pháo khổng lồ quay lại. Bock nhìn thấy tháp pháo đang quay và hướng súng về phía mình. Quả đạn của hắn lệch xa về bên trái nhưng lại bắn trúng một chiếc xe tăng Abram khác ở phía sau. Đạn đại bác của Mỹ bắn quá cao vì các xạ thủ quá hưng phấn. Người Mỹ ngay lập tức nạp đạn thứ hai, lần này đánh trúng chiếc T-80 thứ hai ở phía nam Bock. Günther quyết định thả xe tăng Mỹ đi.
“Chúng tôi đang bị tấn công- ra lệnh bắn, bắn!” viên chỉ huy xe tăng “Liên Xô” gào lên trong hệ thống liên lạc
Keitel chạy tới xe chỉ huyy “Tôi là đại tá Ivanenko. Chỉ huy của các anh đã chết – di chuyển! Hãy giết mấy thằng khốn điên khùng này trong khi chúng ta vẫn trung đoàn!”
Viên sỹ quan nhận lệnh do dự, không biết chuyện gì đang xảy ra, chỉ nghe được tiếng pháo. Nhưng mệnh lệnh được 1 vị đại tá đưa ra. Anh ta nhấc radio, quay số đường dây chỉ huy của trung đoàn và truyền lệnh
Trong lúc anh ta do dự, có ít nhất 10 xe tăng Mỹ bốc cháy nhưng 4 chiếc đang bắn trả. Ngay lập tức, toàn bộ tuyến phòng thủ Liên Xô đồng loạt nổ súng tiêu diệt 3 xe tăng Mỹ đang hoạt động. Xe tăng phía sau hàng xe tăng đầu tiên bắt đầu khai hỏa qua màn khói và lần lượt di chuyển, chủ yếu là rút lui vì xe tăng Liên Xô bắt đầu lao tới. Keitel ngưỡng mộ nhìn những chiếc xe tăng T-80 của Liên Xô xuất phát. 7 trong số đó vẫn ở nguyên vị trí, 4 chiếc bốc cháy. 2 chiếc nữa phát nổ trước khi vượt qua lằn ranh trước kia từng là bức tường ngăn cách Đông Tây
Keitel nghĩ, chỉ riêng khoảnh khắc này cũng đáng giá. Bất kể Günther có kế hoạch gì trong đầu thì cũng đáng để xem Nga và Mỹ giết lẫn nhau
* * * * * *
Tướng Joshua Painter đã đến trụ sở C IN CL ANT ngay lúc nhân được cuộc gọi từ tàu Theodore Roosevelt
“Ai đang chỉ huy ở đó?”
“Sir, chỉ huy nhóm tàu đã bay đến Naplé. Sỹ quan cao cấp nhất hiện giờ là Thuyền trưởng Richards” Sỹ quan tình báo của hạm đội trả lời “Ông ấy nói có 4 chiếc MiG trang bị vũ khí bay về phía họ, vì chúng ta đang ở báo động mức DEFCON-2 nền ông ấy đã coi họ như là mối đe doạ tiềm năng với hạm đội và ra lệnh tiêu diệt”
“Mấy chiếc MiG này là cuả ai?”
“Có thể xuất phát từ tàu sân bay Kuznetzov, sir”
“Đợi 1 chút- cậu nói là báo động DEFCON-2?”
“TR đang ở phía đông Malta bây giờ, sir, áp dụng SIOP” Sỹ quan phụ trách chiến đấu của Hạm đội nhấn mạnh
“có ai biết chuyện gì đang xảy ra không?”
“Tôi chắc là chả ai biết gì” viên sỹ quan phụ trách tình báo của hạm đội trung thực trả lời
“Cho tôi nói chuyện thẳng với Richards” Painter yên lặng 1 chút “Tình trạng hạm đội giờ thế nào?”
“Tất cả các tàu được lệnh ra khơi, sir. Theo đúng quy trình tự động tiến hành”
“Nhưng tại sao chúng ta lại đang áp dụng cảnh báo phòng thủ DEFCON-3 ở đây?”
“Sir, họ không giải thích lý do”
“Vớ vẩn” Painter kéo chiếc áo len qua đầu và gọi cà phê
“Roosevelt đang trên đường dây số 2, sir” hệ thống nội bộ thông báo. Painter nhấnvaof nút và đặt điện thoại ở chế độ loa ngoài
“Đây là C IN CL ANT” (Tổng tư lệnh Bộ Tư lệnh Đại Tây Dương)
“Tôi là Richards, sir”
“Chuyện gì đang xảy ra?”
“Sir, chúng tôi vừa bước vào cảnh báo phòng thủ DEFCON-2 được 15 phút. Một nhóm máy bay MiG-29 đang tiếp cận và tôi đã ra lệnh bắn hạ”
“Tại sao?”
“có vẻ như họ được trang bị vũ khí, sir và chúng tôi có bản copy trên radio về vụ nổ đó”
Painter cảm thấy rùng mình “Vụ nổ nào?”
“Sir, BBC đưa tin có vụ nổ hạt nhân ở Denver. Họ nói đài truyền hình địa phương nơi xuất phát bản tin này giờ đang mất tín hiệu. Vì thông tin này, tôi đã ra lệnh bắn. Hiện tôi là sỹ quan chỉ huy hàng đầu ở đây. Nhóm tàu chiến đấu của tôi ở đây. Sir, trừ khi ngài có thêm câu hỏi nào, tôi đang có việc cần làm”
Painter biết ông không nên tranh cãi tiếp “Hãy sử dụng bộ não, Ernie. Sử dụng cmn não đi”
“Vâng, rõ, sir. Out” đường dây ngắt
“Vụ nổ hạt nhân?” viên sỹ quan tình báo của hạm đội hỏi lại
Painter gọi đến đường dây nóng của Trung tâm Chỉ huy Quân sự Quốc gia (National Military Command Center – NMCC). Lần này ông nhấc điện thoại lên “Tôi là C IN CLANT”
“Đại tá Rosselli, sir”
“Chúng ta vừa có một vụ nổ hạt nhân?”
“Xác nhận, sir. Tại vùng Denver. NORAD đang ước đoán hàng trăm tấn thuốc nổ và thương vong rất cao. Hiện tại đó là tất cả thông tin chúng tôi biết. Thông tin chưa được tiết lộ ra công chúng”
“Chà, vậy để tôi nói cho anh 1 tin khác: Theodore Roosevelt vừa đánh chặn và bắn hạ 4 máy bay MiG-29 đang tiếp cận. Hãy cập nhật thông tin cho tôi ngay khi anh có tin nào khác. Trừ khi tôi nhận được mệnh lệnh khác, nếu không tôi sẽ ra lệnh mọi con tàu lao ra biển”.
Bob Fowler đã uống cốc cà phê thứ 3, đang tự chửi mình vì 4 cốc bia đã uống, loại bia Đức mạnh cứ như thể ông ta là ai đó dạng Archie Bunker (1 nhân vật trong bộ phim truyền hình Mỹ), và ông ta đang sợ những người ở đây để ý đến hơi thở có cồn. Lý trí mách bảo suy nghĩ của ông ta ít nhiều đang bị ảnh hưởng bởi chất cồn nhưng ông ta cho rằng mình đã uống cách đây hơn 1 giờ và quá trình trao đổi chất tự nhiên cộng thêm cà phê có khi đã loại bỏ 1 phần hoặc toàn bộ bia rồi
Lần đầu tiên trong đời, ông ta cảm thấy may khi người vợ Marion đã qua đời. Ông từng ở bên cạnh giường bà chứng kiến người vợ thân yêu chết đi. Ông biết cảm giác đó đau đớn và khốn khổ đến mức nào và giờ đây, ông tự nhủ, sự mất mát rất nhiều sinh mạng ở Denver thật kinh khủng, nhưng ông phải gạt điều đó sang một bên, phải tập trung ngăn chặn có thêm nhiều người chết
Fowler tự nhủ, cho đến nay mọi chuyện vẫn tốt đẹp. Ông ta thực hiện các biện pháp quyết liệt để nhanh chóng ngăn chặn tin tức lan truyền. Ông ta không cần phải có thêm chuyện cả nước hoảng sợ nữa. Quân đội hiện đang ở mức cảnh giác cao hơn nhằm ngăn chặn hoặc đẩy lùi một cuộc tấn công khác trong thời kỳ bất ổn thế này
“Được rồi” ông ta nói qua đường dây kết nối với NORAD và SAC “Hãy tổng hợp thông tin cho tới thời điểm này”
NORAD trả lời “Sir, chúng ta vừa có 1 vụ nổ hạt nhân riêng lẻ với sức công phá hàng kiloton. Vẫn chưa có báo cáo gì từ hiện trường. Các lực lượng của chúng tôi được đặt trong tình trạng báo động cao. Các kênh liên lạc bằng vệ tinh vẫn đang ngắt…”
“Tại sao?” Elizabeth Elliot hỏi bằng giọng sắc bén hơn Fowler nhiều “Điều gì dẫn đến chuyện đó?”
“Chúng tôi không biết. 1 vụ nổ hạt nhân trong không gian có thể gây ra hiệu ứng này thông qua các xung điện từ. Khi 1 thiết bị hạt nhân nổ tại độ cao lớn, hầu hết năng lượng được giải phóng dưới dạng bức xạ điện từ. Người Nga biết nhiều hơn về các hiệu ứng từ những vụ nổ kiểu này hơn chúng ta; họ đã thu thập được 1 số lượng lớn dữ liệu thực nghiệm từ những thí nghiệm tại Novaya Zemlya những năm 1960. Nhưng chúng tôi không có bằng chứng về 1 vụ nổ kiểu thế này và nếu có thì chúng tôi đã nhận ra. Vì vậy, hầu như không có khả năng hiện có một vụ tấn công hạt nhân lên các vệ tinh. Khả năng tiếp theo là năng lượng điện từ khổng lồ được phát ra từ mặt đất. Giờ đây, người Nga đã đầu tư rất nhiều tiền vào việc nghiên cứu vũ khí vi sóng. Họ có 1 con tàu hoạt động ở Đông thái Bình Dương với rất nhiều ăng ten. Tên nó là Yuri Gagarin, được phân loại là tàu hỗ trợ thám hiểm không gian, có 4 ăng ten khuếch đại cao. Con tàu đó hiện đang cách bờ biển Peru 300 dặm, trong tầm của những vệ tinh đang hỏng. Theo suy thì con tàu này đang hỗ trợ các hoạt động trên trạm không gian Mir. Ngoài điều này ra, chúng tôi không thể nghĩ ra bất kỳ lý do nào khác có thể khiến vệ tinh bị hỏng.Tôi đã cử 1 sỹ quan tới nói chuyện với cơ quan không gian Hughes Aerospace để tham khảo ý kiến
“Được rồi, chúng tôi vẫn đang lấy băng ATC (băng kiểm soát không lưu) từ Staple-ton để xem có máy bay nào thả quả bom đấy không và chúng tôi đang đợi thông tin từ đội cứu hộ và các đội khác hiện đang đến hiện trường vụ nổ. Đến giờ chúng tôi mới chỉ có được những thông tin đó”
“Chúng tôi đang có 2 không đoàn cất cánh và sẽ có thêm máy bay cất cánh khi chúng ta đang nói chuyện” vị C in C-SAC (Tổng tư lệnh Lực lượng Không quân Chiến lược) nói tiếp “Tất cả các đơn vị tên lửa đều đang trong trạng thái báo động. Vị phó C in C (Phó Tổng tư lệnh) đã lên máy bay tới Looking Glass Auxiliary West và1 máy bay Kneecap khác đang trên đường tới đón ngài, sir”
“Chuyện gì đang xảy ra ở Liên Xô?”
“Bộ quốc phòng bên Liên Xô cũng tăng cấp độ báo động, như chúng ta đã thảo luận” tướng Borstein trả lời “Chún tôi thu được các hoạt động radio tăng nhưng chưa phân loại được. Không có dấu hiệu gì cho thấy có 1 cuộc tấn công vào Hoa Kỳ”
“Được rồi” Tổng Thống thở ra. Tình hình tồi tệ, nhưng vẫn không mất kiểm soát. Tất cả những gì ông ta phải làm là ổn định lại tình hình, rồi có thể tiến tiếp “Tôi sẽ mở 1 đường dây trực tiếp tới Moscow”
“Rất tốt, sir” NORAD trả lời
1 trung sỹ trưởng phụ trách văn thư của hải quân ngồi cách tổng thống Fowler 2 ghế. Máy tính đã sáng đèn “Ngài đi lối này, thưa tổng thống” vị trung sỹ trưởng nói “Tôi không thể chuyển thông tin từ máy tính của tôi sang của ngài”
Fowler trượt chiếc ghế của mình đến bàn của viên trung sỹ
“Sir, đây là cách đường dây hoạt động. Tôi đánh chữ những gì ngài nói ở đây, và nó sẽ chuyển qua các máy tính của NMCC tại Lầu Năm Góc – tất cả những gì họ làm sẽ là mã hoá nó – và nếu người Nga trả lời, nó sẽ đến với Phòng đường Dây Nóng tại Nga, được dịch tại đó và rồi chuyển tới Lầu Năm Góc. Có 1 hệ thống dự phòng tại Fort Ritchie trong trường hợp xảy ra sai sót tại D.C Chúng ta có cả đường dây mặt đất và 2 đường dây liên lạc qua vệ tinh riêng biệt. Sir, tôi có thể đánh chữ n